BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
LƢƠNG THỊ QUYÊN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC VÀ TRÍ
TUỆ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC
CƠ SỞ TẠI HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
HÀ NỘI, 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
LƢƠNG THỊ QUYÊN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC VÀ TRÍ
TUỆ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC
CƠ SỞ TẠI HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG
Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60 42 01 14
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TSKH. TẠ THÚY LAN
HÀ NỘI, 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TSKH. Tạ Thúy Lan, ngƣời
đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong bộ môn Sinh lý
ngƣời và động vật khoa Sinh - KTNN và phòng Sau đại học trƣờng Đại học
Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực
hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các em
học sinh của các trƣờng Tiểu học, trƣờng THCS huyện Hòa An, tỉnh Cao
Bằng cùng tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những ngƣời thân trong gia đình đã
giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2013
Tác giả
Lƣơng Thị Quyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chƣa từng đƣợc
công bố trong bất cứ công trình nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2013
Tác giả
Lƣơng Thị Quyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BMI
Body mass index (chỉ số khối cơ thể)
cs
Cộng sự
CDC
National Center for Chronic Disease Prevention and
Health Promotion (Trung tâm quốc gia phòng bệnh
mãn tính và tăng cƣờng sức khỏe)
ĐHSP
Đại học Sƣ phạm
HSSH
Hằng số sinh học ngƣời Việt Nam
IQ
Intelligent Quotient
KTNN
Kĩ thuật nông nghiệp
Nxb
Nhà xuất bản
SD
Standard Diviation (độ lệch chuẩn)
TH
Tiểu học
THCS
Trung học cơ sở
Tr
Trang
UNESCO
United Nations Education, Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa
của Liên hợp quốc)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Phân bố đối tƣợng nghiên cứu
24
Bảng 2.2. Phân loại thể lực theo chỉ số Pignet
25
Bảng 2.3. Phân loại mức trí tuệ theo chỉ số IQ
28
Bảng 3.1. Chiều cao đứng của học sinh nam
33
Bảng 3.2. Chiều cao đứng của học sinh nữ
35
Bảng 3.3. So sánh chiều cao của học sinh nam và học sinh nữ
37
Bảng 3.4. Cân nặng của học sinh nam
40
Bảng 3.5. Cân nặng của học sinh nữ
41
Bảng 3.6. Cân nặng của học sinh nam và nữ
43
Bảng 3.7. Vòng ngƣc trung bình của học sinh nam
46
Bảng 3.8. Vòng ngực trung bình của học sinh nữ
48
Bảng 3.9. Vòng ngực trung bình của học sinh nam và nữ
49
Bảng 3.10. Chỉ số pignet của học sinh nam và nữ
52
Bảng 3.11. BMI của học sinh nam và nữ
54
Bảng 3.12. Phân bố học sinh theo mức dinh dƣỡng
57
Bảng 3.13. Phân bố học sinh theo giới tính và mức dinh dƣỡng
58
Bảng 3.14. Chỉ số IQ của học sinh theo lứa tuổi
59
Bảng 3.15. Chỉ số IQ của học sinh theo giới tính
61
Bảng 3.16. Phân bố học sinh theo mức trí tuệ
63
Bảng 3.17. Phân bố học sinh theo giới tính và mức trí tuệ
64
Bảng 3.18. Phân bố học sinh theo kiểu hình thần kinh
66
Bảng 3.19. Phân bố học sinh nam và nữ theo kiểu hình thần kinh
69
Bảng 3.20. Trí nhớ thị giác của học sinh theo giới tính
71
Bảng 3.21. Trí nhớ thính giác của học sinh theo giới tính
73
Bảng 3.22. Trí nhớ thị giác và thính giác của học sinh nam
75
Bảng 3.23. Trí nhớ thị giác và thính giác của học sinh nữ
77
Bảng 3.24. Độ tập trung chú ý của học sinh
79
Bảng 3.25. Độ tập trung chú ý của học sinh theo giới tính
81
Bảng 3.26. Độ chính xác chú ý của học sinh
83
Bảng 3.27. Độ chính xác chú ý của học sinh theo giới tính
84
Bảng 3.28. Trạng thái cảm xúc chung của học sinh
87
Bảng 3.29. Trạng thái cảm xúc về sức khỏe của học sinh
89
Bảng 3.30. Trạng thái cảm xúc về tính tích cực của học sinh
92
Bảng 3.31. Trạng thái cảm xúc về tâm trạng của học sinh
94
Bảng 3.32. Mối liên quan giữa các chỉ số nghiên cứu
96
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
Tên hình
Trang
Hình 2.1. Biểu đồ BMI đối với nam từ 2 đến 20 tuổi
26
Hình 2.2. Biểu đồ BMI đối với nữ từ 2 đến 20 tuổi
26
Hình 3.1. Biểu đồ biểu diễn chiều cao đứng của học sinh nam
34
Hình 3.2. Biểu đồ biểu diễn chiều cao đứng của học sinh nữ
35
Hình 3.3. Đồ thị biểu diễn chiều cao đứng của học sinh
38
Hình 3.4. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng chiều cao đứng của học sinh
38
Hình 3.5. Biểu đồ biểu diễn cân nặng của học sinh nam
40
Hình 3.6. Biểu đồ biểu diễn cân nặng của học sinh nữ
42
