Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của bệnh do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra ở gà tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và thử nghiệm thuốc điều trị.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM








LÊ THỊ SÁU






Tên đề tài:


“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ, LÂM SÀNG CỦA BỆNH DO ĐƠN
BÀO HISTOMONAS MELEAGRIDIS GÂY RA Ở GÀ TẠI HUYỆN PHÚ BÌNH,
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ THỬ NGHIỆM THUỐC ĐIỀU TRỊ”




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Hệ đào tạo :

Chính quy
Chuyên ngành :

Thú y
Khoa :

Chăn nuôi Thú y
Khóa học :

2010 - 2015



Thái Nguyên - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM








LÊ THỊ SÁU







Tên đề tài:


“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ, LÂM SÀNG CỦA BỆNH DO ĐƠN
BÀO HISTOMONAS MELEAGRIDIS GÂY RA Ở GÀ TẠI HUYỆN PHÚ BÌNH,
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ THỬ NGHIỆM THUỐC ĐIỀU TRỊ”




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo :

Chính quy
Chuyên ngành :

Thú y
Khoa :

Chăn nuôi Thú y
Khóa học :


2010 - 2015
Giảng viên hướng dẫn :

TS. Nguyễn Văn Quang
Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông lâm



Thái Nguyên - 2014
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, nhờ sự nỗ lực của bản thân và
được sự quan tâm, chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, sự
động viên khích lệ của gia đình, em đã hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
Ban Giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm
khoa Chăn nuôi - Thú y, các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dìu dắt em trong suốt thời
gian học tập tại trường.
Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Văn Quang đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Đồng thời em cũng xin trân trọng cảm ơn ThS. Trương Thị Tính đã đóng
góp ý kiến quí báu và giúp đỡ nhiệt tình để em hoàn thành nhiệm vụ nghiên
cứu của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên


Lê Thị Sáu








LỜI NÓI ĐẦU

Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường, thực hiện phương
châm “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn sản xuất”, thực tập tốt
nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập của trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên nói chung và của khoa Chăn nuôi Thú Y nói riêng.
Giai đoạn thực tập chiếm một vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi sinh
viên trước khi ra trường. Đây là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và hệ thống
hóa toàn bộ kiến thức đã học, đồng thời giúp sinh viên làm quen với thực tiễn sản
xuất, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được phương thức tổ chức và tiến
hành công việc nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn
sản xuất, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự đồng ý của Ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên, được sự
phân công của thầy cô giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của Trạm thú y huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi đã tiến hành đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm bệnh
lý, lâm sàng của bệnh do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra ở gà tại huyện
Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và thử nghiệm thuốc điều trị".
Do bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, kiến thức chuyên
môn chưa sâu, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và thời gian thực tập còn ngắn nên
trong bản khóa luận này của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em
kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô giáo cùng các
bạn đồng nghiệp để bản khóa luận của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!



DANH MỤC BẢNG


Trang
Bảng 4.1. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại 4 xã của huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên 36
Bảng 4.2. Triệu chứng lâm sàng của gà bị bệnh đầu đen tại huyện Phú Bình 38
Bảng 4.3. Bệnh tích đại thể của gà mắc bệnh đầu đen tại huyện Phú Bình 40
Bảng 4.4. Kết quả gây nhiễm bệnh đầu đen cho gà 43
Bảng 4.5. Thời gian gà xuất hiện triệu chứng lâm sàng sau gây nhiễm 46
Bảng 4.6. Triệu chứng lâm sàng của gà bị bệnh đầu đen sau gây nhiễm 48
Bảng 4.7. Kết quả theo dõi gà chết sau gây nhiễm 49
Bảng 4.8. Bệnh tích đại thể của gà sau gây nhiễm 52
Bảng 4.9. Bệnh tích vi thể của gà sau gây nhiễm 53
Bảng 4.10. Khối lượng cơ thể và các cơ quan nội tạng của gà thí nghiệm 54
Bảng 4.11. Thể tích các cơ quan nội tạng của gà thí nghiệm 56
Bảng 4.12. Hiệu lực của thuốc trị bệnh đầu đen cho gà trên diện hẹp 58
Bảng 4.13. Hiệu lực của thuốc trị bệnh đầu đen cho gà trên diện rộng 59


DANH MỤC HÌNH

Trang
Hình 4.1. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại một số địa phương của
huyện Phú Bình 37
LỜI CẢM ƠN


Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, nhờ sự nỗ lực của bản thân và
được sự quan tâm, chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, sự
động viên khích lệ của gia đình, em đã hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
Ban Giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm
khoa Chăn nuôi - Thú y, các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dìu dắt em trong suốt thời
gian học tập tại trường.
Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Văn Quang đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Đồng thời em cũng xin trân trọng cảm ơn ThS. Trương Thị Tính đã đóng
góp ý kiến quí báu và giúp đỡ nhiệt tình để em hoàn thành nhiệm vụ nghiên
cứu của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên


Lê Thị Sáu







MỤC LỤC
Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
2.1.1. Đặc điểm của đơn bào Histomonas meleagridis ký sinh ở gia cầm 3
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào Histomonas meleagridis trong hệ thống phân loại động
vật nguyên sinh 3
2.1.1.2. Hình thái học loài Histomonas meleagridis 4
2.1.1.3. Phương thức truyền lây của Histomonas meleagridis 6
2.1.1.4. Vòng đời của Histomonas meleagridis 12
2.1.1.5. Nuôi cấy đơn bào H. meleagridis 13
2.1.2. Bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà 14
2.1.2.1. Lịch sử bệnh 14
2.1.2.2. Những thiệt hại kinh tế do bệnh Histomoniasis gây ra 15
2.1.2.3. Dịch tễ học bệnh đầu đen (Histomonasis) ở gia cầm 17
2.1.2.4. Cơ chế sinh bệnh 19
2.1.2.5. Triệu chứng và bệnh tích bệnh đầu đen 20
2.1.2.6. Chẩn đoán 23
2.1.2.7. Phòng, trị bệnh đầu đen cho gà 25
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 27
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 27
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 27
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 29
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 29
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 29
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 29

3.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 29
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 29
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 30
3.3. Nội dung nghiên cứu 30
3.3.1. Nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào H. meleagridis gây ra ở gà 30
3.3.1.1. Nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào H. meleagridis gây ra ở gà nuôi tại
một số xã của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 30
3.3.1.2. Nghiên cứu bệnh đầu đen ở gà gây nhiễm 30
3.3.2. Đánh giá hiệu lực của 2 phác đồ điều trị bệnh đầu đen 30
3.3.2.1. Hiệu lực của phác đồ điều trị trên diện hẹp 30
3.3.2.2. Hiệu lực của phác đồ điều trị trên diện rộng 30
3.4. Phương pháp nghiên cứu 30
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào H. meleagridis gây ra ở gà
tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 30
3.4.1.1. Bố trí thu thập gà để mổ khám 30
3.4.1.2. Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà nuôi tại
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 31
3.4.2. Phương pháp nghiên cứu bệnh đầu đen ở gà do gây nhiễm 32
3.4.2.1. Gây nhiễm bệnh đầu đen cho gà thí nghiệm 32
3.4.2.2. Bố trí thí nghiệm gây nhiễm 33
3.4.2.3. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của gà bị bệnh đầu
đen do gây nhiễm 34
3.4.3. Phương pháp đánh giá hiệu lực của một số thuốc trị bệnh đầu đen cho gà 35
3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu 35
Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36
4.1. Nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào H. meleagridis gây ra ở gà 36
4.1.1. Nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào H. meleagridis gây ra ở gà nuôi tại một
số xã thuộc huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 36
4.1.1.1. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà nuôi tại một số xã thuộc huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên qua mổ khám 36

4.1.1.2. Triệu chứng lâm sàng của gà bị bệnh đầu đen nuôi tại huyện Phú Bình 38
4.1.1.3. Bệnh tích của gà bị mắc bệnh đầu đen tại huyện Phú Bình 40
4.1.2. Nghiên cứu đặc điểm bệnh lí và lâm sàng của bệnh đầu đen ở gà do
gây nhiễm 42
4.1.2.1. Khả năng gây bệnh của H. meleagridis theo 2 con đường gây nhiễm
khác nhau 42
4.1.2.2. Thời gian xuất hiện triệu chứng lâm sàng của gà gây nhiễm 45
4.1.2.3. Triệu chứng của gà bị bệnh đầu đen do gây nhiễm 48
4.1.2.4. Thời gian chết của gà sau gây nhiễm 49
4.1.2.5. Bệnh tích của gà bị bệnh đầu đen do gây nhiễm 52
4.1.2.6. Bệnh tích vi thể ở manh tràng và gan của gà bị bệnh do gây nhiễm 53
4.1.2.6. Sự thay đổi khối lượng cơ thể và các cơ quan nội tạng của gà thí nghiệm . 54
4.1.2.7. Sự thay đổi thể tích các cơ quan nội tạng của gà gây nhiễm 56
4.2. Thử nghiệm thuốc điều trị cho đàn gà trên thực địa 57
4.2.1. Thử nghiệm trên diện hẹp 57
4.2.2. Thử nghiệm trên diện rộng 59
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 61
5.1. Kết luận 61
5.2. Tồn tại 62
5.3. Đề nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
I. Tài liệu tiếng Việt 63
II. Tài liệu tiếng Anh 63


