Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Khai thác các cặp phạm trù nguyên nhân, kết quả, cái chung, cái riêng vào việc hướng dẫn học sinh giải toán và phát triển tư duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 116 trang )





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


VŨ HOÀI VÂN





KHAI THÁC CÁC CẶP PHẠM TRÙ
NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ, CÁI CHUNG –
CÁI RIÊNG VÀO VIỆC HƯỚNG DẪN HỌC
SINH GIẢI TOÁN
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ DUY




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC




NGHỆ AN - 2013





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


VŨ HOÀI VÂN



KHAI THÁC CÁC CẶP PHẠM TRÙ
NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ, CÁI CHUNG –
CÁI RIÊNG VÀO VIỆC HƯỚNG DẪN HỌC
SINH GIẢI TOÁN
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ DUY


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Toán
Mã số: 60.14.10


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CHU TRỌNG THANH



NGHỆ AN - 2013





Lời cam đoan
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả





Vũ Hoài Vân




Lời cảm ơn

Trong thời gian qua, ngoài sự nỗ lực của bản thân, đề tài Luận văn được
hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của TS. Chu Trọng Thanh.
Luận văn còn có sự giúp đỡ về tài liệu và những ý kiến góp ý của các thầy cô
giáo thuộc chuyên ngành Lý luận và Phương pháp giảng dạy bộ môn Toán.
Xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo lời biết ơn chân thành và sâu sắc
của tác giả.
Tác giả cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu, tổ Toán
trường THPT Trần Quốc Toản đã tạo điều kiện trong quá trình tác giả thực hiện
đề tài.
Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn là nguồn cổ vũ động viên để tác giả
thêm nghị lực hoàn thành Luận văn này.
Tuy đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên Luận văn này chắc chắn không tránh

khỏi những thiếu sót cần được góp ý, sửa chữa. Tác giả rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và bạn đọc.
Nghệ An, tháng 9 năm 2013
Tác giả














MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KHAI THÁC CÁC CẶP
PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ, CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG
VÀO DẠY HỌC MÔN TOÁN 5
1.1. Một số kiến thức cơ sở về triết học duy vật biện chứng 5
1.1.1. Khái niệm phép biện chứng duy vật 5
1.1.2. Hai nguyên lí của phép biện chứng duy vật 6
1.1.3. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật 8
1.1.4. Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật 9

1.1.5. Một số nguyên tắc nhận thức theo phương pháp luận duy vật biện
chứng 13
1.2. Phương pháp luận nhận thức rút ra từ các cặp phạm trù nguyên nhân - kết
quả, cái chung - cái riêng 15
1.2.1. Phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả 15
1.2.2. Phương pháp luận của cặp phạm trù cái chung – cái riêng 16
1.3. Một số vấn đề lý luận về phát triển tư duy 17
1.3.1. Khái niệm tư duy 17
1.3.2. Đặc điểm của tư duy 18
1.3.3. Sự phân loại tư duy 19
1.3.4. Tư duy toán học 20
1.3.5. Vai trò của tư duy Toán học 22
1.4. Thực trạng nhận thức của việc khai thác các cặp phạm trù của triết học
duy vật biện chứng vào dạy học môn Toán. 23
1.4.1. Những sai lầm của học sinh trong hoạt động giải toán có liên quan
đến vận dụng các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả, cái chung – cái riêng
23
1.4.2. Những khó khăn của học sinh trong hoạt động giải toán có liên quan
đến vận dụng các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả, cái chung – cái
riêng. 27
1.4.3. Nguyên nhân của những sai lầm, khó khăn của học sinh trong hoạt
động giải toán có liên quan đến vận dụng các cặp phạm nguyên nhân - kết
quả, cái chung - cái riêng. 35
1.5. Định hướng chung vận dụng các cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả, cái
chung - cái riêng vào dạy học môn Toán 36
1.5.1. Định hướng vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào dạy
học Toán 36
1.5.2. Định hướng vận dụng cặp phạm trù cái chung - cái riêng vào dạy học
Toán 38
Kết luận chương 1 41