Hình 3.7. Đồ thị biểu diễn cân nặng của học sinh nam
44
Hình 3.8. Đồ thị biểu diễn mức tăng cân nặng của học sinh
44
Hình 3.9. Biểu đồ biểu diễn vòng ngực trung bình của học sinh nam
47
Hình 3.10. Biểu đồ biểu diễn vòng ngực trung bình của học sinh nữ
48
Hình 3.11. Đồ thị biểu diễn vòng ngực trung bình của học sinh
50
Hình 3.12. Đồ thị biểu diễn mức tăng vòng ngực trung bình của học sinh
50
Hình 3.13. Đồ thị biểu diễn chỉ số Pignet của học sinh
53
Hình 3.14. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng chỉ số pignet của học sinh
53
Hình 3.15. Đồ thị biểu diễn chỉ số BMI của học sinh
55
Hình 3.16. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng chỉ số BMI của học sinh
55
Hình 3.17. Biểu đồ biểu diễn chỉ số IQ của học sinh
60
Hình 3.18. Biểu đồ biểu diễn chỉ số IQ của học sinh theo giới tính
62
Hình 3.19. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng chỉ số IQ của học sinh
62
Hình 3.20. Biểu đồ thể hiện sự phân bố học sinh theo các mức trí tuệ
65
Hình 3.21. Biểu đồ biểu diễn tỉ lệ học sinh theo kiểu hình hƣớng ngoại
67
Hình 3.22. Biểu đồ biểu diễn tỉ lệ học sinh theo kiểu hình thần kinh
hƣớng nội và trung tính
67
Hình 3.23. Biểu đồ biểu diễn tỉ lệ học sinh nam và nữ theo kiểu hình
thần kinh
70
Hình 3.24. Biểu đồ biểu diễn điểm trí nhớ thị giác của học sinh
72
Hình 3.25. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng điểm trí nhớ thị giác của học sinh
72
Hình 3.26. Biểu đồ biểu diễn điểm trí nhớ thính giác của học sinh
74
Hình 3.27. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng điểm trí nhớ thính giác của
học sinh
74
Hình 3.28. Biểu đồ so sánh điểm trí nhớ thị giác và điểm trí nhớ
thính giác của học sinh nam
76
Hình 3.29. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng điểm trí nhớ thị giác và
điểm trí nhớ thính giác của học sinh nam
76
Hình 3.30. Biểu đồ so sánh điểm trí nhớ thị giác và điểm trí nhớ
thính giác của học sinh nữ
78
Hình 3.31. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng điểm trí nhớ thị giác và
điểm trí nhớ thính giác của học sinh nữ
78
Hình 3.32. Biểu đồ biểu diễn độ tập trung chú ý của học sinh
80
Hình 3.33. Biểu đồ biểu diễn độ tập trung chú ý của học sinh theo
giới tính
81
Hình 3.34. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng độ tập trung chú ý của học sinh
82
Hình 3.35. Biểu đồ biểu diễn độ chính xác chú ý của học sinh
83
Hình 3.36. Đồ thị biểu diễn độ chính xác chú ý của học sinh theo
giới tính
85
Hình 3.37. Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng độ chính xác chú ý của học sinh
85
Hình 3.38. Biểu đồ biểu diễn điểm trạng thái cảm xúc chung của
học sinh
88
Hình 3.39. Đồ thị biểu diễn tốc độ giảm điểm cảm xúc chung của
học sinh
88
Hình 3.40. Biểu đồ biểu diễn điểm cảm xúc về sức khỏe của học
sinh
90
Hình 3.41. Đồ thị biểu diễn tốc độ giảm điểm cảm xúc về sức khỏe
của học sinh
90
Hình 3.42. Biểu đồ thể hiện trạng thái cảm xúc về tính tích cực của
học sinh
93
Hình 3.43. Đồ thị biểu diễn tốc độ giảm điểm cảm xúc về tính tích
cực của học sinh
93
Hình 3.44. Biểu đồ biểu diễn trạng thái cảm xúc về tâm trạng của
học sinh
95
Hình 3.45. Đồ thị biểu diễn tốc độ giảm cảm xúc về tâm trạng của
học sinh
95
Hình 3.46. Mối tƣơng quan giữa IQ với trí nhớ thị giác
97
Hình 3.47. Mối tƣơng quan giữa IQ với trí nhớ thính giác
98
Hình 3.48. Mối tƣơng quan giữa IQ và độ tập trung chú ý
98
Hình 3.49. Mối tƣơng quan giữa IQ và trạng thái cảm xúc
99
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Dang mục các bảng
Danh mục các biểu đồ, đồ thị
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm hình thái thể lực của trẻ em
1.2. Đặc điểm và các nghiên cứu về trí tuệ của học sinh
1.3. Kiểu hình thần kinh
1.4. Khả năng chú ý của học sinh
1.5. Trạng thái cảm xúc
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Một số chỉ số sinh học của học sinh
3.1.1. Chiều cao đứng của học sinh
3.1.2. Cân nặng của học sinh
3.1.3. Vòng ngực trung bình của học sinh
3.1.4. Chỉ số pinet của học sinh
3.1.5. BMI của học sinh
3.1.6. Tỉ lệ học sinh theo mức dinh dƣỡng
1
4
4
4
10
16
18
21
24
24
24
33
33
33
39
46
51
54
56
3.2. Năng lực trí tuệ của học sinh
3.2.1. Chỉ số thông minh của học sinh
3.2.2. Chỉ số thông minh của học sinh theo giới tính
3.2.3. Phân bố học sinh theo các mức trí tuệ
3.2.4. Phân bố học sinh theo giới tính và theo mức trí tuệ
3.3. Kiểu hình thần kinh của học sinh
3.3.1. Kiểu hình thần kinh của học sinh
3.3.2. Kiểu hình thần kinh của học sinh theo giới tính
3.4. Trí nhớ của học sinh
3.4.1. Trí nhớ thị giác của học sinh
