Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tiếng vinh dưới góc nhìn của phương ngữ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH






TRẦN THỊ HẢI YẾN




TIẾNG VINH DƯỚI GÓC NHÌN
CỦA PHƯƠNG NGỮ XÃ HỘI




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN








NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH






TRẦN THỊ HẢI YẾN




TIẾNG VINH DƯỚI GÓC NHÌN
CỦA PHƯƠNG NGỮ XÃ HỘI

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN



NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN


Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự cố gắng của bản thân phải kể đến

sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo, Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nguyên, sự động viên,
giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ, khoa Sư phạm Ngữ văn
cũng như các bạn học viên lớp Cao học khoá 20, chuyên ngành Ngôn ngữ học và
gia đình.
Nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và
người thân, đặc biệt là thầy giáo, TS. Nguyễn Hoài Nguyên đã tạo điều kiện giúp
đỡ em hoàn thành luận văn này.
Do thời gian hạn hẹp, trình độ nghiên cứu khoa học còn nhiều hạn chế nên
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các thầy cô
giáo và các bạn quan tâm vấn đề này để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Nghệ An, tháng 10 năm 2014

Tác giả


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5
5. Đóng góp của luận văn 7
6. Bố cục luận văn 7
Chương 1. CỞ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 8
1.1. Các vùng phương ngữ trong tiếng Việt 8
1.1.1. Phương ngữ và phương ngữ tiếng Việt 8
1.1.2. Các vùng phương ngữ tiếng Việt 11

1.2. Phương ngữ Nghệ Tĩnh 12
1.2.1. Sự hình thành phương ngữ Nghệ Tĩnh 12
1.2.2. Đặc trưng phương ngữ Nghệ Tĩnh 14
1.3. Ngôn ngữ học xã hội 16
1.3.1. Sự ra đời của ngôn ngữ học xã hội 16
1.3.2. Biến thể ngôn ngữ và cộng đồng nói năng 17
1.3.3. Ứng dụng ngôn ngữ học xã hội vào nghiên cứu tiếng Vinh 19
1.4. Địa bàn thành phố Vinh và tiếng Vinh 20
1.4.1. Vài nét về địa bàn thành phố Vinh 20
1.4.2. Quan niệm về tiếng Vinh và cách tiếp cận tiếng Vinh 23
1.5. Tiểu kết chương 1 25
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM TIẾNG VINH TỪ GÓC NHÌN PHƯƠNG NGỮ
XÃ HỘI 26
2.1. Một vài đặc điểm của ngôn ngữ thành thị 26
2.2. Cách tiếp cận ngôn ngữ thành thị 28
2.3. Tiếng Vinh trong từng độ tuổi 30
2.3.1. Độ tuổi từ 3 tuổi đến dưới 20 tuổi 30
2.3.2. Độ tuổi từ 21 đến 40 tuổi 31
2.3.3. Độ tuổi từ 40 đến dưới 60 tuổi 32
2.3.4. Độ tuổi từ 61 tuổi trở lên 33
2.4. Thời gian định cư ở Vinh 34
2.4.1. Nhóm có thời gian định cư 40 năm trở lên và những người
được sinh ra và lớn lên ở Vinh 34
2.4.2. Nhóm có thời gian định cư ở Vinh 20-40 năm 35
2.4.3. Nhóm có thời gian định cư ở Vinh dưới 20 năm 35
2.5. Tiếng Vinh gắn với các nghề nghiệp 37
2.5.1. Những người làm ruộng 37
2.5.2. Những người buôn bán, tiểu thương 38
2.5.3. Công nhân, công chức, kĩ thuật viên 38
2.5.4. Tầng lớp trí thức 38

