Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở đàn trâu tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang và thử nghiệm phác đồ điều trị.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.7 KB, 58 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN THÀNH LONG




Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH TIÊN MAO TRÙNG
(TRYPANOSOMIASIS) Ở ĐÀN TRÂU TẠI HUYỆN CHIÊM HÓA,
TỈNH TUYÊN QUANG VÀ THỬ NGHIỆM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi - Thú y
Khoá : 2010 - 2015
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thu Trang




Thái Nguyên, 2014
LỜI CẢM ƠN

Được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm Khoa
Chăn nuôi Thú y, em được phân công về thực tập tại Trạm Thú y huyện
Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang. Đến nay em đã hoàn thành đợt thực tập tốt
nghiệp và khóa luận tốt nghiệp của mình. Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng
biết ơn và sự kính trọng sâu sắc nhất tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban Chủ
nhiệm khoa, tập thể các thầy cô giáo trong Khoa Chăn nuôi Thú y – Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy, dìu dắt em trong suốt
quá trình học và đợt thực tập thực hiện khóa luận này.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của
cô giáo hướng dẫn ThS. Nguyễn Thu Trang cùng ThS. Phạm Thị Trang đã
giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp và hoàn thành khóa luận
này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban lãnh đạo và tập thể cán
bộ nhân viên Trạm Thú y huyện Chiêm Hóa đã giúp đỡ em trong quá trình
thực tập tốt nghiệp tại cơ sở.
Nhân dịp này, em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình,
bạn bè và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện về vật chất cũng như tinh thần
động viên em trong suốt quá trình học tập và thực tập tốt nghiệp.
Em xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo trong Hội đồng chấm Khóa
luận lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014

Sinh viên



Nguyễn Thành Long
LỜI NÓI ĐẦU
Để trở thành một bác sĩ thú y trong tương lai, ngoài việc phải trang bị
cho mình một lượng kiến thức về lý thuyết, mỗi sinh viên cần phải trải qua
giai đoạn thực tập thử thách về thực tế, tự mình trau dồi kỹ năng và đạo đức.
Chính vì vậy, thực tập tốt nghiệp là một khâu quan trọng đối với các trường
Đại học nói chung và Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng. Đây
là thời gian cần thiết để mỗi sinh viên củng cố và hệ thống lại các kiến thức đã
học trong nhà trường, đồng thời giúp sinh viên làm quen với thực tế sản xuất,
nâng cao tay nghề, tích lũy kinh nghiệm chuyên môn, áp dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn sản xuất, góp phần vào sự phát triển của nền nông
nghiệp nước nhà.
Xuất phát từ những lý do trên, được sự nhất trí của Ban Giám hiệu nhà
trường, Ban Chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y – Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận
của Trạm Thú y huyện Chiêm Hóa, em được về thực tập tốt nghiệp tại cơ sở
từ tháng 06 tới tháng 11/2014 thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ
bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở đàn trâu tại huyện Chiêm Hóa,
tỉnh Tuyên Quang và thử nghiệm phác đồ điều trị”.
Đến nay, thời gian thực tập đã kết thúc và khóa luận tốt nghiệp của em
đã hoàn thành. Do thời gian thực tập có hạn, kiến thức chuyên môn và kinh
nghiệm chưa nhiều nên kết quả báo cáo khóa luận này không tránh khỏi
những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự giúp đỡ, thông cảm và những
góp ý quý báu của các thầy cô giáo, bạn bè để khóa luận của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên



Nguyễn Thành Long
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Cs : Cộng sự
TMT : Tiên mao trùng
Kg : Kilôgam
TT : Thể trọng
Nxb : Nhà xuất bản
T. evansi : Trypanosoma evansi
VGS : Vanant Glycoprotein Surface
ISG : Invanant Surface Glycoprotein
VAT : Variable Antigen Typet
LATEX : Latex Agglutination Test
IFAT : Indirect Fluorecent Antibody Test
ELISA : Enzym Linked Immunosorbent Assay
CATT : Card Agglutination Test for Trypanosomiasis








1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh tiên mao trùng hay còn gọi là bệnh ngã nước, do Trypanosoma
(Trypanosomiasis) là bệnh truyền nhiễm lây giữa người và gia súc do ký