3.4.2. Trí nhớ thính giác của học sinh
3.4.3. So sánh trí nhớ thị giác và trí nhớ thính giác của học sinh
3.5.Khả năng chú ý của học sinh
3.5.1. Độ tập trung chú ý của học sinh
3.5.2. Độ chính xác chú ý của học sinh
3.6. Trạng thái cảm xúc của học sinh
3.6.1.Trạng thái cảm xúc chung của học sinh
3.6.2. Trạng thái cảm xúc về sức khỏe của học sinh
3.6.3. Trạng thái cảm xúc về tính tích cực của học sinh
3.6.4. Trạng thái cảm xúc về tâm trạng của học sinh
3.7. Mối liên hệ giữa các chỉ số nghiên cứu
3.7.1. Mối liên quan giữa chỉ số thông minh với trí nhớ
3.7.2. Mối liên quan giữa chỉ số thông minh với độ tập trung chú ý
3.7.3. Mối liên quan giữa chỉ số thông minh với trạng thái cảm xúc
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
59
59
61
63
64
66
66
68
70
70
73
75
79
79
82
86
86
89
91
94
96
96
98
99
100
104
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
N
phát triển hợp lý để hòa nhập với xu thế chung. Trong nghị quyết đại hội đại
biểu lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam có đề ra mục tiêu: “Tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại’’. Để hoàn thành mục tiêu này cần phải tạo điều kiện phát triển lực
lƣợng sản xuất, đặc biệt là nguồn nhân lực một cách toàn diện cả về thể lực
lẫn trí tuệ nhằm nâng cao năng suất lao động. Vì vậy, việc nâng cao thể lực và
trí tuệ cho thế hệ trẻ, những chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc là cấp thiết và
cấp bách.
Các chỉ số sinh học và trí tuệ của trẻ em không phải là hằng định mà có
thể thay đổi phụ thuộc vào đối tƣợng nghiên cứu và các kì điều tra, vào sự thay
đổi của môi trƣờng tự nhiên và xã hội. Quan trọng hơn cả là chế độ dinh dƣỡng
và lƣợng thông tin [8], [9], [10], [13], [14], [30], [36], [50], [51], [61].
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các
chỉ số sinh học và trí tuệ của trẻ em Việt nam ở các địa bàn khác nhau. Các
kết quả nghiên cứu đã đƣợc lƣu lại trong các tạp chí, các tài liệu chuyên
ngành và trong cuốn “ Kết quả bƣớc đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học
ngƣời Việt Nam” [49]. Đó là các công trình của các tác giả trong nhóm đề tài
“Nghiên cứu đặc điểm sinh thể con ngƣời Việt Nam, tình trạng dinh dƣỡng và
các biện pháp nâng cao chất lƣợng sức khỏe”, mã số KX-07-07 do GS TS Lê
Nam Trà làm chủ nhiện đề tài [62], [66] và nhóm đề tài “ Nghiên cứu các chỉ
số thể lực và trí tuệ của học sinh” do GS TSKH Tạ Thúy Lan làm chủ nhiệm
2
đề tài [36], [38], [41], [42] Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần vào
việc xác định các chỉ số sinh học và trí tuệ ngƣời Việt Nam Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu về thể lực và trí tuệ của học sinh trên địa bàn tỉnh Cao
Bằng còn ít, đặc biệt trên đối tƣợng học sinh tiểu học và trung học cơ sở.
Hòa An là một huyện thuộc tỉnh Cao Bằng, phần lớn dân cƣ là dân tộc
tày làm công việc sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp là chủ yếu nên đời sống
còn gặp nhiều khó khăn ảnh hƣởng đến sự phát triển toàn diện của các em học
sinh. Từ trƣớc đến nay có rất ít đề tài nghiên cứu về tình trạng thể lực và trí
tuệ của trẻ em ở địa bàn này.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài:“Nghiên cứu một
số chỉ số sinh học và trí tuệ của học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở tại
huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng sự phát triển các chỉ số sinh học của học sinh
trƣờng tiểu học và trung học cơ sở tại huyện Hòa An (chiều cao đứng, cân
nặng, vòng ngực trung bình, chỉ số pignet, BMI).
- Xác định một số chỉ số về trí tuệ (năng lực trí tuệ, kiểu hình thần kinh,
trí nhớ ngắn hạn, khả năng chú ý và trạng thái cảm xúc) của học sinh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cƣờng phát triển thể chất đối với
học sinh trƣờng TH và THCS tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh 7 - 15 tuổi (chiều cao
đứng, cân nặng, vòng ngực trung bình, chỉ số pignet, chỉ số BMI).
- Nghiên cứu một số chỉ số trí tuệ (năng lực trí tuệ, kiểu hình thần kinh,
trí nhớ ngắn hạn, khả năng chú ý và trạng thái cảm xúc).
- Nghiên cứu mối liên quan giữa năng lực trí tuệ với các chỉ số nghiên
cứu.
3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu là học sinh từ 7 - 15 tuổi của 4 trƣờng: Tiểu
học Nƣớc Hai, Tiểu học TrƣngVƣơng, Trung học cơ sở Trƣ
.
- Phạm vi nghiên cứu là 4 trƣờng tiểu học và trung học cơ sở
.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Các chỉ số hình thái thể lực của học sinh đƣợc xác định theo các
phƣơng pháp đã chuẩn hóa hiện hành.