1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp có ngành chăn nuôi khá phát triển. Chăn

nuôi gia cầm đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung
của ngành chăn nuôi. Có rất nhiều hình thức và quy mô chăn nuôi gia cầm khác
nhau, từ chăn nuôi hộ gia đình đến quy mô trang trại, đã giải quyết được việc
làm, nâng cao thu nhập cho người dân, đồng thời ngành chăn nuôi gia cầm cũng
đưa ra thị trường một số lượng lớn sản phẩm thịt, trứng, đáp ứng được nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.

Trong năm 2010, sản lượng thịt gà của Việt Nam đứng thứ 15 trên tổng số 47
nước ở châu Á. Trong những năm qua, chăn nuôi gia cầm luôn đạt mức tăng trưởng
cao nhất, bình quân giai đoạn 2008 - 2012, quy mô đầu con tăng khoảng 5,6 %/ năm;
sản lượng thịt tăng 12,9 %/ năm và sản lượng trứng tăng 10,1 % / năm. Đến năm
2012, mức sản xuất gia cầm của Việt Nam đạt 50 % so với mức trung bình của thế
giới. Năm 2013 tổng đàn gia cầm có 314,7 triệu con, tăng 2,04 %, trong đó đàn gà
231,8 triệu con, tăng 3,6 % so với năm 2012. Để phát triển chăn nuôi gia cầm nói
chung, chăn nuôi gà nói riêng, chúng ta còn gặp không ít khó khăn. Một trong
những khó khăn gây trở ngại cho tốc độ phát triển chăn nuôi gà là vấn đề dịch bệnh.
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã xuất hiện một bệnh mới, gây thiệt
hại không nhỏ cho người chăn nuôi gà, đó là bệnh đầu đen do đơn bào H.
meleagradis gây ra. Bệnh do đơn bào H. meleagradis ( bệnh đầu đen) ở gà hiện nay
xuất hiện ở hầu hết các địa phương trong cả nước.
Huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên là một trong những huyện có ngành chăn
nuôi gà khá phát triển, chủ yếu nuôi theo hình thức thả vườn. Vài năm gần đây trên
địa bàn huyện liên tục xuất hiện bệnh đầu đen trên đàn gà với tỷ lệ chết cao, gây
thiệt hại lớn cho người chăn nuôi.
Bệnh đầu đen (Histomonosis) là một bệnh kí sinh trùng truyền nhiễm
nguy hiểm ở gà và gà tây do một loại đơn bào có tên khoa học là Histomonas


2
meleagridis gây ra. Histomonas meleagridis ký sinh chủ yếu trong lòng manh

tràng và nhu mô gan, gây viêm xuất huyết hoại tử, tăng sinh ở manh tràng và
gan, da vùng đầu và mào tích thâm đen. Cũng vì các biến đổi đặc trưng tập
trung song hành ở gan và ruột, lây lan nhanh và gây chết gia cầm với tỷ lệ cao,
nên bệnh còn có tên là bệnh viêm hoại tử ruột - gan truyền nhiễm (Infectious
Enteroheatitis). Gà bệnh chết rải rác và thường chết về ban đêm, mức độ chết
không ồ ạt nhưng sự chết kéo dài, tỷ lệ chết lên tới 85 % - 95 %.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc khống chế dịch bệnh, nâng cao
năng suất chăn nuôi gà, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm bệnh
lý, lâm sàng của bệnh do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra ở gà tại
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và thử nghiệm thuốc điều trị”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh đầu đen do đơn bào H.
meleagridis gây ra ở gà.
- Nghiên cứu hiệu lực của 2 phác đồ điều trị, từ đó khuyến cáo người dân sử
dụng điều trị đạt kết quả cao.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm bệnh học và quy
trình phòng chống bệnh đầu đen cho gà, có một số đóng góp mới cho khoa học.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi áp dụng
các biện pháp phòng, trị bệnh đầu đen cho gà, nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm và thiệt hại
do bệnh đầu đen gây ra, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy chăn nuôi
gà phát triển.