Chương 2 42




KHAI THÁC CÁC CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ, CÁI
CHUNG - CÁI RIÊNG VÀO VIỆC HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI TOÁN
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ DUY 42
2.1. Một số căn cứ đưa ra các biện pháp sư phạm khai thác các cặp phạm trù
nguyên nhân - kết quả, cái chung - cái riêng vào dạy học giải toán Đại số 42
2.1.1. Căn cứ vào lí luận phương pháp dạy học giải toán 42
2.1.2. Căn cứ vào các cấp độ nhận thức vận dụng vào môn Toán THPT. 49
2.1.3. Căn cứ vào thực tiễn dạy học môn Toán ở bậc THPT 53
2.2. Các biện pháp khai thác cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của triết
học duy vật biện chứng vào dạy bài tập đại số 54
2.2.1. Biện pháp 1 54
2.2.2. Biện pháp 2 57
2.2.3. Biện pháp 3 62
2.2.4. Biện pháp 4 66
2.3. Các biện pháp khai thác cặp phạm trù cái riêng - cái chung của triết học
duy vật biện chứng vào dạy học giải toán Đại số 69
2.3.1. Biện pháp 1 69
2.3.2. Biện pháp 2 71
2.3.3. Biện pháp 3 75
2.3.4. Biện pháp 4 81
2.3.5. Biện pháp 5 89
2.3.6. Biện pháp 6 92
Kết luận chương 2 98
Chương 3 100
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 100

3.1. Mục đích thực nghiệm 100
3.2.Tường trình quá trình thực nghiệm 100
3.2.1. Tổ chức thực nghiệm 100
3.2.2. Nội dung thực nghiệm 101
3.3. Đánh giá kết quả thử nghiệm 102
3.3.1. Đánh giá định tính 102
3.3.2. Đánh giá định lượng 103
Kết luận chương về thực nghiệm 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105











QUY ƯỚC VỀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

























Viết tắt
Viết đầy đủ
BĐT
: Bất đẳng thức
ĐT
: Đào tạo
GD
: Giáo dục
GTNN
: Giá trị nhỏ nhất
GTLN
: Giá trị lớn nhất
GV
: Giáo viên

HS
: Học sinh
SGK
: Sách giáo khoa
PT
: Phương trình
THPT
: Trung học phổ thông
tr
: Trang


1



MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến tác động
trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Các quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật phản ánh sự vận động, phát triển của thế giới
dưới những phương diện cơ bản nhất. Các quan điểm triết học duy vật biện
chứng là cơ sở phương pháp luận nhận thức của mọi khoa học. Hêghen, người
khởi xướng phép biện chứng (duy tâm) đã khẳng định rằng “phép biện chứng là
lí luận về mối liên hệ phổ biến, là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của thế giới ”.
Là người theo trường phái triết học duy vật, V.I. Lênin cũng nhấn mạnh: phép
biện chứng là học thuyết sâu sắc nhất, không phiến diện về sự phát triển. Những
người theo quan điểm biện chứng xem thế giới như là một chỉnh thể thống nhất

các sự vật, các hiện tượng, và các quy luật cấu thành thế giới đó vừa tách biệt
nhau vừa có mối quan hệ qua lại thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
Từ việc nghiên cứu các quan điểm duy vật biện chứng (nội dung chủ yếu
bao gồm hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù) chúng ta cần rút ra
phương pháp luận vận dụng trong quá trình nhận thức và các hoạt động thực
tiễn.
Dạy học nói chung, dạy học giải bài tập toán nói riêng, là một quá trình
hoạt động của giáo viên và học sinh mà mục tiêu là phát triển năng lực nhận
thức của học sinh, hình thành và phát triển các phẩm chất tâm lý nhân cách, phát
triễn năng lực hoạt động thực tiễn cho học sinh. Để đạt được mục tiêu đó, việc
vận dụng một cách hợp lý các quan điểm triết học duy vật biện chứng nói chung,
khai thác các cặp phạm trù của triết học duy vật biện chứng nói riêng, là một
định hướng phù hợp với các lý thuyết dạy học hiện nay.
2