- Năng lực trí tuệ đƣợc xác định bằng test Ravent (loại dùng cho ngƣời
bình thƣờng từ 6 tuổi trở lên).
- Kiểu hình thần kinh đƣợc xác định bằng phƣơng pháp H.J. Eysenck.
- Trí nhớ ngắn hạn đƣợc xác định phƣơng pháp Nechaiev.
- Khả năng chú ý đƣợc xác định bằng phƣơng pháp Ochan Bourdon.
- Trạng thái cảm xúc đƣợc xác định bằng phƣơng pháp CAH.
Kết quả nghiên cứu đƣợc phân tích và xử lý trên máy tính bằng chƣơng
trình Microsoft Excel.
6. Những đóng góp của đề tài
- Đánh giá đƣợc đặc điểm phát triển của một số chỉ số thể lực và năng
lực trí tuệ của học sinh trƣờng TH và THCS tại huyện Hòa An, tỉnh Cao
Bằng. Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cƣờng phát triển thể chất, tâm lí và
trí tuệ của học sinh trƣờng TH và THCS tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
- Xác định mối liên quan giữa thể lực với năng lực trí tuệ của học sinh.
- Các dẫn liệu trong luận văn có thể là nguồn tài liệu cho việc nghiên
cứu và giảng dạy về đặc điểm phát triển của trẻ em lứa tuổi học đƣờng nói
chung và của học sinh trƣờng TH và THCS tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng
nói riêng.
4
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm về hình thái thể lực của trẻ em
Thể lực của con ngƣời là một chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tổng hợp của
cơ thể có liên quan chặt chẽ với sức lao động và thẩm mỹ. Các chỉ số hình
thái thể lực phản ánh mức độ phát triển của các hệ cơ quan trong cơ thể hoàn
chỉnh. Một trong số những biểu hiện cơ bản của thể lực là các số đo kích
thƣớc, trong đó có chiều cao, cân nặng và vòng ngực. Từ các chỉ số cơ bản kể
trên có thể tính thêm các chỉ số khác biểu hiện mối liên quan giữa chúng nhƣ
chỉ số pignet, chỉ số khối cơ thể (BMI). . . . Các chỉ số này có ý nghĩa trong
việc đánh giá sự phát triển thể lực của cơ thể con ngƣời từ lúc mới sinh đến
lúc chết.
Trong các chỉ số về hình thái thể lực, chiều cao là chỉ số quan trọng
nhất thƣờng đƣợc lựa chọn trong hầu hết các lĩnh vực ứng dụng nhân trắc học,
chiều cao phản ánh quá trình phát triển chiều dài của xƣơng và nói lên tầm
vóc của con ngƣời. Ludman Nold và Volanski [62] đã có nhiều minh chứng
cho thấy ảnh hƣởng của hoàn cảnh địa lý đến sự tăng trƣởng chiều cao. Ý
nghĩa phổ biến hơn cả của chiều cao là ở chỗ đƣợc coi nhƣ biểu hiện của thể
lực và nó là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá thể lực trong công tác tuyển
chọn vào quân đội, tuyển học sinh, tuyển lao động…cũng nhƣ trong hầu hết
các cuộc điều tra cơ bản về hình thái học, nhân chủng học, y học. Sự phát
triển chiều cao phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố bên trong cơ thể nhƣ di truyền,
hoocmôn… và các yếu tố bên ngoài nhƣ dinh dƣỡng, điều kiện kinh tế, văn
hóa xã hội… Các yếu tố này tác động lên sự phát triển chiều cao một cách
dần dần, liên tục và không đồng nhất (theo [46]).
5
Cân nặng (khối lƣợng của cơ thể) cũng là một chỉ số đƣợc dùng để
đánh giá về dinh dƣỡng - thể lực của con ngƣời sớm nhất và phổ biến nhất.
Từ thế kỷ XIII Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số quan trọng để đánh giá
thể lực [75]. Cân nặng của cơ thể liên quan chặt chẽ với điều kiện dinh dƣỡng
hơn là phụ thuộc vào yếu tố di truyền [3], [54]. Cân nặng tăng không đồng
đều trong quá trình phát triển của con ngƣời. Ở các châu lục khác nhau, cân
nặng của cơ thể con ngƣời cũng khác nhau và trong cùng một nƣớc ở mỗi
vùng miền cũng có sự khác nhau [25].
Vòng ngực cũng đƣợc coi là đặc trƣng cơ bản phản ánh thể lực của con
ngƣời. Đầu thế kỉ XIX các bác sỹ lâm sàng là những ngƣời đầu tiên lƣu ý tới
số đo của vòng ngực. Họ nhận thấy, có mối liên quan giữa mức độ phát triển
lồng ngực và các bệnh của cơ quan hô hấp. Đến cuối thế kỷ XIX, vòng ngực
trở thành một chỉ tiêu đánh giá thể lực quan trọng sau chiều cao trong các
cuộc tuyển chọn binh lính, nhân công lao động… Khi ngƣời ta khẳng định
tầm quan trọng của việc gia tăng lƣợng ôxi đƣa vào phổi thì độ giãn nở của
lồng ngực cũng đƣợc lƣu ý thêm qua số đo vòng ngực hít vào và thở ra. Vòng
ngực chỉ tăng nhanh vào giai đoạn dậy thì và phát triển đến một giai đoạn
nhất định thì dừng lại. Ở nữ, tuổi dậy thì (11 - 13 tuổi) đến sớm hơn ở nam
(13 - 15 tuổi) [40].