2.6. Tiếng Vinh gắn với trình độ văn hóa 39
2.7. Tiếng Vinh gắn với giới tính 40
2.8. Tiếng Vinh gắn với quê quán gốc 43
2.9. Tiểu kết chương 2 44
Chương 3. TIẾNG VINH TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIẾNG VIỆT
VĂN HÓA 48
3.1. Các biến thể của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh 48
3.1.1. Biến thể ngữ âm 48
3.1.2. Biến thể từ vựng 84
3.1.3. Biến thể ngữ pháp 91
3.1.4. Biến thể phong cách 91
3.2. Xu thế phát triển của tiếng Vinh 92
3.2.1. Các điều kiện chi phối sự phát triển của tiếng Vinh 92
3.2.2. Vai trò văn hoá - xã hội của tiếng Vinh 94
3.2.3. Xu thế phát triển của tiếng Vinh 94
3.3. Tiểu kết chương 3 95
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Các yếu tố nguyên âm tính trong vần cái tiếng Vinh 58
Bảng 3.2. Các yếu tố kết vần trong vần cái tiếng Vinh 59
Bảng 3.3. Hệ thống vần mở tiếng Vinh 62
Bảng 3.4. Vần nửa mở trong tiếng Vinh 63
Bảng 3.5. Vần nửa khép và vần khép trong tiếng Vinh 65
Bảng 3.6. Hệ thống thanh điệu tiếng Việt văn hoá 72
Bảng 3.7. Tương ứng thanh điệu tiếng Vinh và tiếng Việt văn hoá 82







1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất, nhưng thống nhất trong sự đa dạng.
Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt nhưng cũng đồng thời là ngôn ngữ
quốc gia - ngôn ngữ chung của 54 dân tộc anh em trên cộng cư trên lãnh Việt
Nam. Do đó, trong bản chất của nó, tiếng Việt phải là ngôn ngữ thống nhất,
vượt lên mọi thời gian, không gian. Nhưng thống nhất không có nghĩa là đồng
nhất. Ở mặt biểu hiện, cũng như những ngôn ngữ khác, tiếng Việt hết sức đa
dạng. Tính đa dạng của tiếng Việt thể hiện ở nhiều mặt: ở phong cách thể
hiện, ở hiệu quả biểu hiện, ở tính phân tầng xã hội - lớp người sử dụng, ở khu
vực địa lý - dân cư thể hiện. Có lẽ, tính đa dạng của tiếng Việt biểu hiện ở khu
vực địa lý - dân cư là rõ nét nhất. Sự biểu hiện của tiếng Việt xét trên phương
diện này được gọi là tiếng địa phương hay phương ngữ. Tất nhiên, trong sự
thống nhất và đa dạng của tiếng Việt thì sự thống nhất là căn bản. Tiếng Việt
từ xa xưa đã là một ngôn ngữ thống nhất và tính thống nhất ấy còn được duy
trì chặt chẽ trong ngôn ngữ văn học mà các nhà văn tôn trọng một cách có ý
thức dù họ là người ở địa phương nào, nói phương ngữ nào. Các phương ngữ
cũng không hề cản trở đến giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, dù
đi đâu, nói với ai, ta cũng dùng giọng địa phương, sử dụng phương ngữ của
mình mà không hề gặp một trở ngại nào. Điều đó chứng tỏ sự khác biệt của
các phương ngữ và giữa các phương ngữ so với tiếng Việt toàn dân là không
lớn lắm; đó là sự khác biệt trên một căn bản thống nhất. Lại nữa, chính tả
tiếng Việt là thống nhất toàn quốc và sự thống nhất về mặt chính tả cũng phần
nào phản ánh về tính thống nhất của tiếng Việt.

Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong cộng đồng dân
cư tại một vùng miền trên lãnh thổ một quốc gia. Hầu hết các ngôn ngữ trên