Toán học là khoa học suy diễn với tính khái quát, trừu tượng cao. Các cặp
phạm trù nguyên nhân – kết quả và cái chung – cái riêng có nhiều tiềm năng có
thể khai thác vào việc phát triễn năng lực tư duy của học sinh. Khi tiến hành các
họat động giải toán nói chung, giải toán Đại số nói riêng, học sinh cần thực hiện
các thao tác tư duy đa dạng. Việc vận dụng một cách thích hợp các phương pháp
luận nhận thức rút ra từ các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả và cái chung –
cái riêng sẽ giúp học sinh có nhiều cơ hội phát triển năng lực giải toán và phát
triển tư duy.
Trong các tài liệu [1], [3], [4], [5], [24], các tác giả đã đề cập đến vấn đề
phát triển các loại tư duy toán học cho học sinh trong dạy học môn Toán nói
chung, dạy học Đại số nói riêng. Chúng tôi nhân thấy việc khai thác một số cặp
phạm trù cụ thể (nguyên nhân – kết quả và cái chung – cái riêng) vào dạy học
một tình huống điển hình cụ thể (giải toán) của một tuyến kiến thức cụ thể (Đại

số) là một đề tài hấp dẫn chúng tôi.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Khai thác các cặp phạm trù
nguyên nhân – kết quả, cái chung – cái riêng vào việc hướng dẫn học sinh
giải toán và phát triển tư duy (Thể hiện qua dạy học giải toán Đại số)”
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm giải pháp vận dụng một số quan điểm triết học duy vật biện chứng thông
qua khai thác các cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả, cái chung – cái riêng vào
dạy học giải toán nhằm phát triển tư duy cho học sinh, qua đó góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
 Nghiên cứu các khái niệm và quy luật liên quan đến cặp phạm trù nguyên –
kết quả, cái chung – cái riêng trong triết học.
 Nghiên cứu hoạt động dạy học giải toán có vận dụng các ý nghĩa và phương
pháp luận của hai cặp phạm trù trên.
3



3.2. Phạm vi nghiên cứu
 Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến các cặp phạm trù nguyên nhân –
kết quả, cái chung – cái riêng.
 Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy thông qua dạy học giải
các bài tập Đại số trung học phổ thông và đề xuất phương pháp chủ đạo dạy
học để rèn luyện cho HS, góp phần bồi dưỡng các kiểu tư duy.
 Khảo sát thực tế trên địa bàn các trường trung học phổ thông ở tỉnh Đăk Lăk.
4. Giả thuyết khoa học
Trên cơ sở chương trình và sách giáo khoa môn Toán trung học phổ thông
hiện hành, nếu trong dạy học môn Toán nói chung, dạy học Đại số nói riêng,
giáo viên quan tâm vận dụng các phương pháp luận rút ra từ các cặp phạm trù

nguyên nhân – kết quả, cái chung – cái riêng của triết học duy vật biện chứng
một cách thích hợp thì sẽ góp phần bồi dưỡng năng lực giải toán và phát triển tư
duy cho học sinh ở trường trung học phổ thông, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học môn Toán.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các quan điểm triết học duy vật biện chứng và vận dụng vào
quá trình phát triển nhận thức học sinh trong dạy học.
5.2. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về dạy học giải toán ở trường trung học
phổ thông.
5.3. Nghiên cứu những biểu hiện của các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả,
cái chung - cái riêng trong nội dung môn Toán trung học phổ thông.
5.4. Đề xuất một số biện pháp khai thác các cặp phạm trù trên vào trong quá
trình dạy học sinh giải bải tập Toán và phát triển các kiểu tư duy từ những bài
tập đã học.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu về tâm lý học, lý
luận dạy học, phương pháp dạy học môn Toán, nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận
4



của việc khai thác các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả, cái chung – cái riêng
giúp đỡ học sinh giải bài tập toán (Đại số) và phát triển tư duy ở trường THPT.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Đánh giá thực trạng để hướng dẫn học
sinh giải Toán nói chung và Đại số nói riêng ở trường THPT qua các hình thức
dự giờ, quan sát, điều tra.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm đối
tượng là HS lớp 10 THPT, xử lý số liệu thông kê kết quả thực nghiệm sư phạm
để đánh giá tính hiệu quả và khả thi của các biện pháp đã xây dựng.
7. Những đóng góp của luận văn

7.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả,
cái chung – cái riêng.
7.2. Đề suất một số biện pháp khai thác các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả,
cái chung –cái riêng vào dạy học giải toán và phát triển tư duy cho học sinh
trong quá trình dạy học Đại số.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc khai thác các cặp phạm trù
nguyên nhân – kết quả, cái chung – cái riêng vào dạy học môn Toán.
Chương 2: Khai thác các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả, cái chung –
cái riêng vào việc hướng dẫn học sinh giải toán và phát triển tư duy học sinh.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.