Pignet là một trong các chỉ số đƣợc nghiên cứu để đánh giá mối tƣơng
quan giữa chiều cao với cân nặng và vòng ngực. Chỉ số pignet đã đƣợc quốc
tế thừa nhận từ lâu và đƣợc dùng để đánh giá thể lực của con ngƣời. Đây
là một chỉ số dễ vận dụng cho mọi đối tƣợng khi dùng các phƣơng pháp
tính các chỉ số nhân trắc nên đã đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu [6], [9],
[13], [18], [19], [27], [46] …
Hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Nông lƣơng Thế giới
(FAO) đã công nhận chỉ số khối cơ thể (Body mass index = BMI) là chỉ số
6
đƣợc dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của một ngƣời, còn chỉ số pignet
để đánh giá mức độ khỏe hay yếu.
Rudolf Martin là ngƣời đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại qua 2
tác phẩm nổi tiếng “Giáo trình về nhân trắc học” và “Kim chỉ nam đo đạc cơ
thể và xử lý thống kê”. Trong các công trình này, ông đã đề xuất một số
phƣơng pháp và dụng cụ đo đạc các kích thƣớc của cơ thể cho đến nay vẫn
đƣợc sử dụng. Sau Rudolf Martin đã có nhiều công trình bổ sung và hoàn thiện
thêm các đề xuất của ông cho phù hợp với thực tiễn của mỗi nƣớc. Những công
trình nghiên cứu của P.N.Baskirov trong cuốn “Nhân trắc học” (1962) đã đƣa
ra quy luật phát triển cơ thể ngƣời dƣới ảnh hƣởng của điều kiện sống. Evan
Dervael trong cuốn “Nhân trắc học” (1964) đã đƣa ra nhận xét toàn diện về các
quy luật phát triển thể lực theo giới tính, theo lứa tuổi và nghề nghiệp. Ngoài
ra, còn có các công trình của Bunak, A.M.Uruxon (theo [62]).
Công trình đầu tiên trên thế giới cho thấy sự tăng trƣởng một cách hoàn
chỉnh ở các lớp tuổi từ 1 đến 25 là luận án tiến sỹ của Christian Fridrich Jumpert
ngƣời Đức vào năm 1754. Cũng trong khoảng thời gian này, xuất hiện nghiên
cứu của P. Montbeilard thực hiện trên con trai mình trong 18 năm liên tục từ
năm 1759 đến năm 1777 (theo [48]). Đây là phƣơng pháp rất tốt đã đƣợc ứng
dụng cho đến ngày nay. Sau đó, còn có nhiều công trình khác của Edwin
Chadwick ở Anh, Carlschule ở Đức, H.P. Bowditch ở Mỹ, Paul Godin ở Pháp…
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu đầu tiên về sự tăng trƣởng chiều
cao và cân nặng của trẻ em là của Mondiere (1875). Sau đó là công trình của
Huard và Bogot (1938) qua tác phẩm “Những đặc điểm nhân chủng và sinh
học của ngƣời Đông Dƣơng” hay “ Hình thái học ngƣời và giải phẫu thẩm mỹ
học” của Huard và Đỗ Xuân Hợp (1943) (theo [48]). Tuy số lƣợng chƣa
nhiều, nhƣng các tác phẩm đã nêu đƣợc các đặc điểm nhân trắc của ngƣời
Việt Nam đƣơng thời.
7
Sau năm 1954, có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu các đặc điểm hình
thái, giải phẫu, sinh lý của ngƣời Việt Nam. Năm 1975 cuốn sách “Hằng số
sinh học ngƣời Việt Nam” [63] do giáo sƣ Nguyễn Tấn Gi Trọng làm chủ
biên đƣợc xuất bản. Đây là một công trình trình bày khá hoàn chỉnh về các chỉ
số sinh học, sinh lý, hóa sinh của ngƣời Việt Nam. Trong đó, các chỉ số sinh
học của ngƣời Việt Nam từ sơ sinh tới 15 tuổi đƣợc nghiên cứu tƣơng đối
toàn diện . Có 30 chỉ số về đặc điểm hình thái thể lực trẻ em đƣợc công bố
nhƣ chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, chỉ số pignet, BMI, QVC.
Các chỉ số sinh học của ngƣời Việt Nam đƣợc thể hiện qua tập “Atlas
nhân trắc học ngƣời Việt Nam trong lứa tuổi lao động” của tập thể tác giả do Võ
Hƣng làm chủ biên [28]. Atlas đã cung cấp số liệu về hình thái ngƣời lao động
Việt Nam ở cả ba miền của đất nƣớc và còn gợi mở một nhận xét về các qui luật
phát triển tầm vóc cũng nhƣ đặc điểm hình thái ngƣời lao động Việt Nam.
Từ năm 1980 - 1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp [13] đã nghiên cứu dọc 31
chỉ số sinh học của 101 học sinh Hà Nội từ 6 - 17 tuổi. Tác giả đã rút ra kết
luận là chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 11 - 12 tuổi ở nữ, 13 - 15 tuổi ở
nam. Cân nặng phát triển mạnh nhất lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuổi ở nam. Tác
giả cũng nhận thấy, có sự gia tăng về chiều cao và cân nặng của học sinh.
Quy luật phát triển các đoạn chi phù hợp với quy luật phát triển chiều cao,
còn quy luật phát triển kích thƣớc các vòng gần giống với quy luật phát triển
cân nặng.