2
thế giới đều có phương ngữ. Tuy nhiên, số lượng phương ngữ và mức độ khác
biệt giữa các phương ngữ với nhau cũng như giữa các phương ngữ với ngôn
ngữ toàn dân ở các ngôn ngữ là không như nhau. Sự hình thành và tồn tại của
phương ngữ tùy thuộc vào điều kiện về phân bố địa lý, lịch sử phát triển văn
hóa, xã hội, ngôn ngữ và đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán
của từng quốc gia. Tiếng Việt là ngôn ngữ gồm nhiều phương ngữ. Tính đa
dạng của tiếng Việt thể hiện ở sự hành chức qua các phương ngữ, thổ ngữ.
Tiếng Việt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Vinh, Huế, Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh, lâu nay được gọi là bán phương ngữ.
Do đặc điểm lịch sử - xã hội của thành phố Vinh, việc nghiên cứu tiếng
Vinh có lẽ khó thực hiện bằng các phương pháp của phương ngữ học tiếng
Việt truyền thống. Hướng miêu tả tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh gắn
liền với kiểu phân tầng xã hội - lớp người sử dụng là một trong những hướng
triển khai có phạm vi nghiên cứu phù hợp hơn.
Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông
đại chúng, sự thuật lợi trong giao lưu giữa các vùng miền trong cả nước
cùng với những ảnh hưởng tích cực của nhà trường nên một sự tự vận động
hòa nhập các phương ngữ, thổ ngữ vào tiếng Việt hóa, hướng đến một ngôn
ngữ quốc gia thống nhất đang là một thực tế trong xã hội. Tiến trình thống
nhất và chuẩn hóa tiếng Việt đã và đang xảy ra cùng với kết quả của nó là sự
giải thể dần của các thổ ngữ và sự hoà nhập của các phương ngữ vào ngôn
ngữ toàn dân. Phạm vi hoạt động của thổ ngữ đang lùi dần vào gia đình và
giữa những người có tuổi. Do đó, khi nghiên cứu phương ngữ xét ở bất cứ
góc độ nào cũng là hết sức cần thiết và cấp bách. Phương ngữ Nghệ Tĩnh
(PNNT) nói riêng, các phương ngữ Việt nói chung, nhất là những phương
ngữ đã để lại một di sản văn hóa đặc sắc như PNNT cần được nghiên cứu

đầy đủ, tỉ mỉ và nghiêm túc, không vì một mặc cảm nào bởi nghiên cứu

3
phương ngữ nhưng PNNT sẽ góp phần soi sáng nhiều vấn đề về phương ngữ
học Việt, cung cấp số liệu cần thiết để góp phân thêm vào công việc nghiên
cứu lịch sử tiếng Việt.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Miêu tả các biến thể xã hội của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh
theo các tiêu chí tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, quê quán gốc, thời gian định
cư ở Vinh, vừa làm sáng tỏ các biến thể xã hội của tiếng Việt trên địa bàn
thành phố Vinh hôm nay (đồng đại), vừa miêu tả được quá trình phát triển của
tiếng Vinh dưới ảnh hưởng, của những biến động lịch sử - xã hội của thành
phố Vinh ở các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách và các hành
vi ứng xử ngôn từ khác (lịch đại).
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về phương ngữ Nghệ Tĩnh
- Hiện tại, một số công trình nghiên cứu, ở một mức độ nhất định đã
khảo sát phương ngữ Nghệ Tĩnh (PNNT). Chẳng hạn, Tiếng Việt trên các miền
đất nước của Hoàng Thị Châu (1989), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt của
Nguyễn Tài Cẩn (1995), đã sử dụng tư liệu của PNNT để nghiên cứu lịch sử
tiếng Việt. Các công trình như Phương ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang
(1995), Hệ thống ngữ âm của tiếng Sài Gòn của Huỳnh Công Tín (1999),
cũng đã dùng các tư liệu PNNT làm đối tượng so sánh đối chiếu, v.v
- Đã có các công trình từ điển PNNT như Từ điển tiếng địa phương
Nghệ Tĩnh của nhóm tác giả do GS. Nguyễn Nhã Bản chủ biên (1999); Từ
điển tiếng Nghệ của Trần Hữu Thung - Thái Kim Đỉnh (1998); Từ điển tiếng
Nghệ Tĩnh của Nguyễn Ngọc Lập - Nguyễn Thuý Nga (2013).
- Phương ngữ Nghệ Tĩnh trở thành đối tượng nghiên cứu cho ba luận án
Tiến sĩ Ngữ văn: Những đặc điểm ngữ âm giọng Nghi Lộc của Võ Xuân Quế
(1993); Nghiên cứu đặc điểm lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh của Hoàng Trọng