5



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KHAI THÁC
CÁC CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ, CÁI
CHUNG – CÁI RIÊNG VÀO DẠY HỌC MÔN TOÁN

1.1. Một số kiến thức cơ sở về triết học duy vật biện chứng
1.1.1. Khái niệm phép biện chứng duy vật

Thuật ngữ phép biện chứng duy vật bao gồm hai yếu tố cấu thành, đó là
phép biện chứng do Hêghen đề xuất và quan điểm duy vật trong triết học có từ
thời xa xưa và liên tục tồn tại, phát triển đến ngày nay. Phép biện chứng của Hê
ghen là phép biện chứng mang tính chất duy tâm. Quan điểm triết học duy vật
thời cổ đại Hy lạp mang tính chất thô sơ và phát triển đến thời Cac Mác và Ăng
ghen mới có đầy đủ tính khoa học. Phép biện chứng duy vật có thể nói giản đơn
là cách thức xem xét một cách biện chứng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan theo quan điểm duy vật. Phép biện chứng duy vật là sự kết hợp của
hai thành tựu tiến bộ của triết học vào thế kỷ XIX và trở thành một công cụ hữu
hiệu để nhận thức thế giới một cách khoa học.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa nhận thức lí luận và
phương pháp phân tích thực tiễn. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không
chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để
định hướng cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả
các khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư
tưởng triết học của nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ
thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và
quy luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Phép biện chứng
duy vật gồm hai nguyên lí cơ bản, những cặp phạm trù và những nguyên lí cơ
6



bản, vừa là lí luận duy vật biện chứng, vừa là lí luận nhận thức khoa học, vừa là
logic học của chủ nghĩa Mác. Ở đây có sự thống nhất giữa phép biện chứng duy
vật, lí luận nhận thức và logic học. Phép biện chứng duy vật trở thành phương
pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Trong khi vạch ra những tính chất biện chứng chung nhất của thế giới,
thông qua những phạm trù, quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển

của cả tự nhiên, xã hội, tư duy, phép biện chứng duy vật rút ra những quan điểm,
nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo việc hoạch định phương pháp cho mọi hoạt
động của con người. Đi sâu vào từng nguyên lí, phạm trù và quy luật của phép
biện chứng duy vật, chúng ta sẽ càng thấy rõ sự thống nhất chặt chẽ giữa nhận
thức lí luận và phương pháp phân tích thực tiễn của phép biện chứng.
1.1.2. Hai nguyên lí của phép biện chứng duy vật
1.1.2.1.Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lí mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát bức
tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới ( tự nhiên, xã hội và tư
duy). Tính chất vô hạn của thế giới, cũng như tính chất có hạn của mỗi sự vật,
hiện tượng, quá trình chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và
được quyết định bởi rất nhiều loại mối liên hệ có vai trò và vị trí khác nhau. Sự
liên hệ phổ biến là đặc trưng phổ quát nhất của thế giới. Vì vậy quán triệt quan
điểm toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt
động và suy nghĩ của con người. Nội dung chính của nguyên tắc đó là:
 Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ
 Trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra được những mối liên hệ
bản chất, chủ yếu để hiểu thấu bản chất của sự vật
 Từ bản chất của sự vật ấy phải quay lại hiểu rõ toàn bộ sự vật trên
cơ sở liên kết mối liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác của
sự vật để đảm bảo tính đồng bộ khi giải quyết vấn đề trong đời sống. Quan điểm
toàn diện, đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu
hình.
7



Lí luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật như là
sự cụ thể hóa thêm nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Ở đây
cần phân biệt giữa những nguyên lí với các cặp phạm trù và quy luật của phép

biện chứng duy vật. Có như vậy mới thấy rõ ý nghĩa cụ thể của các cặp phạm trù
và các quy luật. Nguyên lí của phép biện chứng duy vật là quan niệm bao quát
những tính chất chung của thế giới. Còn các cặp phạm trù và quy luật là lí luận
nghiên cứu các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới của các sự
vật, hiện tượng, quá trình cụ thể. Chính vì thế, các cặp phạm trù và các quy luật
của phép biện chứng duy vật cho ta phương pháp luận thực hiện qua điểm toàn
diện và phát triển gắn liền với quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
Nếu các cặp phạm trù cái riêng cái chung, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất
và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận trực tiếp của các phương pháp như
phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái quát hóa và trừu tượng hóa để
giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được toàn bộ các mối
liên hệ theo một hệ thống nhất định, thì các cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả,
khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau
của các mối liên hệ và sự phát triển là một quá trình tự nhiên. Còn cặp phạm trù
nội dung và hình thức lại là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức
tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương
pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khả năng sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau để đạt mục đích xuất phát từ quan niệm cho rằng: cùng một nội dung
có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, vấn đề là phải tuân theo
mối liên hệ nội tại các yếu tố cấu thành nội dung chứ không được tùy tiện …
1.1.2.2. Nguyên lí về sự phát triển của phép biện chứng duy vật
Nguyên lí về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng
biện chứng phổ quát của thế giới. Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến
đổi không ngừng và về phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi và
8