sinh trùng đơn bào (Protozoa) lớp trùng roi (Flagellata) gây ra. Trâu mắc
bệnh ở thể cấp tính thường sốt cao 40 – 41,7
0
C với các triệu chứng thần kinh
như ngã quỵ, kêu rống, đi vòng tròn….Trâu bệnh sẽ chết sau 7 – 15 ngày.
Theo số liệu của Phạm Sỹ Lăng (1982) [14], Phan Địch Lân (1994,
2004) [19], Phan Văn Chinh (2006) [4], bệnh tiên mao trùng xuất hiện ở
nhiều vùng trên cả nước, với tỷ lệ mắc khá cao: trên trâu là 13 – 30 %, trên
bò là 7 – 14%, trong đó tỷ lệ gia súc chết khi gia súc mắc bệnh từ 6,3 – 20%.
Khả năng phát sinh và phát triển bệnh tiên mao trùng phụ thuộc nhiều
vào điều kiện thời tiết, khí hậu, tập quán chăn nuôi và chế độ làm việc của
gia súc. Sự thay đổi các điều kiện trên sẽ ảnh hưởng đến khả năng gây bệnh
cũng như dịch tễ bệnh. Huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang có địa hình
đồi núi, khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều là điều kiện
thích hợp cho ruồi trâu, mòng (ký chủ trung gian truyền bệnh tiên mao
trùng) phát triển. Chúng hút máu truyền bệnh tiên mao trùng từ trâu bệnh
sang trâu khỏe làm bệnh phát tán nhanh chóng và có thể gây thiệt hại nặng
nề cho người chăn nuôi. Vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh và
thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis)
ở đàn trâu tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang và thử nghiệm phác
đồ điều trị”.
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các đặc điểm dịch tễ bệnh do Trypanosoma evansi gây ra
ở đàn trâu tại huyện Chiêm Hóa – tỉnh Tuyên Quang.
- Lựa chọn phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng có hiệu quả, phù hợp
với điều kiện chăn nuôi miền núi.
- Xây dựng quy trình phòng, trị bệnh, góp phần hạn chế những thiệt

hại do bệnh tiên mao trùng cho đàn trâu ở huyện Chiêm Hóa – tỉnh Tuyên
Quang.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Giúp người chăn nuôi trâu hiểu biết thêm về bệnh tiên mao trùng do
Trypanosoma evansi gây ra, đồng thời khuyến cáo người chăn nuôi áp dụng
các biện pháp phòng và trị bệnh cho trâu có hiệu quả.
1.4. Ý nghĩa của đề tài.
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ và
quy trình phòng chống bệnh tiên mao trùng ở trâu.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi
áp dụng quy trình phòng, trị bệnh tiên mao trùng; nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm
và thiệt hại do Trypanosoma evansi gây ra; góp phần nâng cao năng suất
chăn nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu phát triển.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại Trypanosoma
2.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân loại
động vật học
Theo Levine và cs (1980) (dẫn theo Lương Văn Huấn và cs, 1997)
[9], vị trí của tiên mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào
(Protozoa) như sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida

Phân bộ Trypanosomatorida
Họ Trypanosomatidae Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Giống phụ Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Giống phụ Herpetosoma Donein, 1901
Loài Trypanosoma (H) leisi
Giống phụ Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi
Giống phụ Duttonella Chalmers, 1918
Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trvpanosoma (D) uniform
Giống phụ Nalmomonas Hoare, 1964
4
Loài Trypanosoma (N) congolense
Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Giống phụ Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Trypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Giống phụ Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Giống phụ Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi Steel,
1885
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài được tổ chức dịch tễ quốc
tế (OIE) thông báo là có khả năng gây bệnh cho người và động vật có
vú, đó là: T. brucei, T. congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T.

siminae, T. vivax.
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng
Tiên mao trùng T. evansi được xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ
là một tế bào, có kích thước nhỏ, chiều dài 18 - 34 µm (trung bình là 25 µm),
chiều rộng 1,5 - 2µm. Cơ thể có hình suốt chỉ mảnh hoặc hình thoi, cuối thân
nhọn. Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống như cấu trúc
của các loài tiên mao trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae. Cấu trúc từ
ngoài vào trong được chia thành 3 phần chính:
- Vỏ: ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ được chia làm 3 lớp
(lớp ngoài và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp
giữa). Lớp vỏ ngoài cùng được cấu tạo từ các phân tử glycoprotein luôn biến
5
đổi (Vanant Glycoprotein Surface -VGS). Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9
cặp vi ống xếp song song dọc theo chiều dài thân tiên mao trùng. Chính nhờ
sự sắp xếp của các cặp vi ống nên tiên mao trùng có dạng hình suốt chỉ
mảnh (Hoare, 1972 [40]; Phạm Sỹ Lăng, 1982 [14]; Nguyễn Quốc Doanh,
1999 [7]).
- Nguyên sinh chất: gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh chất có
chứa các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào màu
sáng, kinetoplast (thể cơ động), mitochrondno, reticulum (lưới nội bào)
và mạng lưới golgi.
- Nhân: nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình
trứng. Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể.
Ngoài nhân, về phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa AND (KADN).
Từ kinetoplast có một roi chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ
thể thành một roi tự do. Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống
lớp vỏ của thân. Trong roi có 9 cặp vi ống ở xung quanh và một cặp ở trung
tâm, xếp song song dọc chiều dài roi (Hoare, 1972 [40]; Nguyễn Quốc
Doanh, 1999 [7]).
2.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma evansi