4
Canh (2002); Miêu tả đặc trưng ngữ âm phương ngữ Nghệ Tĩnh của Nguyễn
Văn Nguyên (2003). Các luận án của Ngô Văn Cảnh (2004), Nguyễn Thị Mai
Hoa (2009), qua khảo sát các thể thơ dân gian, Hát phường vải cũng đã phần
nào làm nổi bật đặc điểm ngôn từ PNNT.
- Có nhiều bài báo của GS. Nguyễn Nhã Bản, Hoàng Trọng Canh,
Nguyễn Hoài Nguyên, viết về ngữ âm và từ vựng PNNT.
2.2. Những nghiên cứu về tiếng Vinh
- Từ lâu, tiếng Vinh đã được các nhà ngữ học nước ngoài quan tâm
nghiên cứu. Trong những nghiên cứu của L. Cadiere (1902, 1911), H.
Maspero (1912), M.V. Gordina và I.S. Bystrov (1970), L.C. Thompson
(1965),… các tác giả đã có những nhận xét về tiếng Vinh.
- Trong các công trình của Hoàng Thị Châu (1989), Hoàng Trọng Canh
(2002), Nguyễn Văn Nguyên (2003), v.v., một vài bình diện của tiếng Vinh
cũng đã được các tác giả miêu tả và bàn luận.
Cho đến nay, tiếng Vinh vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống. Do đó, đặt vấn đề nghiên cứu tiếng Vinh dưới góc độ ngôn ngữ học xã
hội là có tính thời sự khoa học.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là miêu tả các biến thể xã hội của
tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh theo các tiêu chí tuổi tác, giới tính,
nghề nghiệp, quê quán gốc, thời gian định cư ở Vinh, vừa làm sáng tỏ các
biến thể xã hội của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh hôm nay (đồng
đại), vừa miêu tả được quá trình phát triển của tiếng Vinh dưới ảnh hưởng,
của những biến động lịch sử - xã hội của thành phố Vinh ở các bình diện
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách và các hành vi ứng xử ngôn từ khác
(lịch đại).


5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phương ngữ Nghệ Tĩnh từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu cho
các khoá luận, luận văn, luận án tốt nghiệp đại học và sau đại học cho các
sinh viên, học viên Trường đại học Vinh và các trường đại học khác. Tuy
nhiên, để đi sâu vào đặc điểm ngôn ngữ của một vùng cụ thể trong PNNT thì
chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì vậy, chưa thể nhìn nhận bức tranh
PNNT một cách chi tiết từng vùng.
Ngôn ngữ đô thị là một trong những đối tượng đang được nhiều nhà
nghiên cứu tìm hiểu. Để có cái nhìn tương đối toàn diện và chi tiết về PNNT
nói chung và ngôn ngữ đô thị trong PNNT nói riêng cần có nhiều công trình
nghiên cứu chi tiết từng khu vực trên địa bàn và đô thị Vinh.
Với ý tưởng như vậy, chúng tôi đã đặt ra nhiệm vụ của luận văn giải
quyết các vấn đề sau: Từ những lý thuyết của phương ngữ học tiếng Việt,
luận văn xác định những cách tiếp cận của phương ngữ thành thị. Tiến hành
miêu tả các biến thể của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh từ góc nhìn
phương ngữ xã hội nhằm làm nổi rõ quá trình phát triển của tiếng Vinh trong
diễn trình tiếng Việt.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để tiến hành nghiên cứu tiếng Vinh, trước hết chúng tôi chọn một số
phường, xã trên địa bàn thành phố; những phường, xã có phân bố dân cư
tương đối đặc trưng làm điểm khảo sát và miêu tả. Việc chọn địa điểm điều
tra, chúng tôi dựa trên 2 căn cứ: Một là, dựa vào cảm nhận của người địa
phương đó có tiếng nói đặc biệt hơn cả; Hai là, dựa vào đặc điểm địa lý, lịch
sử, dân cư. Chúng tôi chọn những phường xã là những trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa, những xã có nhiều người là dân gốc sinh sống. Dựa trên cơ
sở đó, chúng tôi đã chọn 5 đơn vị phường xã điều tra với 100 đối tượng được
phỏng vấn.