phát triển của nó, phải tư duy năng động linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức

được cái mới và ủng hộ cái mới.
1.1.3. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp
luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện,
quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể về phương pháp vạch ra
nguồn gốc, động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới.
1.1.3.1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu
thuẫn)
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ( gọi tắt là quy luật
mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc,
động lực của sự phát triển ; phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ bản
của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn
cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn. Tuy
nhiên hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh hoạt, tùy thuộc vào mâu thuẫn cụ thể
và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn có lợi cho cách
mạng, cho hòa bình và tiến bộ xã hội.
1.1.3.2. Quy luật từ sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất (quy luật
lượng – chất)
Quy luật chuyển hóa về những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về
chất và ngược lại (gọi là quy luật lượng - chất) phản ánh cách thức, cơ chế của
quá trình phát triển là đi từ những biến đổi nhỏ nhặt, dần dần về lượng đến giới
hạn của độ thì gây ra sự biến đổi cơ bản về chất, thông qua bước nhảy vọt và
ngược lại. Đó chính là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi cơ chế phát triển
với ba yêu cầu cơ bản là :
9




 Thường xuyên tăng cường tích lũy về lượng để tạo sự thay đổi về
chất. Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
 Khi lượng được tích lũy đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thục hiện
các bước nhảy vọt cách mạng ; chống thái độ bảo thủ, trì trệ.
 Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy mạnh quá trình
phát triển.
1.1.3.3. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên
theo hình thức xoáy ốc thể hiện thể hiện tính chất chu kì trong quá trình phát
triển. Đó là cơ sở phương pháp suy nghĩ và hoạt động của con người. Phủ định
biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa. Nhưng kế thừa phải có chọn lọc,
cải tạo, phê phán, chống nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa
hư vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa
học để tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến những hình thái cơ bản tương lai.
Quan điểm lịch sử - cụ thể là kết quả trực tiếp của việc vận dụng các
nguyên lí, các cặp phạm trù và quy luật biện chứng duy vật, là cơ sở phương
pháp luận chung nhất vô cùng quan trọng cho mọi người trong hoạt động nhận
thức và cải tạo hiện thực, phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể là yêu cầu bắt
buộc của nguyên tắc quan trọng này. V. I. Lênin coi nó là : “ bản chất, linh hồn
sống của chủ nghĩa Mác”
1.1.4. Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
1.1.4.1. Khái niệm về phạm trù trong lô gic học và trong triết học
Trong quá trình suy nghĩ, con người thường xuyên phải sử dụng những
khái niệm nhất định như “người’’, “động vật’’, “đồng’’,… Những khái niệm đó
là hình thức của tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính quan trọng nhất
của một lớp sự vật, hiện tượng nhất định.
Tùy thuộc vào số lượng của sự vật, hiện tượng được khái niệm phản ánh
mà ta có các khái niệm rộng, hẹp khác nhau. Khái niệm rộng nhất, phản ánh
10




những mặt thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản nhất của các sự vật và
hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định gọi là phạm trù.
Triết học là khoa học có nhiệm vụ khám phá các quy luật chung nhất của
sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi đối tượng phản
ánh trong triết học đều có tính khái quát cao. Do vậy trong triết học có nhiều
phạm trù. Các phạm trù này thường tạo thành từng cặp có những phương diện
trái ngược nhau. Thông thường người ta hay chú ý đến 6 cặp phạm trù tiêu biểu
của triết học duy vật bện chứng: phạm trù cái chung - cái riêng; phạm trù
nguyên nhân – kết quả; phạm trù nội dung – hình thức; phạm trù vận động –
đứng yên; phạm trù tất nhiên – ngẫu nhiên; phạm trù bản chất – hiện tượng.
Ngoài 6 cặp phạm trù trên đây, tùy từng lĩnh vực nghiên cứu, người ta còn đề
cập đến nhiều cặp phạm trù khác. Trong phần sau đây ta sẽ phân tích rõ nội
dung của một số cặp phạm trù có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu của
luận văn.
1.1.4.2. Phân tích nội dung một số cặp phạm trù
(1) Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả
Phạm trù nguyên nhân – kết quả phản ánh mối quan hệ hình thành của các
sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Nguyên nhân là cặp phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả là phạm
trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách
quan, tính phổ biến, tính tất yếu.
Tính khách quan thể hiện ở chỗ : mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của
bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người có
biết hay không biết, thì các sự vật tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu

gây nên biến đổi nhất định. Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình
11



những tác động và những biến đổi, tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực,
chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong đầu mình.
Tính phổ biến thể hiện ở chỗ : mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, và
trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào
không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay
chưa mà thôi.
Tính tất yếu thể hiện ở chỗ : cùng một nguyên nhân nhất định, trong những
điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không
thể có sự vật nào tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau.
Do vậy tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là :
nguyên nhân tác động trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao
nhiêu thì kết quá chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu. Thí dụ : Để có kết
quả của các kì thi, kiểm tra đánh giá thì các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thi
(cơ sở vật chất, đề thi, chấm thi, coi thi) phải giống nhau.
Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
(i) Nguyên nhân sản sinh ra kết quả:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trưóc
kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác
dụng
Giữa nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ sản sinh, quan hệ trong đó
nguyên nhân sinh ra kết quả.
Cùng một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được gây nên bởi những
nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc. Nếu các
nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì chúng sẽ

gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các
nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng
sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau.
(ii) Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
12



Sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên
nhân, trái lại, nó có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân
(iii) Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
Một hiện tượng nào đó, trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong
mối liên hệ khác lại là kết quả, và ngược lại
Các chuỗi nhân quả là “không đầu”, “không cuối”. Do vậy, không có
nguyên nhân đầu tiên, cũng như không có kết quả cuối cùng.
(2) Cặp phạm trù cái chung – cái riêng
Cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất
định.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính
không chỉ có ở một kết cấu vật chất nhấn định, mà còn được lặp lại trong nhiều
sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù cái chung – cái riêng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cả cái riêng, cái chung
và cái đơn nhất đều tồn tại. Nhưng vấn đề là ở chỗ chúng tồn tại như thế nào?
(i) “Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng”. Điều đó có
nghĩa là cái chung thật sự tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng chứ không tồn
tại biệt lập, lơ lửng ở đâu đó bên cạnh cái riêng
(ii) “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung”, nghĩa là
cái riêng tồn tại độc lập, nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng
hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất cứ cái riêng nào bao giờ cũng tồn

tại trong một môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường,
hoàn cảnh ấy, do đó, đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng
với các sự vật, hiện tượng khác chung quanh mình. Kết quả là tạo nên một hệ
thống các mối liên hệ, trong đó, có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số
cái chung nào đó
(iii) Cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập
hết vào cái chung, “Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào
13



cũng là một bộ phận, một khía cạnh hay một bản chất của cái riêng. Bất cứ cái
chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái
riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”
(iv) Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều
kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại, “cái
chung” có thể biến thành ‘‘cái đơn nhất”
1.1.5. Một số nguyên tắc nhận thức theo phương pháp luận duy vật biện
chứng
Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận triết học. Nó khái quát
những quan điểm, nguyên tắc chung nhất là xuất phát điểm cho việc xác định
các phương pháp luận khoa học chung, phương pháp luận bộ môn và các
phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
Các phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận khoa học chung và
phương pháp luận chung nhất hợp thành một hệ thống khoa học về phương pháp
chỉ đạo cụ thể nhằm xác định các phương pháp cụ thể một cách đúng đắn. Các
loại phương pháp này vừa độc lập tương đối với nhau, vừa bổ sung cho nhau,
thâm nhập vào nhau mặc dù không thể thay thế cho nhau. Do đó đòi hỏi chúng
ta phải biết vận dụng tổng hợp các loại phương pháp luận, trong đó phép biện
chứng duy vật là phương pháp chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn

cách mạng.
Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức thực tiễn
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các
sự vật hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự
vật, chúng ta phải xem xét nó, một là trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó với sự vật
khác ( kể cả trực tiếp và gián tiếp).
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật,
chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, con
14