Kháng nguyên của T. evansi gồm hai loại: kháng nguyên ổn định
(kháng nguyên không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi
* Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phần lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến đổi
trong quá trình sống ký sinh. Bằng phương pháp điện di miễn dịch huyết
thanh thỏ tối miễn dịch với T. evansi, Kageruka (1982) đã phát hiện tới 30
thành phần kháng nguyên khác nhau. Có ba loại kháng nguyên không biến
đổi ở màng nguyên sinh chất tế bào (ISG: Invanant Surface Glycoprotein):
ISG 65, ISG 75 và ISG 100. Do cấu trúc không gian ba chiều và đặc tính ưa
6
nước, các loại này không kết hợp với kháng thể của vật chủ (Nolan, 1997).
* Kháng nguyên biến đổi
Về kháng nguyên biến đổi, cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt
VSG (Variant Surface Glycoprotein), những quan điểm mới về sự xuất
hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng và cơ chế di truyền của
kháng nguyên biến đổi.
Nhờ kháng thể đặc hiệu được đánh dấu mà Vickerman và Luckins
(1969) đã phát hiện ra sự biến đổi của lớp kháng nguyên bề mặt. Cross
(1975) đã mô tả lớp áo bề mặt của tiên mao trùng có thành phần là
glycoprotein bao phủ toàn bộ bề mặt tế bào bằngmột lớp phân tử giống nhau
(mỗi tiên mao trùng có 107 phân tử). Lớp áo bề mặt này kích thích cơ thể
vật chủ tạo ra kháng thể đặc hiệu với từng type kháng nguyên biến đổi VAT
(Variable Antigen Type). Chỉ có kháng nguyên biến đổi mới có khả năng
kích thích vật chủ tạo miền dịch chủ động. Người ta ước lượng rằng, một
con tiên mao trùng có ít nhất vài trăm hoặc vài nghìn VSG, nghĩa là 5 - 10%
số gen của tiên mao trùng cung cấp cho kháng nguyên bề mặt này.
Nhiều tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng
biến đổi kháng nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ.
Tuy nhiên, Van Meirvenne (1975) cho biết, sự biến đổi kháng nguyên bề
mặt của ký sinh trùng đã có ngay ở pha đầu tiên của quá trình nhiễm (trước

khi xuất hiện đáp ứng miễn dịch của cơ thể vật chủ). Theo Hajduc và
Vickernlan (1981), hiện tượng biến đổi kháng nguyên bề mặt của tiên mao
trùng còn thấy ở gia súc đã bị tiêm thuốc làm suy giảm miễn dịch. Những
quan điểm này là hoàn toàn mới để lý luận về sự xuất hiện kháng nguyên
biến đổi của tiên mao trùng. Như vậy, quan điểm về sự biến đổi kháng
nguyên lớp vỏ của tiên mao trùng cho đến nay vẫn chưa thống nhất.
* Cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi
LỜI NÓI ĐẦU
Để trở thành một bác sĩ thú y trong tương lai, ngoài việc phải trang bị
cho mình một lượng kiến thức về lý thuyết, mỗi sinh viên cần phải trải qua
giai đoạn thực tập thử thách về thực tế, tự mình trau dồi kỹ năng và đạo đức.
Chính vì vậy, thực tập tốt nghiệp là một khâu quan trọng đối với các trường
Đại học nói chung và Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng. Đây
là thời gian cần thiết để mỗi sinh viên củng cố và hệ thống lại các kiến thức đã
học trong nhà trường, đồng thời giúp sinh viên làm quen với thực tế sản xuất,
nâng cao tay nghề, tích lũy kinh nghiệm chuyên môn, áp dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn sản xuất, góp phần vào sự phát triển của nền nông
nghiệp nước nhà.
Xuất phát từ những lý do trên, được sự nhất trí của Ban Giám hiệu nhà
trường, Ban Chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y – Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận
của Trạm Thú y huyện Chiêm Hóa, em được về thực tập tốt nghiệp tại cơ sở
từ tháng 06 tới tháng 11/2014 thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ
bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở đàn trâu tại huyện Chiêm Hóa,
tỉnh Tuyên Quang và thử nghiệm phác đồ điều trị”.
Đến nay, thời gian thực tập đã kết thúc và khóa luận tốt nghiệp của em
đã hoàn thành. Do thời gian thực tập có hạn, kiến thức chuyên môn và kinh
nghiệm chưa nhiều nên kết quả báo cáo khóa luận này không tránh khỏi
những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự giúp đỡ, thông cảm và những
góp ý quý báu của các thầy cô giáo, bạn bè để khóa luận của em được hoàn

thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên


Nguyễn Thành Long
8
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía Tây sang phía Đông
bán cầu. Phía Tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía Đông bán cầu trải dài từ
châu Phi cho đến Philippine.
Theo Euzeby (1984), bệnh phổ biến ở trâu, bò, ngựa các nước nhiệt
đới ở châu Phi,châu Á và Nam Mỹ.
Ở châu Phi, bệnh trải dài từ Tây sang Đông, phía Bắc qua vùng sa
mạc Sahara, dọc theo bờ biển Atlantique Địa trung hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra” ở Ả rập Saudi,
Yêmen, Sultanate, Ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie, Afganistan,
Pakistan.
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ,
Malaysia, bán đảo Đông Dương, Trung Quốc, Indonexia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã được thanh toán), hiện
chỉ còn ở vùng Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).
Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến ở
Brazil, Mexico, Venezuela, Colombia.
Châu Úc cũng đã được xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid, 2002
[44]; Losos G. J., 1972 [41]) cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến nhất ở
châu Á và châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonexia, Thái
Lan, Lào, Camphuchia, Iran, Philippine.
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái
khác nhau: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng

(1982) [14], bệnh tiên mao trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò nhiễm
bệnh với tỷ lệ cao và thay đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở đồng
bằng nhiễm tiên mao trùng cao hơn vùng trung du và miền núi, đặc biệt ở
trâu, bò có nguồn gốc từ miền núi chuyển xuống vùng đồng bằng).
9
2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và
thú hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hươu, nai, hổ, báo,
sư tử, chó, mèo, lạc đà, voi thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch , nhưng
không ký sinh ở người.
Sự lây truyền tiên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là
nhờ các loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng hút
máu (thuộc họ Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh, hút
luôn cả tiên mao trùng vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoẻ, trong
khi hút máu sẽ truyền tiên mao trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự
lây truyền này mang tính chất cơ học. Như vậy, ruồi và mòng hút máu là
những vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng quan trọng.
Theo Phan Địch Lân (1974) [17], Phan Địch Lân (1994 - 2004) [19],
phần lớn các loài mòng tập trung ở khu vực miền núi và trung du. Trong 53
loài mòng thì có tới 44 loài phân bố ở vùng rừng núi có độ cao dưới 1 .000
mét so với mặt nước biển, càng lên cao số loài càng ít dần (độ cao trên 1.000
mét chỉ có 26 loài). Ở vùng trung du (rừng thưa, độ cao không quá 500 mét
so với mặt nước biển có 27 loài; vùng đồi trọc chỉ có 9 - 11 loài; vùng rừng
núi ven biển phát hiện chỉ có 8 loài. Những loài mòng phổ biến ở tất cả các
vùng là: Tabanus rubidus, T. striatus, Chrysops dispar, Chrysozoma
assamensis.
Những loài mòng chỉ gặp ở vùng núi là: Tabanus flavistriatus, T.
fumifer, Chrysops vander. Miền Bắc nước ta có 4 loài ruồi hút máu, 2 loài phổ
biến ở tất cả các vùng là Stomoxys calcitrans và Liperosis exigua; 2 loài chỉ

thấy ở những vùng sinh cảnh đặc biệt: loài Bdellolarynx sanguinolentus (chỉ
xuất hiện ở vùng có độ cao dưới 1.000mét), loài Stomoxys indica (chỉ thấy ở
vùng núi Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá).
10
Loài ruồi Stomoxys calcitran là loài ruồi có kích thước trung
bình 5 đến 8mm. đầu có mắt kép màu nâu óng ánh, trán rất rộng, chiều rộng
trán bằng ¼ chiều rộng của đầu, chiều rộng của trán giữa gấp 3 lần của trán
cạnh. Con cái chính giữa trán có một dải màu nhạt. Lông trán cạnh có hai
hàng trở lên. Ruồi có một vòi hút dài, cứng để châm hút. Khi đậu nghỉ thì
vòi chĩa về phía trước, khi đốt thì vòi chĩa xuống dưới làm thành góc thẳng
với đầu. Cánh có hàng lông mọc ở gần gốc, phía dưới gân không vượt quá
gân ngang. Bụng: mặt lưng vàng xám, có hai đốm nâu đen hoặc xanh đen ở
hai bên đốt thứ hai, thứ ba. Mặt dưới bụng vàng hơi nâu. Hai khiên lưng của
đốt bụng thứ ba, thứ tư có một vết ngang rõ rệt. Chân có đốt ống vàng hoặc
vàng nâu. ( Phan Văn Chinh, 2006) [4].
Theo Phan Địch Lân (1983) [18] thì loài mòng Tabanus rubidus có
các đặc điểm sau:
Con cái:
Đặc điểm chung: Tabanus rubidus là loài mòng màu xám, xám hơi
xanh hoặc trắng nhạt. Kích thước lớn, thân dài 14 đến 24mm. Mắt kép màu
xám xanh hơi nâu có lấp lánh phản chiếu ánh sáng hoặc màu xanh đen hơi
vàng có ánh biếc. Trán màu nâu đỏ, lông vàng và lông đen. Chai trán gốc
hình đầu đạn, không tiếp xúc với mắt kép màu đen bóng, có màu cà phê nâu,
bóng. Chai trán giữa kéo dài từ chai trán gốc tới 1/2 hoặc 2/3 trán màu đen,
xung quanh chai trán giữa về phía đỉnh có lông đen. Chai trán phụ màu trắng
vàng hơi đỏ. Má màu trắng xám phơn phớt đỏ ở má trên, lông trắng xám.
Mặt màu trắng xám, lông trắng xám.
Râu hàm dưới, màu trắng vàng, lông trắng vàng có xen 1 ít lông đen.
Anten đốt thứ nhất và đốt thứ hai nâu đỏ mận, đốt thứ ba nâu đen. Ngực
xám, xám xanh hoặc phơn phớt hồng có ba sọc dọc không rõ, màu xám