6
Tư liệu còn được thu thập từ các công trình nghiên cứu đã công bố, các
công trình từ điển, tư liệu cá nhân của thầy hướng dẫn.
Trong việc xử lý đề tài, người viết thu thập tài liệu nghiên cứu đã công
bố của các tác giả đi trước về các lĩnh vực miêu tả ngữ âm học, âm vị học,
phương ngữ học, lịch sử tiếng Việt cùng với những tư liệu khác về ngôn ngữ
học. Đặc biệt, chúng tôi được sử dụng tư liệu cá nhân (chưa công bố) của thầy
hướng dẫn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ những khảo sát thực tế về cách
phát âm của người Vinh gắn với đặc điểm giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và
sự ảnh hưởng của nó với điểm ngôn ngữ của người dân sống ở đô thị Vinh.
Để thực hiện được mục tiêu này, chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra
ngôn ngữ học để thu thập tư liệu. Sau đó, dùng các thủ pháp phân tích, miêu
tả, tổng hợp để xử lý vấn đề và dùng phương pháp so sánh đối chiếu nhằm
làm nổi bật đặc trưng tiếng Vinh trong PNNT nói riêng, tiếng Việt văn hóa
(TVVH) nói chung.
Do không có điều kiện sử dụng máy móc thực nghiệm nên trong quá
trình xứ lý đề tài này chúng tôi dựa trên phân tích bằng thính giác dựa trên
cảm thức của người bản ngữ. Việc thu thập và xử lý số liệu, chúng tôi dùng
bằng phương pháp quan sát trực tiếp bằng tai thường. Đây là phương pháp
quan trọng và hiệu quả, bởi vì, theo GS. Đoàn Thiện Thuật: “Trong ngôn
ngữ người ta không cần biết đến những số liệu tuyệt đối mà chỉ cần đến
những giá trị có được do sự so sánh giữa các âm mà thôi. Mặt khác, nếu có
chút chủ quan nào thì trong giao tiếp bằng lời của con người, ấn tượng chủ
quan của người nghe nhất là đối với tiếng mẹ đẻ lại đóng vai trò quyết định
và như vậy việc quan sát trực tiếp so với quan sát bằng ký cụ lại là quan
trọng hơn” [57, tr.17].

7

5. Đóng góp của luận văn
Từ hướng tiếp cận phương ngữ xã hội, luận văn tiến hành cả những
miêu tả đồng đại và lịch đại: miêu tả các biến thể xã hội của tiếng Vinh hôm
nay, đồng thời miêu tả quá trình phát triển của tiếng Vinh dưới ảnh hưởng của
những biến động lịch sử - xã hội, trong sự phát triển chung của tiếng Việt.
Các kết quả của luận văn, một mặt giúp nhận diện những đặc trưng của tiếng
Vinh, mặt khác, ở một mức độ nhất định, góp thêm tư liệu lịch sử để lí giải
những vấn đề lịch sử tiếng Việt.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí thuyết của đề tài
Chương 2. Đặc điểm tiếng Vinh từ góc nhìn phương ngữ xã hội
Chương 3. Tiếng Vinh trong sự phát triển của tiếng Việt văn hoá


8
Chương 1
CỞ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Các vùng phương ngữ trong tiếng Việt
1.1.1. Phương ngữ và phương ngữ tiếng Việt
1.1.1.1. Khái niệm phương ngữ
Biến thể và dạng tồn tại của ngôn ngữ được sửu dụng với tư cách là
phương tiện giao tiếp trên một khu vực địa lý - dân cư, trước đây các nhà
phương ngữ học gọi là phương ngôn (theo cách dùng của người Trung
Quốc). Nhưng do thuật ngữ phương ngôn trong tiếng Việt được dùng để chỉ
tục ngữ địa phương (trong văn học dân gian) nên dùng thuật ngữ ngày dễ
gây hiểu nhầm. Các tác giả Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn
Quang Ninh dùng thuật ngữ phương ngôn để nhấn mạnh: “Phương ngôn

không phải là một ngôn ngữ riêng biệt, mà là những chi thể địa phương của
một ngôn ngữ thống nhất (vì thế chúng tôi không dùng phương ngôn, e gây
hiểu nhầm)” [54, tr.51].
Tổ hợp tiếng địa phương cũng được một số nhà ngữ học dùng như hình
thức cấu tạo của tổ hợp này không chặt chẽ nên không đáp ứng được yêu cầu
của thuật ngữ. Cũng có nhà ngữ học dùng khái niệm giọng hay giọng địa
phương (dân gian gọi là giọng Bắc, giọng Nam ) nhưng giọng chỉ nhấn
mạnh mặt ngữ âm, không bao quát được mọi biến dạng của ngôn ngữ. Vậy
nên, phù hợp hơn cả là dùng thuật ngữ phương ngữ (dialect). Có thể dẫn ra
một số cách hiểu về khái niệm phương ngữ:
Hoàng Thị Châu: “Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để
chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những
nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một địa phương
khác” [11, tr.29].