người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liến hệ.
Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ không
trọn vẹn.
Ý thức được điều đó chúng ta sẽ tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã
có về sự vật, và tránh xem nó là chân lí bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung,
không thể phát triển được.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó
chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên
hệ của sự vật vẫn có thể phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những
thuộc tính, nhưng quy định khác nhau của sự vật được thể hiện trong những mối
liên hệ đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất
chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
Như vây quan điểm toàn diện không đồng nhất cách xem xét dàn trải, liệt
kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng ; nó đòi hỏi phải
làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.

Nguyên tắc phát triển trong nhận thức thực tiễn
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận
thức sự thật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối
hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển
nhất định, ứng với giai đoạn phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức
đúng duy nhất về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của sự vật sẽ
đưa chung ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Hơn nữa, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là
cái đang có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển đến tương lai của
nó. Trong quá trình phát triển, sự vật thường có những sự biến đổi tiến lên và có
cả những biến đổi thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có thể có
được, khi bằng tư duy khoa học chủ thể khái quát để làm sáng tỏ xu hướng chủ
đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
15



Sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thực tế là quá trình biện
chứng đầy mâu thuẫn. Do vậy, quan điểm phát triển được vận dụng vào quá
trình nhận thức cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của
quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến. Thiếu quan điểm khoa học
như vậy, người ta rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói
chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như cá nhân nói riêng tạm
thời gặp khó khăn trắc trở. Vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên
tắc phương pháp luận của hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự phát triển theo
quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật
và bằng các hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó,
chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức thực tiễn
Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi

chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh
vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực – cả khách
quan lẫn chủ quan.
Khi xem xét một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những
mối quan hệ như vậy. Chân lí sẽ trở thành sai lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới
hạn tồn tại của nó.
1.2. Phương pháp luận nhận thức rút ra từ các cặp phạm trù
nguyên nhân - kết quả, cái chung - cái riêng
1.2.1. Phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả
Vì mọi hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong nên
không có vấn đề có hay không có nguyên nhân của một hiện tượng nào đó, mà
chỉ có vấn đề các nguyên nhân ấy đã được phát hiện hay chưa được phát hiện
mà thôi
16



Nhiệm vụ chính của nhận thức nói chung, nhận thức khoa học nói riêng,
chính là đi tìm những nguyên nhân chưa được phát hiện để có thể hiểu đúng
hiện tượng. Trong quá trình đi tìm nguyên nhân cần lưu ý:
Chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính thế giới các hiện
tượng.
Khi tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đó, cần tìm trong những
mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất
hiện
Khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý đến những
dấu hiệu đặc trưng.
Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó
Muốn cho hiện tượng ấy xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân cùng những
điều kiện cần thiết cho nguyên nhân đó phát sinh tác dụng.

Trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu
và nguyên nhân bên trong.
Để đẩy nhanh (hay kìm hãm hoặc loại trừ) sự biến đổi của một hiện tượng
xã hội nói chung, vấn đề giáo dục nói riêng nào đó, cần làm cho các nguyên
nhân chủ quan tác động cùng chiều (hay lệch hoặc ngược chiều) với chiều vận
động của mối quan hệ nhân quả khách quan
1.2.2. Phương pháp luận của cặp phạm trù cái chung – cái riêng
Để phát hiện cái chung cần xuất phát từ những cái riêng, từ những sự vật,
hiện tượng, quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ
quan của con người.
Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần
được cá biệt hóa. Nếu không chú ý tới sự cá biệt hoá đó, đem áp dụng nguyên xi
cái chung, tuyệt đối hoá cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người tả
khuynh, giáo điều. Ngược lại, nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn
nhất thì sẽ rơi vào sai lầm của những người hữu khuynh.
17