3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Bệnh đầu đen (Histomonosis) là một bệnh kí sinh trùng truyền nhiễm nguy
hiểm ở gà và gà tây do một loại đơn bào có tên khoa học là Histomonas meleagridis
gây ra. Histomonas meleagridis ký sinh chủ yếu trong lòng manh tràng và nhu mô
gan, gây viêm xuất huyết hoại tử, tạo tăng sinh ở manh tràng và gan, thể trạng xấu,
da vùng đầu và mào tích thâm đen nên từ đây bệnh có tên là bệnh đầu đen
(Blackhead). Cũng vì các biến đổi đặc trưng tập trung song hành ở gan và ruột, lây
lan nhanh và gây chết gia cầm với tỷ lệ cao, nên bệnh còn có tên là bệnh viêm hoại
tử ruột gan truyền nhiễm (Infectious Enteroheatitis).
Ở Việt Nam do các biến đổi đặc trưng tạo kén ở manh tràng nên người
chăn nuôi thường gọi là bệnh kén ruột.
2.1.1. Đặc điểm của đơn bào Histomonas meleagridis ký sinh ở gia cầm
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào Histomonas meleagridis trong hệ thống phân loại động
vật nguyên sinh.
Theo VanderHeijden H. (2009) [41], vị trí của H. meleagridis trong hệ thống
phân loại nguyên sinh động vật như sau:
Sinh vật: Eukaryota
Giới: Excavata
Ngành: Metamonada
Lớp: Parabasalia
Bộ: Trichomonadida
Họ: Monocercomonadidae
Giống: Histomonas
Loài: Histomonas meleagridis
Tuy nhiên, sau kết quả phân tích trình tự gen, Cepicka và cs (2010) [10] đã
cho biết vị trí phân loại của H. meleagridis như sau:



4
Bảng phân loại
Giới:Protozoen
Ngành: Parabasalia
Lớp: Tritrichomonadea
Bộ: Tritrichomonadida
Họ: Dientamoebidae
Giống: Histomonas
Loài: Histomonasmeleagridis
2.1.1.2. Hình thái học loài Histomonas meleagridis
Khi nghiên cứu về bệnh đầu đen Tyzzer (1919) [36], đã mô tả hình thái
của H. meleagridis ở từng giai đoạn phát triển khác nhau. Ở giai đoạn kí sinh
tại khu vực ngoại vi của các tổn thương ban đầu được gọi là giai đoạn xâm lấn.
Trong giai đoạn này chúng di động kiểu amip và hình thành một chân giả có
chiều dài 30 µm. Trong các mô cố định, quan sát được đường kính dao động từ
8 - 17 µm. Nguyên sinh chất trong giai đoạn này chứa các hạt không bào và
một thể nhân. Tiếp đến là giai đoạn sinh dưỡng, H. meleagridis tồn tại dưới
dạng có tế bào chất mà không có thể vùi và một lượng nhỏ chất lưới hoặc dạng
hạt phân phối xung quanh thể nhân. Ở giai đoạn này, chúng có kích thước lớn
hơn, đường kính từ 12 - 21 µm. Một giai đoạn tồn tại khác của H. meleagridis
đã được Tyzzer mô tả và gọi với cái tên là giai đoạn kháng, kích thước nhỏ hơn,
đường kính từ 5 - 22 µm.
SmithT. (1895) [35], đã mổ khám 50 gà tây mắc bệnh đầu đen. Ông cho
biết: ở gà mắc bệnh gan và manh tràng là 2 cơ quan bị tổn thương nặng nề nhất.
Lấy chất chứa trong manh tràng gà bệnh soi tươi và tìm thấy tác nhân gây bệnh
là một sinh vật đơn bào (Amoeba meleagridis) có hình tròn hoặc hình bầu dục,
đường kính 8 - 14 µm, ngoại trừ một dạng gần giống cấu trúc nhân.
Trong mô gan được cố định và nhuộm màu, Smith nhận thấy đơn bào có

dạng hình bầu dục nhỏ, đường kính dao động từ 6 - 10 µm, ở giữa có nhiều cấu trúc
nhỏ tập trung lại thành thể nhân.
LỜI NÓI ĐẦU

Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường, thực hiện phương
châm “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn sản xuất”, thực tập tốt
nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập của trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên nói chung và của khoa Chăn nuôi Thú Y nói riêng.
Giai đoạn thực tập chiếm một vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi sinh
viên trước khi ra trường. Đây là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và hệ thống
hóa toàn bộ kiến thức đã học, đồng thời giúp sinh viên làm quen với thực tiễn sản
xuất, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được phương thức tổ chức và tiến
hành công việc nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn
sản xuất, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự đồng ý của Ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên, được sự
phân công của thầy cô giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của Trạm thú y huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi đã tiến hành đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm bệnh
lý, lâm sàng của bệnh do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra ở gà tại huyện
Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và thử nghiệm thuốc điều trị".
Do bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, kiến thức chuyên
môn chưa sâu, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và thời gian thực tập còn ngắn nên
trong bản khóa luận này của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em
kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô giáo cùng các
bạn đồng nghiệp để bản khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!






6
2.1.1.3. Phương thức truyền lây của Histomonas meleagridis
H. meleagridis sinh sản bằng hình thức phân đôi (trực phân), lây truyền
bằng 2 con đường: truyền bệnh trực tiếp và truyền bệnh gián tiếp.
* Truyền bệnh gián tiếp qua giun kim
Cushman và cs (1894) [11] đã nhận thấy, gà và gà tây bị nhiễm bệnh khi
chúng được nuôi trên khu vực mà trước đó gà và gà tây đã bị mắc bệnh.
Smith (1895) [35] đã tiến hành thí nghiệm với qui mô lớn và cho biết: H.
meleagridis không lây truyền theo chiều dọc từ gà mái đẻ sang trứng, mặc dù phát
hiện gà con mắc bệnh đầu đen rất sớm và chết ở 12 - 14 ngày tuổi. Tác giả cho rằng,
những gà con này bị nhiễm bệnh do được nuôi trong khu đất nơi mà đàn gà nuôi
trước đó đã mắc bệnh. Thí nghiệm được bố trí như sau:
Tiến hành lấy trứng ở những gà mẹ từ 3 trang trại khác nhau đang có bệnh
đầu đen phát triển, ấp trứng nhân tạo. Trước khi ấp, trứng được rửa sạch, lau nhẹ
nhàng bằng nước ấm, ngâm trong clorua thủy ngân 0,5 % trong 30 giây, sau đó rửa
sạch và lau khô bằng khăn khử trùng.
Sau khi nở 1 tuần, 4 gà tây đã bị chết do quá yếu, những gà còn lại được nuôi
tại khu vực được bảo vệ an toàn và không có sự lây nhiễm của mầm bệnh. Sau 1
tháng theo dõi thấy gà khỏe bình thường.
Thí nghiệm tiếp tục được tiến hành sau hơn 6 tuần quan sát thấy không có gà
nào bị tử vong và xuất hiện dấu hiệu bệnh. Điều này khẳng định rằng bệnh đầu đen
không lây truyền từ gà mẹ thông qua trứng.
Tác giả tiếp tục tiến hành thí nghiệm bằng cách chuyển những gà thí nghiệm
trên về các trang trại đang có gà bị nhiễm bệnh, sau 17 ngày thấy gà xuất hiện triệu
chứng bệnh, đến ngày thứ 26 tất cả gà đều tử vong, mổ khám thấy tổn thương rõ rệt
ở gan và đóng kén trắng ở manh tràng.
Một số thí nghiệm được tiến hành sau đó với qui mô lớn hơn cũng nhận được
kết quả tương tự.
Khi nghiên cứu dịch tễ học của bệnh đầu đen, Graybill và cs (1920) [18] quan