9
Vương Toàn: “Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vững,
ngữ pháp và ngữ âm riêng biệt được sử dụng trong một phạm vi lãnh thổ hay
một xã hội hẹp hơn là ngôn ngữ” [50, tr.275].
Nguyễn Như Ý và các tác giả: “Biến dạng của một ngôn ngữ được sử
dụng với tư cách là phương tiện giao tiếp của những người có gắn bó chặt
chẽ với nhau trong một cộng đồng thống nhất về lãnh thổ, về hoàn cảnh xã
hội hay về nghề nghiệp” [66, tr.231].
Có thể cho rằng phương ngữ là dạng biến thể và dạng tồn tại về mặt
ngữ âm, từ vững, ngữ pháp của ngôn ngữ văn hóa của một vùng địa lý dân cư
nhất định hay phạm vi xã hội nào đó.
1.1.1.2. Phương ngữ học và phương ngữ tiếng Việt
Phương ngữ là biến thể và dạng tồn tại của ngôn ngữ văn hóa ở một địa
phương cụ thể, bao gồm những nét khác biệt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp
so với ngôn ngữ văn hóa, trong đó, sự khác biệt về mặt ngữ âm là quan trọng

nhất. Phương ngữ được chia ra thành phương ngữ lãnh thổ và phương ngữ xã
hội. Phương ngữ lãnh thổ (territoria (local) dialect) là phương ngữ phổ biến
của một vùng lãnh thổ nhất định. Nó luôn luôn là một bộ phận của chỉnh thể -
một ngôn ngữ nào đó. Phương ngữ lãnh thổ có những khác biệt nhất định
trong cơ cấu âm thanh, trong ngữ pháp, trong cơ cấu tạo từ, trong hệ thống từ
vựng. Những khác biết này có thể không lớn lắm để cho những người nói
những phương ngữ khác nhau của một ngôn ngữ vẫn có thể hiểu được nhau.
Phương ngữ xã hội được hiểu là ngôn ngữ của một nhóm xã hội nhất định.
Những ngôn ngữ của một nhóm xã hội như thế khác với ngôn ngữ toàn dân
chỉ ở vấn đề từ ngữ.
Phương ngữ học (Dialectology) là một phân môn của ngôn ngữ học
chuyên nghiên cứu các phương ngữ, thổ ngữ của một ngôn ngữ nào đó.
Như vậy, phương ngữ học không chỉ nghiên cứu cô lập từng mặt nào đó

10
như ngữ âm, từ vựng hay ngữ pháp mà nghiên cứu tất cả các mặt như
nghiên cứu một ngôn ngữ. Dĩ nhiên, do cách định hướng, tiếp cận của
những đề tài cụ thể mà có thể giới hạn việc nghiên cứu trong từng phạm vi,
từng khu vực lớn bé, rộng hẹp và có thể từng mặt khác nhau của phương
ngữ. Những biến thể phương ngữ có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ văn
hóa và thể hiện rõ tình thống nhất, tính khác biệt. Sự thống nhất và khác
biệt trong ngôn ngữ văn hóa và phương ngữ, trong đó, sự thống nhất đóng
vai trò chủ đạo và nó là cơ sở tạo nên sự thống nhất của một ngôn ngữ.
Song, khi xem xét mối tương quan này, dù bằng cách tiếp cận nào cũng
phải được đánh giá trong tổng thể sự phát triển của từng phương ngữ cụ thể
đối với ngôn ngữ. Quá trình chia tách ngôn ngữ (phương ngữ) và liên kết
ngôn ngữ (phương ngữ) là hai quá trình cơ bản của sự phát triển ngôn ngữ.
Dĩ nhiên, dù cách diễn đạt như thế nào, các nhà nghiên cứu đều cho rằng
phương ngữ là biến dạng, là các biến thể, là sự thể hiện một cách đa dạng
của ngôn ngữ văn hóa. Do vậy, việc nghiên cứu phương ngữ một cách đầy

đủ và kỹ càng, tư liệu chính xác là cơ sở quan trọng cho việc tiêu chuẩn
hóa về những mặt như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, chính tả của một ngôn
ngữ cụ thể.
Như đã biết, phương ngữ chỉ là một dạng biến của ngôn ngữ văn hóa
dân tộc. Phương ngữ không phải và không bao giờ trở thành một ngôn ngữ
riêng biệt. Tiếng Việt có bao nhiêu phương ngữ và các tiêu chí để làm nên sự
khác biệt giữa các phương ngữ là như thế nào?
Ngay từ năm 1912, H. Maspero đã chia tiếng Việt thành hai vùng
phương ngữ: phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung, bởi vì, theo ông,
“Phương ngữ Nam cơ bản giống phương ngữ Bắc do mới có hiện tượng di
dân vào thời kỳ sau này. Phương ngữ Trung đối lập với phương ngữ Bắc do
còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ” [47, tr.224].