Để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì không thể lảng
tránh được việc giải quyết những vấn đề chung. Nếu không giải quyết những
vấn đề chung thì sẽ không tránh khỏi sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, kinh
nghiệm chủ nghĩa.
Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất
biến thành cái chung, nếu cái đơn nhất đó có lợi cho ta và ngược lại, biến cái
chung thành cái đơn nhất nếu sự tồn tại của cái chung không còn là điều ta mong
muốn.
1.3. Một số vấn đề lý luận về phát triển tư duy
1.3.1. Khái niệm tư duy
Nói đến tư duy, mỗi người chúng ta đều nhận thức được rằng: Tư duy có

tác dụng to lớn trong đời sống xã hội. Chúng ta dựa vào tư duy để nhận thức
những qui luật khách quan của tự nhiên, xã hội và lợi dụng những qui luật đó
trong hoạt động thực tiễn của mình. ‘‘Tư duy sinh ra trên cơ sở hoạt động thực
tiễn, từ nhận thức cảm tính và vượt xa giới hạn của nó ’’ [dẫn theo 24, tr.8].
Có rất nhiều cách định nghĩa về tư duy, sau đây là một số quan điểm:
 Theo Phạm Minh Hạc : ‘‘ Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những
thuộc tính bản chất, những mối quan hệ có tính qui luật của sự vật và hiện
tượng trong hiện thực khác quan’’.
 Theo Rubinstêin X.L : ‘‘Tư duy đó là sự khôi phục trong ý nghĩ của chủ
thể về khách thể với mực độ đầy đủ hơn, toàn diện hơn so với các tư liệu cảm
tính xuất hiện do tác động của khách thể ’’ [ dẫn theo 24, tr.8].
Dù có nhiều quan điểm khác nhau về cách định nghĩa tư duy. Nhưng quan
niệm một cách dễ hiểu thì chúng tôi cho rằng ‘‘ Tư duy là sản phẩm của bộ não
con người, đó là một quá trình phản ánh tích cực, liên tục thế giới khách quan
diễn ra trong bộ não con người’’
18



1.3.2. Đặc điểm của tư duy
Trước hết, cần hiểu rằng tư duy là sản phẩm cao nhất của bộ não con
người. Do đó, tư duy thuộc nấc thang nhận thức cao nhất, đó là nhận thức lý
tính. Vì vậy tư duy có những đặc điểm mới về chất so với cảm giác và tri giác.
Có thể thấy sự khác biệt đó qua những đặc điểm cơ bản sau:
Tư duy chỉ nảy sinh khi con người đứng trước những hoàn cảnh có vấn
đề: không phải bất cứ tác động nào của hoàn cảnh cũng đều gây ra tư duy. Trên
thực tế tư duy chỉ nảy sinh khi gặp những hoàn cảnh có vấn đề mà bằng vốn
hiểu biết cũ ta không thể giải quyết đựơc nó. Để nhận thức con người phải vượt
qua khỏi phạm vi những hiểu biết tri thức cũ và đi tìm cái mới đạt mục đích mới.
Những hoàn cảnh như thế gọi là hoàn cảnh có vấn đề. Theo thuật ngữ lí thuyết

tình huống thì đó là sự mất cân bằng. Hoàn cảnh có vấn đề sẽ kích thích con
người tư duy. Muốn vậy con người phải nhận thức được, ý thức được hoàn cảnh
có vấn đề, nhận thức được mâu thuẫn chứa đựng trong vấn đề, chủ thể phải có
nhu cầu, nhu cầu nhận thức và đương nhiên phải có những tri thức cần thiết có
liên quan vấn đề, chỉ trên cơ sở đó thì tư duy mới nảy sinh và diễn biến.
Tư duy có tính khái quát: khác với nhận thức cảm tính, tư duy có khả
năng đi sâu vào sự vật, hiện tượng nhằm vạch ra những thuộc tính chung những
mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa chúng. Vì thế tư duy có tính khái quát.
Nhờ phản ánh khái quát, các quy luật mà tư duy giúp con người không chỉ
nhận thức thế giới mà còn có khả năng cải tạo thế giới.
Tư duy có tính gián tiếp: ở mức độ nhận thức cảm tính, con người phản
ánh trực tiếp sự vật, hiện tượng bằng giác quan của mình trên cơ sở đó cho ta
hình ảnh cảm tính về sự vật và hiện tượng đến tư duy, con người không nhận
thức thế giới một cách trực tiếp mà có khả năng nhận thức thế giới một cách
gián tiếp - nhận thức bằng ngôn ngữ, nhờ phương tiện ngôn ngữ và khả năng
phản ánh khái quát. Con người có khả năng vạch ra các thuộc tính bản chất, các
mối quan hệ có tính quy luật. Dự đoán được chiều hướng phát triển và diễn biến
của chúng để nhận thức và cải tạo chúng.

×