sát bệnh ở gà tây khỏe khi nhốt chung với gà bệnh. Kiểm tra chất chứa trong manh


7
tràng của gà bệnh chết, thấy có sự tồn tại của Heterakis gallinarum cùng với H.
meleagridis. Ông cho rằng tác nhân gây bệnh đầu đen có thể hấp thụ đồng thời cùng
với trứng Heterakis gallinarum.
Tyzzer E. E (1925) [38] cho biết, gà tây có thể nhiễm bệnh khi nuôi nhốt chung
với gà mắc bệnh hoặc nuôi trên khu đất đã có gà bị bệnh trước đó.
Sau đó, tác giả đã chứng minh trứng giun kim (Heterakis) chính là tác nhân
lây truyền bệnh đầu đen. Trứng có phôi chứa thành phần axit nitric 1,5 % giúp
chúng có khả năng bảo vệ khi đi qua đường tiêu hóa đến manh tràng của gà. Những
phôi trứng Heterakis chứa H. meleagridis là nguồn quan trọng để bệnh đầu đen phát
triển. Đây là một phát hiện quan trọng vì đã xác định được vật chủ trung gian truyền
bệnh, và có ý nghĩa quan trong cho các thử nghiệm sau này.
Gibbs B. J (1962) [17] đã tìm thấy H. meleagridis trong đường sinh dục và
trứng của Heterakis dưới kính hiển vi quang học. H. meleagridis được tìm thấy trong
tất cả các bộ phận ở sinh sản của cả giun cái và giun đực. Ở giun đực, H. meleagridis kí
sinh trong ruột, xâm nhập vào các tế bào ruột, tinh trùng, ống dẫn tinh và túi tinh. Ở
giun cái chúng kí sinh trong tất cả các bộ phận của đường sinh dục như buồng trứng,
ống dẫn trứng và tử cung. Sau đó, H. meleagridis đã được thu thập và gây nhiễm cho
gà 10 ngày tuổi. Ông khẳng định rằng giun cái có khả năng truyền bệnh cho gà mà
không cần có sự thụ tinh của giun đực.
Lund và Chute (1973) [30], tìm thấy mối tương quan giữa số lượng Heterakis và
tỷ lệ mắc Histomonas, ông cho rằng H. meleagridis được giải phóng khi Heterakis chết.
Hàng loạt những nghiên cứu của Farr M. M. (1959) [16], đã chỉ ra rằng trứng
Heterakis có sức đề kháng tốt với môi trường, ở ngoài môi trường đất có thể tồn tại
từ 2 - 3 năm, khi nở vẫn có thể gây ra Histomoniasis. Đây là nguyên nhân làm dịch
bệnh đầu đen phát triển từ năm này sang năm khác.
* Truyền bệnh gián tiếp qua giun đất

Khi nghiên cứu về dịch tễ của bệnh đầu đen Lund và Chute (1973) [30], báo
cáo rằng: giun đất chính là kí chủ dự trữ của ấu trùng H. gallinarum và tích trữ một
lượng lớn đơn bào H. meleagridis.


8
Nghiên cứu rõ hơn vai trò của giun đất trong việc truyền tải bệnh đầu đen,
Curtice (1907) [12] tiến hành thí nghiệm cho gà khỏe ăn giun đất thu thập từ vùng
có gà bị nhiễm bệnh. Theo dõi một thời gian thấy gà xuất hiện triệu chứng, mổ
khám kiểm tra gan và manh tràng có bệnh tích điển hình của bệnh đầu đen.
Kết quả trên đã chứng minh rằng sự lan truyền bệnh đầu đen từ gia cầm này
sang gia cầm khác còn do gia cầm ăn phải giun đất mang ấu trùng giun kim (H.
gallinarum) chứa H. meleagridis. Theo tác giả giun đất chính là tác nhân làm dịch
bệnh đầu đen phát triển. Đây là một phát hiện quan trọng vì đã xác định được vật
chủ trung gian truyền bệnh, từ đó có những khuyến cáo để ngăn ngừa bệnh đầu đen.
Lund và cs (1956) [29] báo cáo: sau khi cho gà và gà tây ăn giun đất chứa ấu
trùng H. gallinarum mang mầm bệnh, thấy gà mắc bệnh đầu đen, mổ khám gà có
bệnh tích điển hình ở gan và manh tràng. Sau đó các tác giả tiến hành đun nóng
giun đất trong phòng thí nghiệm, quan sát thấy rất nhiều ấu trùng giun kim (H.
gallinarum) nổi lên trên bề mặt cơ thể. Một lần nữa các nhà nghiên cứu kết luận
giun đất chính là vật chủ trung gian chứa ấu trùng giun kim mang mầm bệnh
Histomonas gây bùng phát bệnh đầu đen. Kemp và cs (1975) [26] cho biết: Gà
trống và gà tây bị nhiễm cả hai loài H. meleagridis và H. gallinarum khi cho ăn
giun đất từ nơi trước đây mầm bệnh đã xảy ra.
Gà có thể mắc bệnh đầu đen khi vô tình ăn phải giun đất có chứa trứng giun
kim nhiễm H. meleagridis. H. Meleagridis có thể tồn tại hơn 1 năm trong giun đất.
Sau khi gà và gà tây nuốt phải giun đất, ấu trùng giun kim sẽ di hành xuống manh
tràng, đồng thời các đơn bào H. meleagridis cũng được giải phóng và gây bệnh.
Ngoài ra, gà tây có thể lây truyền từ con này sang con khác khi mổ ăn phân
của gia cầm nhiễm bệnh. Tuy nhiên, H. meleagridis tự do trong phân mà không