trắng.
11
Cánh: màng cánh trong suốt, gân cánh nâu đen không có nhánh phụ.
Mặt lưng của bụng có ba sọc dọc, sọc giữa chạy từ đốt thứ nhất tới đốt thứ
sáu không thẳng cạnh mà thành hình răng cưa màu trắng xám do các tam
giác nối tiếp tạo thành. Sọc bên cạnh không nối nhau mà do các đốm bên
cạnh sắp xếp hơi chếch với sọc giữa cùng màu với sọc giữa. Mặt bụng của
bụng màu xám tro bếp.
Con đực:
Đặc điểm chung: Tabanus rubidus con đực nhỏ hơn con cái, đầu rất
to,hai mắt kép xít chặt nhau chỉ để lại một vạch ranh giới và một khoảng tam
giác đỉnh trán cùng chai trán phụ màu vàng hơi nâu. Má, mặt màu trắng
vàng hoặc nâu hơi đỏ, lông trắng bạc hoặc hung hung đỏ. Râu miệng hung
hung đỏ. Râu hàm dưới màu vàng hơi đỏ, lông vàng nâu. Anten màu đỏ nâu
hoặc nâu đen, đầu cuối đậm màu hơn. Ngực, mặt lưng màu trắng xám hơi
vàng có lông vàng và lông đen. Bụng giống con cái, nhỏ thon đầu cuối nhọn
màu vàng nâu đậm, lông vàng và lông đen.
Loài mòng Tabanus kiangsuesis là loài mòng to trung bình, màu nâu vàng
xám hoặc nâu vàng. Trán màu nâu ánh kim, chai trán gốc nối liền với chai
trán giữa hình thành gậy màu nâu đỏ, bong. Chai trán phụ, má, mặt màu
vàng xám. Râu miệng màu trắng vàng. Râu hàm dưới màu trắng vàng, lông
đen xen lẫn lông trắng. Anten màu nâu đỏ đầu cuối hơi sẫm. Mặt lưng của
ngực màu nâu đỏ sẫm, lông đen xen lẫn lông vàng, có ba sọc dọc màu nâu
xám nhạt. Màng cánh nâu nhạt, không có nhánh phụ. Chân màu đỏ nhạt.
Mặt lưng của bụng màu nâu đỏ xám. Từ đốt thứ nhất tới đốt thứ năm có một
đai dọc, giữa màu nâu vàng không rõ rệt lắm. Cạnh đai dọc giữa từ đốt thứ
nhất đến đốt thứ năm có đốm bên hình chữ nhật nằm chếch với đai giữa
cùng màu.( Phan Địch Lân, 1983) [18] ; (Phan Văn Chinh, 2006) [4].
Phan Địch Lân (1994 - 2004) [19] cho biết, kiểm tra ở nhiều địa điểm
12

thấy hai loài mòng T. rubidus và T. striatus mang tiên mao trùng với tỷ lệ
15,2% và 14,0%; ruồi hút máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao trùng với
tỷ lệ 12,5%. Ở những vùng đang có bệnh tiên mao trùng, kiểm tra ruồi và
mòng hút máu dễ dàng tìm thấy tiên mao trùng. Sau khi theo máu vào vòi hút
ruồi và mòng, tiên mao trùng vẫn sống đến giờ thứ 53, thời gian hoạt động
mạnh nhất là từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 34 trung bình là 24giờ. Sự hoạt động
của tiên mao trùng yếu dần từ giờ thứ 35 đến 42. Từ 46 - 53 giờ thì tiên mao
trùng ngừng hoạt động.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo thời
gian: từ 1 -34 giờ có hình thái, kích thước bình thường; 35 - 45 giờ: tiên mao
trùng có hình dạng thay đổi, tăng kích thước chiều rộng và thô dần; 46 - 53
giờ: tiên mao trùng trương to, duỗi thẳng, mất khả năng di động và ngừng
hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh khả năng gây bệnh của tiên mao trùng
sau khi xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus như sau: Thời gian từ giờ thứ
1 đến thứ 5, tiên mao trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch
tương tự như khi truyền thẳng máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ 6
đến thứ 7 chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm phát bệnh, thời gian gây bệnh
kéo dài và thời gian chết của chuột cũng dài. Điều này có thể giải thích là do
độc lực của tiên mao trùng giảm dần và số lượng tiên mao trùng còn hoạt lực
gây bệnh cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập vào mòng Tabanus
rubidus.
2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao
trùng và đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhược, thiếu máu,
giảm sức đề kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (1994 - 2004) [19] đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172
13
trâu ở các tỉnh đồng bằng: trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,l%),
trâu 3 - 5 tuổi nhiễm cao hơn (l0,6 - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao

nhất (12,9 - 14,8%), trâu trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm giảm thấp hơn trâu
3 - 8 năm tuổi.
Theo Phan Văn Chinh (2006) [4], tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao nhất
ở 4 - 8 năm tuổi (trâu: 12,71%; bò: 5,77%), thấp nhất là trâu, bò dưới 3 năm
tuổi (6,92% và2,31%). Mùa lây lan bệnh thường xảy ra trong các tháng nóng
ẩm, mưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 9). Thời gian này điều kiện sinh thái
thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát triển, hoạt động mạnh. Hút máu súc
vật và truyền tiên mao trùng.
Theo Luckins (1988) [42], sự xuất hiện lượng lớn ruồi, mòng trong
mùa mưa nóng ẩm luôn có liên quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao
trùng ở trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân,
trâu bò nhiễm tiên mao trùng phải sống trong điều kiện thời tiết lạnh, thiếu
thức ăn nên sức đề kháng giảm, bệnh thường phát ra vào thời gian này và
trâu bò bị đổ ngã hàng loạt. Tiên mao trùng có sức đề kháng yếu, dễ chết khi
tiếp xúc với nước cất, cồn và thuốc sát trùng.
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh
2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu,
bò, ngựa, tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da.
Theo dõi có thể quan sát được phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò
gây nhiễm thực nghiệm tiên mao trùng, kích thước chỗ viêm phụ thuộc vào
số lượng tiên mao trùng được tiêm truyền (ước chừng khoảng 108 tiên mao
trùng có thể gây viêm da - ở vị trí tiêm truyền), một số lượng lớn tiên mao
trùng phát triển ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu,
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Cs : Cộng sự
TMT : Tiên mao trùng
Kg : Kilôgam

TT : Thể trọng
Nxb : Nhà xuất bản
T. evansi : Trypanosoma evansi
VGS : Vanant Glycoprotein Surface
ISG : Invanant Surface Glycoprotein
VAT : Variable Antigen Typet
LATEX : Latex Agglutination Test
IFAT : Indirect Fluorecent Antibody Test
ELISA : Enzym Linked Immunosorbent Assay
CATT : Card Agglutination Test for Trypanosomiasis








15
Hội chứng tiêu chảy thường xảy ra khi xuất hiện tiên mao trùng trong máu
con vật bệnh.
Khi tăng lên với số lượng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc
các mao mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ
thũng chất keo vàng dưới da.
2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa
* Ở trâu, bò:
Trâu, bò bị bệnh thể hiện các triệu chứng lâm sàng chủ yếu như sau:
- Sốt cao và gián đoạn: sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mòng hút máu truyền
tiên mao trùng, trâu bò thường đột ngột lên cơn sốt (40 - 41,7
0

C) kéo dài 2 -
4 ngày rồi giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn giữa
hai cơn sốt dài hay ngắn tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt, kiểm tra máu
thường thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện
hội chứng thần kinh như điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tường, chạy
vòng quanh kêu rống lên. Trường hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn
ngược rồi đổ ngã vật xuống, sùi bọt mép giống như trâu bị cảm nắng. Sau 20
- 30 phút con vật lại đứng dậy đi lại được. Những trâu bò mắc bệnh có triệu
chứng lâm sàng như trên thường là mắc bệnh ở thể cấp tính.
Trâu, bò bị bệnh mạn tính thường kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai
chân sau, nằm tư thế quỳ và không đi lại được. Mặc dù nằm liệt nhưng vẫn
ăn và nhai lại cho đến khi sắp chết.
- Phù thũng dưới da: phù thũng thường thấy ở vùng thấp của cơ thể
như ở bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh
dục.
- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu,
bò bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sưng đỏ
16
ngầu. Khi khỏi bệnh, mắt có màng trắng (củi nhãn) kéo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng,
màu vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy
tiếp theo những cơn sốt cách quãng. Ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng
thường dai dẳng và con vật vẫn ăn được.
- Gầy yếu, suy nhược: ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ
sau 7 – 14 ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu
bệnh kéo dài thì con vật gầy xơ xác, lông dựng ngược, da khô nhăn nheo,
niêm mạc mắt nhợt nhạt, lông dễ rụng, dần dần suy nhược cơ thể nặng, mất
khả năng cày kéo và sinh sản. Nếu gặp điều kiện bất lợi như thiếu ăn, rét
mướt thì trâu, bò dễ chết. Trong thực tế, có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn

vẫn béo khoẻ, làm việc bình thường khi được chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Theo
Silva Rams và cs (1995), Smith R. D. (1995), số lượng hồng cầu và hàm
lượng huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng, thành phần bạch cầu thay
đổi: bạch cầu lymphô, bạch cầu ái toan tăng nhưng bạch cầu trung tính giảm,
protein tổng số và Albumin giảm rõ rệt.
Phạm Sỹ Lăng (1986) [15] cho biết, khi protein tổng số và Albumin
giảm thì các thành phần α, β và γglobulin đều tăng, chỉ số A/G < 0,5.
Theo nhiều tác giả trong và ngoài nước, triệu chứng tương đối điển hình
của bệnh, đó là hiện tượng gia súc bị sảy thai có nhiều T. evansi. Ở Việt
Nam tác giả Bùi Quốc Huy (1998) [10] xác nhận một ổ dịch trâu Murrah (
Cúc Phương – Ninh Bình) sảy thai có tiên mao trùng trong máu. Theo
Nguyễn Đăng Khải (1995) [11] lần đầu tiên những ca sảy thai do tiên mao
trùng đã được chẩn đoán và ghi nhận trên đàn trâu Murrah nuôi tại trung tâm
Phùng Thượng. Tổng số có 28 con bị sảy thai chiếm 46,6% số trâu chưa đẻ.
Qua xét nghiệm toàn đàn 34/78 trâu dương tính với T. evansi sau khi đã loại
17
trừ Brucella và Leptospira. Tác giả còn cho biết, tháng 1/ 1991 tại huyện
Mường Khương bệnh tiên mao trùng đã làm chết 26 con trâu và sảy thai 60
con trâu.
* Ở ngựa
Sau khi ruồi, mòng hút máu và truyền T. evansi, ngựa phát bệnh sau 1
- 2 tuần. Triệu chứng rõ nhất là ngựa sốt 40 - 41
0
C, sốt gián đoạn, khi sốt có
tiên mao trùng ở máu ngoại vi. Khi bị bệnh nặng, ngựa thường sốt cao đột
ngột, các triệu chứng khác chưa kịp thể hiện thì con vật đã lăn lộn điên
cuồng rồi chết. Thể bệnh cấp tính diễn ra khoảng 1 - 3 tuần, thể mãn tính kéo
dài 2 - 4 tháng (tuy nhiên, thể mãn tính thường ít gặp).
Hiện tượng thuỷ thũng xuất hiện ở vùng thấp của cơ thể (ngực, bụng,