Năm 1991, Đào Huy Khuê [30] đã nghiên cứu 36 chỉ tiêu kích thƣớc về
sự tăng trƣởng và phát triển cơ thể của 1478 học sinh từ 6 - 17 tuổi ở Thị xã
Hà Đông, tỉnh Hà Sơn Bình. Tác giả nhận thấy, hầu hết các chỉ số sinh học
đều tăng dần theo tuổi, nhƣng nhịp độ tăng trƣởng không đều. Tốc độ tăng
trƣởng các thông số lớn nhất của nam thƣờng ở lứa tuổi 14 - 16 và của nữ ở
lứa tuổi 11 - 15. Từ 6 - 9 tuổi, các kích thƣớc của nam và nữ không khác biệt
8
rõ rệt. Từ 11 - 15, các kích thƣớc của nữ thƣờng cao hơn của nam. Tác giả
cũng cho rằng, có sự gia tăng chiều cao của ngƣời Việt Nam.
Năm 1991 - 1995, nhóm tác giả Trần Văn Dần và cs [9], nghiên cứu
trên 13747 học sinh từ 8 - 14 tuổi ở các địa phƣơng Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái
Bình về các chỉ số chiều cao, cân nặng và vòng ngực trung bình. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, so với số liệu trong cuốn “HSSH” [63] thì sự phát triển
chiều cao của trẻ em từ 6 - 16 tuổi tốt hơn, đặc biệt là trẻ em thành phố, thị xã.
Nhƣng sự gia tăng cân nặng chỉ thấy rõ ở trẻ em Hà Nội, còn ở khu vực nông
thôn chƣa thấy có sự thay đổi đáng kể. Qua so sánh kết quả nghiên cứu năm
1871 và năm 1993 các tác giả nhận thấy, sau hơn một thập kỷ, đối với học
sinh Hà Nội có sự khác biệt rõ rệt về chiều cao và cân nặng. Còn đối với học
sinh Vĩnh Phú thì về chiều cao có sự khác biệt rõ, còn về cân nặng chƣa có sự
khác biệt rõ. So với học sinh nông thôn ở cùng một độ tuổi thì học sinh ở
thành phố, thị xã có xu hƣớng phát triển thể lực tốt hơn (theo [46]).
Nghiêm Xuân Thăng [58], đã đo 17 chỉ số hình thái (chiều cao, cân
nặng, vòng ngực, chỉ số pignet, Broca ) của ngƣời Việt Nam từ 1 - 25 tuổi ở
một số vùng của Nghệ An và Hà Tĩnh. Tác giả có nhận xét, sự phát triển
chiều cao ở tất cả các độ tuổi của cƣ dân vùng Nghệ An có khí hậu vừa nóng
khô vừa nóng ẩm so với cƣ dân vùng đồng bằng Bắc Bộ không có thời kỳ
nóng khô thấp hơn 0,5 - 4cm, nhƣng cân nặng lại tƣơng đƣơng, mức chênh
lệch cao nhất cũng chỉ là 0,5kg. Theo tác giả, điều kiện sống đã ảnh hƣởng
đến sự sinh trƣởng và phát triển các chỉ số hình thái của con ngƣời. Tác giả
còn cho biết, các chỉ số về kích thƣớc có sự khác biệt giữa nam và nữ, ở các
độ tuổi, các kích thƣớc của nam đều lớn hơn của nữ. Tuy nhiên, cũng có một
số giai đoạn nữ phát triển nhanh hơn nam và đạt giá trị lớn hơn. Ở các lứa tuổi
khác nhau, có sự phát triển không đồng đều, phát triển nhanh ở độ tuổi 5 - 7,
10 - 11và 13 - 14 tuổi.
9
Công trình nghiên cứu của nhóm tác giả A.Goran, Nguyễn Công khanh,
J.Lidgren, Dƣơng Bá Trực, Trần Thu Hà [16] trên học sinh từ 7 đến 11 tuổi
quận Đống Đa, Hà Nội về cân nặng, chiều cao và BMI cho thấy, cả ba chỉ số
này đều tăng dần theo tuổi.
Từ năm 1998 - 2002, Trần Thị Loan [46] nghiên cứu trên học sinh Hà
Nội từ 6 - 17 tuổi. Tác giả nhận thấy, chiều cao của học sinh nam tăng nhanh
ở giai đoạn 11 - 15 tuổi, của học sinh nữ ở giai đoạn 10 - 13 tuổi. Cân nặng
của học sinh tăng nhanh lúc 14 - 16 tuổi đối với nam và ở học sinh nữ là lúc
12 - 14 tuổi, vòng ngực trung bình của học sinh nam tăng nhanh lúc 13 - 16
tuổi, ở học sinh nữ lúc 12 - 14 tuổi. Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của
một số tác giả từ thập kỷ 80 trở về trƣớc và so với học sinh ở Thái Bình, Hà
Tây ở cùng thời điểm nghiên cứu thì kết quả về các chỉ số sinh học của học
sinh Hà Nội lớn hơn. Điều này chứng tỏ, điều kiện sống đã ảnh hƣởng tới sự
sinh trƣởng và phát triển thể lực của học sinh.
Năm 2009, Đỗ Hồng Cƣờng [6] nghiên cứu một số chỉ số sinh học của
học sinh THCS các dân tộc tỉnh Hoà Bình đã cho thấy, tốc độ tăng các chỉ số
sinh học của học sinh diễn ra không đều. Chiều cao của học sinh nam tăng
nhanh nhất ở giai đoạn từ 13 - 15 tuổi và của học sinh nữ từ 11 - 13 tuổi. Tốc
độ tăng cân nặng của học sinh nam diễn ra nhanh ở giai đoạn 13 - 15 tuổi, của
học sinh nữ từ 11 - 13 tuổi. Vòng ngực trung bình của học sinh nam tăng
nhanh nhất ở giai đoạn từ 13 - 15 tuổi, ở học sinh nữ từ 11 - 13 tuổi.