được bảo vệ bởi trứng giun kim sẽ chết một cách nhanh chóng, đặc biệt là trong thời
tiết khô nóng.
* Truyền bệnh trực tiếp
Trong báo cáo ban đầu của Smith (1895) [35], sự lây truyền trực tiếp bệnh đầu
đen đã được chứng minh qua thí nghiệm cho gà khỏe uống đơn bào H. meleagridis.


9
Theo đuổi quan điểm của Smith, Curtice (1907) [12] đã làm các thí nghiệm cho gà tây
khỏe ăn phân và các cơ quan bị tổn thương của gà bệnh, sau đó theo dõi và nhận thấy
gà tây khỏe cũng bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, các tác giả đều kết luận có thể gây nhiễm
bệnh đầu đen ở gà và gà tây qua đường ăn, uống nhưng tỷ lệ nhiễm không cao.
Năm 1922, Tyzzer và Fabyan lấy gan của gà bị bệnh nặng nghiền nhỏ cho gà
và vịt được 4, 6, 16 ngày tuổi ăn. Sau đó, Tyzzer và Collier (1925) [38], tiếp tục gây
nhiễm bệnh đầu đen trên một số gà 5 ngày tuổi bằng cách cho ăn gan gà bệnh. Sau
hàng loạt thí nghiệm, Tyzzer (1926) [39] đã kết luận rằng H. meleagridis có thể
được truyền đến một mức độ nào đó trong tự nhiên bằng cách ăn, uống các cơ quan
của gà bệnh có chứa mầm bệnh.
Farmer và Stephenson (1949) [13] tiến hành gây nhiễm cho gà tây bằng cách
cho ăn các tổn thương manh tràng mà không có các tổn thương gan, nhận thấy rằng
gà mắc bệnh với tỷ lệ thấp.
Horton-Smith và Long (1956) [21] cũng làm nhiều thí nghiệm gây nhiễm
bằng cách cho gà khỏe nuốt trực tiếp gan và huyễn dịch trong manh tràng của gà
bệnh nặng, tác giả đã phát hiện ra rằng H. meleagridis sống sót với tỷ lệ thấp khi đi
qua đường tiêu hóa do nồng độ pH thấp.
Tác giả đã tiến hành gây nhiễm sau khi bỏ đói gà 18 giờ bằng cách cho uống
huyễn dịch trong manh tràng của gà bị bệnh nặng, ông nhận thấy rằng tỷ lệ nhiễm
bệnh của gà thấp.
Tiếp tục nghiên cứu đường tiêu hóa của gà bị bỏ đói 18 giờ, tác giả nhận thấy
nồng độ pH tăng lên rất cao sau khi bổ sung 1 gam hỗn hợp gồm: canxi cacbonat

chiếm 40 %, magie trisilicate 17 %, và cao lanh 43 %, tác giả nhận thấy tỷ lệ nhiễm
H. meleagridis ở gà tăng lên. Kết quả này đã chứng minh rằng H. meleagridis có
thể sống sót ở nồng độ pH cao.
Lund E. E. (1956) [29] đã gây bệnh bằng đường miệng cho 109 gà ở 6 - 9 tuần
tuổi, mỗi gà nuốt 10.000 - 50.000 H. meleagridis. Kết quả chỉ có 1 gà tử vong trong số
2 gà bị mắc bệnh do gây nhiễm. Mổ khám thấy gan và manh tràng bị tổn thương.
Mc Dougald L. R. (2003) [32] đã làm thí nghiệm gây nhiễm bệnh cho gà 2
DANH MỤC BẢNG