11
1.1.2. Các vùng phương ngữ tiếng Việt
1.1.2.1. Các cách phân chia vùng phương ngữ tiếng Việt
Có nhiều cách chia phương ngữ tiếng Việt. Tác giả Hoàng Phê khi bàn
về vấn đề thống nhất và chuẩn hóa tiếng Việt cho rằng chỉ có 2 vùng phương
ngữ là tiếng miền Bắc và tiếng miền Nam, còn Trung Bộ chỉ là những
phương ngữ có tính chất chuyển tiếp. Trong khi đó, phần đông các nhà ngôn
ngữ học chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ: phương ngữ Bắc (Bắc
bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung (Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên) và
phương ngữ Nam (từ Đà Nẵng trở vào). Cách phân chia này phù hợp với
cảm thức dân gian. Cách phân chia này có các tác giả Nguyễn Bạt Tụy
(1950), Vương Hữu Lễ (1974), Hoàng Cao Cương (1979), Hoàng Thị Châu
(1963, 1989, 2004), Võ Xuân Trang (1994), Võ Xuân Quế (1994), Hoàng
Trọng Canh (2002), Nguyễn Hoài Nguyên (2002), Ngô Văn Cảnh (2004),
v.v Lại có người chia tiếng Việt thành bốn phương ngữ, đó là phương ngữ
Bắc (Bắc Bộ và một phần Thanh Hóa), phương ngữ Trung bắc (nam Thanh
Hóa, Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên), phương ngữ Trung nam (từ Quãng Ngãi

đến Phú Khánh) và phương ngữ Nam (từ Thuận Hải trở vào). Lại có người
chia tiếng Việt thành năm phương ngữ như Nguyễn Bạt Tụy (1961), Huỳnh
Công Tín (1999), v.v
1.1.2.2. Ba vùng phương ngữ tiếng Việt
Chọn giải pháp phân chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ gồm
phương ngữ Bắc Bộ (từ Ninh Bình trở ra), phương ngữ Bắc Trung Bộ (từ
Thanh Hóa đến Bình Trị Thiên) và phương ngữ Nam Trung Bộ - Nam Bộ (từ
Đà Nẵng trở vào). Trong mỗi vùng lại có những phương ngữ tiểu vùng, chẳng
hạn, vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ (còn gọi là vùng phương ngữ khu VI)
gồm ba phương ngữ là phương ngữ Thanh Hóa, phương ngữ Nghệ Tĩnh và
phương ngữ Bình Trị Thiên.

12
1.2. Phương ngữ Nghệ Tĩnh
1.2.1. Sự hình thành phương ngữ Nghệ Tĩnh
Nhiều tư liệu, chứng cứ lịch sử đã chỉ ra rằng vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng, khu vực đồng bằng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên là cái
nôi của người Việt cổ. Các tỉnh Hà Tuyên, Bắc Thái, Cao Bằng là những nơi
mới được khai khẩn từ cuối thế kỷ XVII và các tỉnh phía nam cũng vậy. Sử
sách chép lại rằng, vào năm 1609 biên giới Đại Việt mới vượt qua Đèo
Ngang, mở rộng vùng đất Bình Trị Thiên và vào năm 1471, dưới triều Lê
Thành Tông, biên giới phía nam nước ta mở rộng tới phía nam đèo Hải Vân,
thành lập đạo Quảng Nam. Năm 1741 đến Tây Nam Bộ và năm 1757 bản đồ
Việt Nam nói dài đến đất Cà Mau. Nhiều tài liệu đã cho thấy rằng, vùng đất
châu thổ sông Hồng và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên dày
đặc các thổ ngữ, trong khi đó, các tỉnh miền bắc và các tỉnh miền nam xuất
hiện không nhiều thổ ngữ. Cả khu vực Thanh Hóa đến đèo Bình Trị Thiên
thuộc phương ngữ Trung. Nghệ Tĩnh là khu vực thuộc phương ngữ Trung. Từ
những đặc điểm về khu vực địa lý, dân cư như thế, lại cách xa trung tâm ngôn
ngữ Việt - Mường ở Bắc Bộ nên các cư dân nói tiếng Việt - Mường khu vực