âm hộ, vú) sau 1 - 2 tuần kể từ khi phát bệnh. Ngựa đi đứng xiêu vẹo, gầy
sút rất nhanh, ăn kém, da khô, lông dựng, bốn chân run rẩy, hay nằm, dần
dần liệt chân, nằm một chỗ rồi chết.
2.1.3.3. Bệnh tích của bệnh tiên mao trùng
Trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng khi chết gầy xơ xác, mổ khám thấy có
những biến đổi bệnh tích đại thể rõ rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: tim nhão,
xoang bao tim tích nước vàng; phổi xung huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan
sưng to, nhạt màu; lách sưng, mềm nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sưng và có
tụ máu trong hạch; cơ nhão, màu nhợt nhạt, nhát cắt rỉ nước; xoang ngực và
xoang bụng tích dịch màu vàng nhạt; có những đám keo nhầy vàng dưới vùng
da thuỷ thũng.
2.1.4. Chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
2.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò,
ngựa không phải lúc nào cũng phát hiện được. Rất nhiều gia súc mang bệnh
nhưng khó phát hiện các triệu chứng đặc trưng, nhất là đối với những gia súc
18
mắc bệnh tiên mao trùng mãn tính. Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp tính,
các biểu hiện bệnh đặc trưng là sốt cao, bỏ ăn, có triệu chứng thần kinh (điên
loạn) và chết nhanh. Trâu bị bệnh mãn tính có thể thấy triệu chứng: sốt gián
đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm giác mạc, phù thũng ở bụng và chân
sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng, 1982) [14]. Triệu chứng sảy thai có thể
thấy ở trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng (Nguyễn Đăng Khải, 1995) [11].
2.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phương pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí
nghiệm, mục đích là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng
trường hợp bệnh, tuỳ điều kiện mà có thể làm cùng lúc một số phương pháp
hoặc lựa chọn một phương pháp phù hợp và có độ chính xác cao.
* Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trực tiếp:
Muốn phát hiện tiên mao trùng trực tiếp, có thể áp dụng những

phương pháp sau:
- Phương pháp xem tươi (Direct smear)
Khi bệnh súc sốt, T. evansi thường xuất hiện trong mao quản ngoại vi;
vì vậy, nên lấy máu vùng ngoại vi để xem tươi. Cho 1 giọt máu nhỏ lên
phiến kính đã có sẵn 1 giọt Natri citrat 3,8%; dùng góc của la men khuấy
đều, đậy la men lên để máu dàn theo la men thành một lớp mỏng. Soi dưới
kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 10 và 10 x 20) để phát hiện tiên mao trùng
sống.
- Phương pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky)
+ Phương pháp giọt dầy: Đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng
một góc của đầu một phiến kính khác ria tròn giọt máu với đường kính
khoảng 1 - 1,25 cm. Để khô tự nhiên trong khoảng 1 giờ, rồi cố định bằng
cồn Methanol, nhuộm Giemsa [1 giọt Giemsa + 1 ml dung dịch PBS
(Phosphat Buffered Saline) pH = 7,2] trong 25 phút. Rửa tiêu bản dưới vòi
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh tiên mao trùng hay còn gọi là bệnh ngã nước, do Trypanosoma
(Trypanosomiasis) là bệnh truyền nhiễm lây giữa người và gia súc do ký
sinh trùng đơn bào (Protozoa) lớp trùng roi (Flagellata) gây ra. Trâu mắc
bệnh ở thể cấp tính thường sốt cao 40 – 41,7
0
C với các triệu chứng thần kinh
như ngã quỵ, kêu rống, đi vòng tròn….Trâu bệnh sẽ chết sau 7 – 15 ngày.
Theo số liệu của Phạm Sỹ Lăng (1982) [14], Phan Địch Lân (1994,
2004) [19], Phan Văn Chinh (2006) [4], bệnh tiên mao trùng xuất hiện ở
nhiều vùng trên cả nước, với tỷ lệ mắc khá cao: trên trâu là 13 – 30 %, trên
bò là 7 – 14%, trong đó tỷ lệ gia súc chết khi gia súc mắc bệnh từ 6,3 – 20%.
Khả năng phát sinh và phát triển bệnh tiên mao trùng phụ thuộc nhiều