Năm 2010, Hoàng Quý Tỉnh [61] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc
điểm hình thái cơ thể trẻ em ngƣời dân tộc Thái, Hmông, Dao ở tỉnh Yên Bái
và các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các chỉ số sinh học của
trẻ em các dân tộc nghiên cứu thể hiện tính quy luật phát triển cơ thể của
ngƣời Việt Nam. Tuy nhiên, chế độ dinh dƣỡng có ảnh hƣởng đến chiều cao,
cân nặng của trẻ em. Điều này thể hiện ở chỗ tỉ lệ suy dinh dƣỡng thể còm,
10
còi và nhẹ cân còn cao ở trẻ em các dân tộc nghiên cứu. Các chỉ số sinh học
của học sinh cũng đƣợc nhiều tác giả khác nghiên cứu [4], [10], [11], [16],
[19], [24], [26], [39], [44], [45], [53], [65], [69], [70].
Gần đây, nghiên cứu của Trần Thị Minh Hạnh [18] trên học sinh phổ
thông ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2004 - 2009 cho thấy, chiều cao của
học sinh nam đã tăng 1,2 - 2,4 cm nhƣng chiều cao của học sinh nữ lại không
có sự thay đổi đáng kể. So với học sinh ngoại thành, học sinh nội thành cao
hơn 3 - 4 cm và nặng hơn 8,5 - 10 kg, tỉ lệ suy dinh dƣỡng thấp hơn nhƣng tỉ
lệ thừa cân lại cao hơn gấp 2 - 5 lần.
Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu về thể lực của học sinh ở Việt Nam
khá phong phú. Tuy kết quả nghiên cứu trong các công trình có sự khác nhau
ít nhiều, nhƣng đều xác định đƣợc là chúng biển đổi theo lứa tuổi và mang
đặc điểm giới tính. Trong quá trình phát triển ở trẻ em có hai giai đoạn nhảy
vọt tăng trƣởng. Mốc đánh dấu lứa tuổi nhảy vọt của các công trình là tƣơng
đối thống nhất. Chiều cao tăng nhanh nhất từ 12 - 15 tuổi ở nam và 11 - 13
tuổi ở nữ, còn cân nặng cũng tăng nhanh nhất từ 13 - 15 tuổi ở nam và 11 -13
tuổi ở nữ, vòng ngực trung bình tăng nhanh nhất từ 14 - 16 tuổi ở nam và 12 -
14 tuổi ở nữ. Các chỉ số này có sự khác biệt giữa nam và nữ, giữa học sinh
thành phố, thị xã và học sinh nông thôn.
1.2. Đặc điểm và các nghiên cứu về trí tuệ của học sinh
1.2.1. Trí tuệ và các nghiên cứu về trí tuệ
Theo tiếng Latinh, trí tuệ có nghĩa là hiểu biết thông tuệ. Theo từ điển
tiếng việt [71] trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất
định.
Trí tuệ là một phẩm chất rất quan trọng trong hoạt động của con ngƣời,
liên quan đến cả phẩm chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, việc nghiên cứu trí
11
tuệ, đƣợc coi là một lĩnh vực liên ngành, đòi hỏi sự kết hợp của các nhà sinh lí
học, tâm lí học, toán học, điều khiển học và các ngành khoa học khác.
Cho đến nay, vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về trí tuệ và có thể
thấy rõ ba khuynh hƣớng chính. Khuynh hƣớng thứ nhất coi trí tuệ là năng
lực nhận thức, năng lực học tập của cá nhân. Theo Huarte J. thì trí tuệ là tập
hợp các khả năng lĩnh hội tri thức, phán xét, đánh giá và sáng tạo. Hệ thống
những thuộc tính trí tuệ là những năng lực chung đảm bảo cho sự lĩnh hội tri
thức một cách rõ ràng và có hiệu quả [68]. Khuynh hƣớng thứ hai coi trí tuệ là
năng lực tƣ duy trừu tƣợng. Chức năng của trí tuệ là sử dụng có hiệu quả các
khái niệm. Hạt nhân của trí tuệ là thao tác tƣ duy nhƣ phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa [68]. Khuynh hƣớng thứ ba coi trí tuệ là
năng lực thích nghi của con ngƣời đối với thế giới xung quanh. Theo
Wechsler. [74], trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, đƣợc thể hiện trong
hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán, thông hiểu và làm cho môi
trƣờng thích nghi với những khả năng của mình. Piaget J. [55], [73] lại coi trí
tuệ là hình thái nhất định của sự cân bằng, hình thành trên cơ sở tri giác, kỹ
xảo. Bản chất của trí tuệ bộc lộ trong mối quan hệ giữa cơ thể với môi trƣờng
[27]. Ngoài ra, năng lực trí tuệ còn đƣợc biểu hiện ở các phẩm chất khác nhƣ
sự tò mò, long say mê, sự hứng thú, sự kiên trì và miệt mài. Năng lực trí tuệ
còn thể hiện ra hành động nhƣ nhanh trí, tháo vát, linh hoạt hay thể hiện ở khả
năng tƣởng tƣợng ( trí tƣởng tƣợng phong phú, hình dung ngay và đúng điều
ngƣời khác nói). Nhƣ vậy, có thể nói năng lực trí tuệ biểu hiện ở cả hai mặt
nhận thức lẫn hành động.