Nghệ Tĩnh sẽ có nét riêng biệt trong ngôn ngữ của mình trước khi tiếp thu
những ảnh hưởng của sự biến đổi chia tách ngôn ngữ và phương ngữ ở Bắc
Bộ. Do đó, trong sự hình thành của những phương ngữ Việt có sự hình thành
của phương ngữ Nghệ Tĩnh. Vấn đề này cũng đã được Nguyễn Tài Cẩn lý
giải và phân tích một cách tường minh trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng
Việt [9]. Theo ông, qua nhiều thế kỷ tiếp xúc với ngôn ngữ và văn hóa Hán,
cư dân nói tiếng Việt - Mường chung đã có sự phân hóa ngôn ngữ. Những ảnh
hưởng của tiếng Hán không thể diễn ra một cách đồng đều trên toàn bề mặt
lãnh thổ. Vùng phía Bắc chịu ảnh hưởng trước hết và sâu đậm hơn vùng phía
nam và trong mỗi vùng thì vùng đồng bằng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hơn

13
vùng miền núi. Quá trình phân hóa ngôn ngữ đã được ông chỉ rõ: 1/ Sự phân
hóa mở đường xảy ra trước tiên là giữa hai vùng cực Bắc. 2/ Trong lúc phía
Bắc đã hình thành hai ngôn ngữ Việt ở vịnh Hà Nội và Việt - Mường ở phía
Bắc thì ở Nghệ An, giữa miền núi và miền xuôi còn là một khối thống nhất,
có ngôn ngữ thống nhất (vốn là Việt - Mường chùng, ở giai đoạn hậu kỳ của
nó). Sự thống nhất này còn kéo dài thêm một số thế kỷ nữa mới có sự rạn
nứt” [9, tr.278]. Sau đó, sự phân hóa ngôn ngữ và ảnh hưởng của nó đã lan
dần vào phía Nam nhưng với một mức độ “càng đi sâu vào dãi đất hẹp Trung
Bộ thì sự phân hóa đó càng yếu dần. Vào khoảng đời nhà Lý, có thể xem ngôn
ngữ vùng ven biển Nghệ Tĩnh chỉ là một vùng hơi bị Việt hóa” [9, tr.278].
Theo thời gian, sự phân hóa tiếp tục diễn ra. Do ở miền xuôi phía đông, giữa
Hoan Châu và Kẻ Chợ có điều kiện đi lại thuận tiện hơn nên ảnh hưởng của
phương ngữ tiếng Việt Bắc Bộ lan vào khu IV dễ dàng hơn, cả miền núi và
miền xuôi, nhưng cố nhiên, miền xuôi ảnh hưởng mạnh hơn. Tiếp đó là các
đợt Nam tiến ồ ạt của cư dân Bắc bộ từ đời này sang đời khác nên vùng xuôi
ngày càng được Việt hóa mạnh hơn để cuối ùng có sự phân hóa thành Việt
với Mường, hình thành một vùng phương ngữ Việt khu IV. Sự kiện này cũng
tương ứng với cách phân kỳ lịch sử tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn [8, tr.7] là

vào khoảng thế kỷ XIII - XIV, XV, XVI, giai đoạn tiếng Việt cổ. Theo
Nguyễn Tài Cẩn, tiếng Việt giai đoạn này có 2 điểm mới là: “1/ Trở thành
ngôn ngữ văn học và có văn tự (chữ Nôm). 2/ Trở thành ngôn ngữ không
thuần nhất, có 2 vùng ngôn ngữ (do sự hình thành của phương ngữ khu IV),
chấm dứt giai đoạn tiềng Việt chung” [8, tr.10].
Như vậy, nếu vùng phương ngữ phía Bắc được hình thành từ sự biến
đổi chia tách của ngôn ngữ Việt - Mường chung do sự ảnh hưởng của tiếng
Hán, văn hóa Hán thì vùng phương ngữ khu IV lại được hình thành từ ngôn
ngữ Việt - Mường chung do ảnh hưởng của tiếng Việt Bắc Bộ, là “vùng Việt -

×