vào điều kiện thời tiết, khí hậu, tập quán chăn nuôi và chế độ làm việc của
gia súc. Sự thay đổi các điều kiện trên sẽ ảnh hưởng đến khả năng gây bệnh
cũng như dịch tễ bệnh. Huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang có địa hình
đồi núi, khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều là điều kiện
thích hợp cho ruồi trâu, mòng (ký chủ trung gian truyền bệnh tiên mao
trùng) phát triển. Chúng hút máu truyền bệnh tiên mao trùng từ trâu bệnh
sang trâu khỏe làm bệnh phát tán nhanh chóng và có thể gây thiệt hại nặng
nề cho người chăn nuôi. Vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh và
thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis)
ở đàn trâu tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang và thử nghiệm phác
đồ điều trị”.
20
Với ống Haematocrit trên, có thể thực hiện phương pháp Darkground:
dùng cưa y tế cắt ống ở vị trí tiên mao trùng tập trung (ranh giới giữa huyết
tương và hồng cầu), nhỏ 1 giọt huyết tương lên phiến kính, đậy la men và
kiểm tra dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 40).
* Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm:
Đây là phương pháp phổ biến, hiệu quả, chính xác và thường được
ứng dụng nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Nam. Phương pháp
này có ưu điểm là chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy tiên mao trùng sau
khi nhân chúng lên trong động vật thí nghiệm mẫn cảm. Song, nhược điểm
của phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm là khi cần chẩn đoán
nhanh, với số lượng nhiều và thời gian ngắn thì phương pháp này không thể
đáp ứng được (Lê Ngọc Mỹ và cs, 1994 [22]; Đoàn Văn Phúc và cs, 1994
[26]).
* Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học:
Bằng phương pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể
hoặc kháng nguyên tiên mao trùng. Đây là các phương pháp huyết thanh

học đặc hiệu.
* Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu
chống lại tiên mao trùng. Những phương pháp sau cho phép phát hiện kháng
thể kháng tiên mao trùng trong máu vật chủ:
+ Phương pháp ngưng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination
Test): hoà tan 1 giọt huyết thanh gia súc nghi mắc bệnh vào 1 giọt nước
muối sinh lý trên phiến kính, sau đó cho 1 giọt máu chuột bạch có nhiều tiên
mao trùng vào, trộn đều, đậy la men và soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại
10 x 20 hoặc 10 x 40). Nếu thấy ngưng kết hình hoa cúc là (+) và ngược lại
là (-). Phương pháp này đơn giản, dễ làm và có thể áp dụng trên diện rộng.
21
+ Phương pháp LATEX (Latex Agglutination Test
LATEX là phương pháp được dùng để phát hiện kháng thể lưu động
có trong máu của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý của phương pháp LATEX: khi kháng nguyên bề mặt T.
evansi gắn lên các hạt latex kết hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao
trùng ở trên bản nhựa, thì sẽ xảy ra phản ứng ngưng kết giữa kháng nguyên
với kháng thể. Hiện tượng ngưng kết có thể quan sát được bằng mắt thường,
và được giải thích là do kháng nguyên bề mặt tiên mao trùng được gắn lên
các hạt latex là loại kháng nguyên hữu hình, có nhiều điểm quyết định tính
kháng nguyên bề mặt (epitop surface). Còn kháng thể đặc hiệu kháng tiên
mao trùng lại có nhiều điểm thụ thể (receptor) tương ứng, đặc hiệu với các
điểm quyết định của kháng nguyên. Do đó, khi kháng nguyên tiên mao trùng
gặp kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ có hiện tượng một phân tử
kháng thể đặc hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng nguyên và ngược lại.
Kết quả là các hạt latex cùng với kháng nguyên chụm lại, tạo thành đám
ngưng kết có thể quan sát bằng mắt thường. Kháng nguyên dùng cho phản
ứng là kháng nguyên bề mặt được tinh chế từ chủng T. evansi không nhuộm
màu.

Phương pháp này có thể ứng dụng trong kiểm tra dịch tễ và có thể ứng
dụng ở cơ sở. Tuy nhiên tỷ lệ phát hiện bệnh không cao do phương pháp này
cho kết quả dương tính cả khi con vật khỏi bệnh nhưng vẫn còn kháng thể
tồn tại trong huyết thanh; mặt khác, đối với những súc vật mới nhiễm bệnh
TMT trong huyết thanh chưa có kháng thể nên khi kiểm tra bằng phương
pháp LATEX sẽ cho kết quả âm tính.
* Phương pháp CATT (Card Agglutination Test for Trypanosomiasis)
Đây là phương pháp ngưng kết trực tiếp giữa kháng nguyên và kháng
thể trên bản nhựa, được dùng để phát hiện kháng thể lưu động trong máu

×