Xung quanh các vấn đề về trí tuệ, các nhà nghiên cứu còn dùng nhiều
thuật ngữ “trí khôn”, “trí thông minh”…. Theo Nguyễn Khắc Viện, khả năng
hành động thích nghi với biến động của hoàn cảnh thiên nhiên đƣợc gọi là trí
khôn. Nếu khả năng này thiên về tƣ duy trừu tƣợng thì gọi là trí tuệ (theo [5]).
12
Theo Claparade và Stern, trí khôn là sự thích nghi của tinh thần đối với hoàn
cảnh mới. D.Wechsler lại coi trí khôn là tổng thể của nhiều chức năng trí tuệ
gắn chặt với các điều kiện văn hóa, xã hội nơi con ngƣời sinh ra và lớn lên.
Thông minh là khả năng phản ứng có hiệu quả trong những tình huống mới,
là khả năng tƣ duy và giải quyết những vấn đề nảy sinh [5]. Nhƣ vậy, trí tuệ,
trí khôn và trí thông minh là những khái niệm có điểm trùng nhau. Trong đó,
trí khôn, trí thông minh là phạm trù hẹp hơn nằm trong nội hàm trí tuệ.
Trí tuệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống và hoạt động của
con ngƣời. Vì vậy, từ lâu nó đã trở thành vấn đề đƣợc nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nƣớc quan tâm. Việc sử dụng các thí nghiệm trắc nghiệm về trí
tuệ đã có từ năm 2200 trƣớc công nguyên, khi ngƣời Trung Hoa dùng chúng
để tuyển chọn ngƣời có tài năng làm kẻ hầu [32], [59].
Trên thế giới, ngƣời đầu tiên nghiên cứu về trí tuệ là F.J.Gall [52]. Vào
đầu thế kỷ XVII, ông đã đƣa ra thuật ngữ “não tƣớng học” và cho rằng chức
năng trí tuệ tập trung ở các vùng chuyên biệt nên có thể đánh giá trí tuệ con
ngƣời qua đƣờng nét và đo sọ não. Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu
về trí tuệ của F.Galton (1893), Binnet và Simon (1905), Petersalovey và John
Mager (theo [32], [59])
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu trí tuệ mới chỉ đƣợc tiến hành trong vài
chục năm trở lại đây. Trƣớc năm 1975, các công trình nghiên cứu trí tuệ của
con ngƣời chƣa đƣợc quan tâm nhiều. Chỉ có ít công trình do cán bộ trong
ngành y sử dụng để chẩn đoán trí tuệ của bệnh nhân tâm thần ở bệnh viện
Bạch Mai và bệnh viện nhi Thụy Điển [59]. Từ cuối những năm 1980 đến nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu về trí tuệ ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu
của các công trình [1], [2], [20], [21], [59], [60] cho thấy, có thể sử dụng
các trắc nghiệm trí tuệ để chẩn đoán khả năng hoạt động trí tuệ của trẻ em.
13
Tác giả đầu tiên nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của học sinh Việt Nam
là Trần Trọng Thủy [59]. Ông đã nghiên cứu sự phát triển trí tuệ bằng test
Raven (1989) và xác định đƣợc chiều hƣớng, cƣờng độ, trình độ và chất
lƣợng phát triển trí tuệ của học sinh. Ông còn đề cập đến mối tƣơng quan giữa
trí tuệ và thể lực của học sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự phân bố học
sinh theo chỉ số IQ gần giống với phân phối chuẩn, có sự khác biệt về chỉ số
IQ giữa học sinh ở thành thị và ở nông thôn, trình độ phát triển trí tuệ của học
sinh Việt Nam không thua kém học sinh nƣớc ngoài.
Năm 1991, Ngô Công Hoàn [20] nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của
học sinh thành phố Huế và Hà Nội đã nhận thấy, có sự chênh lệch về mức độ
phát triển trí tuệ giữa học sinh thƣờng và học sinh chuyên toán.
Nguyễn Thạc, Lê Văn Hồng (1993) [57] qua nghiên cứu sự phát triển
trí tuệ của học sinh Hà Nội từ 10 - 14 tuổi đã cho thấy, sự phát triển trí tuệ
tăng theo lứa tuổi và có sự phân hoá từ 11 tuổi trở đi, trí tuệ của nam có xu
hƣớng cao hơn của nữ.
Năm 1994, Trịnh Văn bảo [3] đã nghiên cứu mối quan hệ giữa yếu tố di
truyền và sự pháp triển trí tuệ của học sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, di
truyền là tiền đề, là cơ sở cho sự phát triển trí tuệ của con ngƣời.
Dƣới sự chủ trì của giáo sƣ, tiến sĩ khoa học Tạ Thúy Lan, từ năm 1990
đến nay, nhiều cán bộ của các trƣờng đại học đã tiến hành nghiên cứu hoạt
động trí tuệ của học sinh, sinh viên. Tạ Thuý Lan và Võ Văn Toàn [41], [42],
[44] nghiên cứu khả năng hoạt động trí tuệ của học sinh tiểu học, trung học cơ
sở ở Quy Nhơn và Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng lực trí tuệ của
học sinh phát triển theo lứa tuổi và có mối tƣơng quan thuận với kết quả học
tập. Khả năng trí tuệ của học sinh Quy Nhơn thấp hơn so với của học sinh Hà
Nội cùng tuổi.
Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (1996) [37] đã nghiên cứu đánh giá sự