Trang
Bảng 4.1. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại 4 xã của huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên 36
Bảng 4.2. Triệu chứng lâm sàng của gà bị bệnh đầu đen tại huyện Phú Bình 38
Bảng 4.3. Bệnh tích đại thể của gà mắc bệnh đầu đen tại huyện Phú Bình 40
Bảng 4.4. Kết quả gây nhiễm bệnh đầu đen cho gà 43
Bảng 4.5. Thời gian gà xuất hiện triệu chứng lâm sàng sau gây nhiễm 46
Bảng 4.6. Triệu chứng lâm sàng của gà bị bệnh đầu đen sau gây nhiễm 48
Bảng 4.7. Kết quả theo dõi gà chết sau gây nhiễm 49
Bảng 4.8. Bệnh tích đại thể của gà sau gây nhiễm 52
Bảng 4.9. Bệnh tích vi thể của gà sau gây nhiễm 53
Bảng 4.10. Khối lượng cơ thể và các cơ quan nội tạng của gà thí nghiệm 54
Bảng 4.11. Thể tích các cơ quan nội tạng của gà thí nghiệm 56
Bảng 4.12. Hiệu lực của thuốc trị bệnh đầu đen cho gà trên diện hẹp 58
Bảng 4.13. Hiệu lực của thuốc trị bệnh đầu đen cho gà trên diện rộng 59




11


Một tỷ lệ tử vong thấp hơn 50 % đã được báo cáo bởi Hauck và cs (2006)
[19], khi tác giả gây nhiễm bệnh cho gà tây 3 tuần tuổi với liều 150.000 H.
meleagridis/ con.
Một nghiên cứu khác về khả năng truyền bệnh trực tiếp ở gà tây cũng được
mô tả bởi Hess M. và cs (2006) [22]: tác giả cũng tiến hành gây nhiễm thông qua lỗ
huyệt cho gà tây ở 14 ngày tuổi với liều 380.000 đơn bào H. meleagridis. Kết quả
những gà được gây nhiễm bài tiết mầm bệnh ngay sau khi gây nhiễm 2 ngày. Sau
14 ngày gây nhiễm, mổ khám tất cả những gà sống sót, kiểm tra manh tràng và gan
thấy xuất hiện tổn thương nặng của bệnh đầu đen. Ngoài ra, túi Fabricius cũng bị
phá hủy nặng nề.
Hess M. và cs (2008) [23] đã nghiên cứu bệnh đầu đen ở các loài gia cầm
khác nhau trên mọi lứa tuổi với liều gây nhiễm khác nhau. Các tác giả tiến hành gây
nhiễm trực tiếp thông qua lỗ huyệt cho 14 loài gia cầm ở 1 ngày tuổi, 14 ngày tuổi và
8 tuần tuổi với liều từ 10.000 - 1.000.000 H. meleagridis/ con. Kết quả thu được, gia
cầm 8 tuần tuổi khi gây nhiễm với liều thấp hầu như không có dấu hiệu lâm sàng
của bệnh và không có loài nào bị chết. Khi gây nhiễm với liều 1.000.000 H.
meleagridis/ con, tất cả gia cầm đều chết từ 11 - 21 ngày sau gây nhiễm. Mổ khám
kiểm tra gan và manh tràng có tổn thương nặng của Histomoniasis.
Hauck và cs (2010) [20], đã gây nhiễm bệnh cho gà tây bằng cả 2 đường,
đường ăn uống và qua lỗ huyệt, kết quả như sau: Gà gây nhiễm qua đường miệng tỷ
lệ mắc bệnh và tử vong thấp hơn so với gây nhiễm qua lỗ huyệt. Cụ thể, gây nhiễm
qua đường miệng tỷ lệ mắc bệnh là 20 %, tỷ lệ chết 2 %, trong khi gây nhiễm qua lỗ
huyệt tỷ lệ mắc bệnh 65 %, tỷ lệ chết 45 %.
Gần đây Armstrong P. L, Mc Dougald L. R. (2011) [8], tiếp tục nghiên cứu
sự truyền bệnh trực tiếp cho gà tây mà không cần sự có mặt của các vật chủ trung
gian và điều tra khả năng lây nhiễm khi tiếp xúc. Ông đã tiến hành 3 lô thí nghiệm
khác nhau:
Lô 1: tiến hành nuôi nhốt chung với gia cầm đã mắc bệnh đầu đen.



12

Lô 2 và 3: gây nhiễm trực tiếp bằng 2 đường, thông qua đường miệng và
bơm trực tiếp vào lỗ huyệt (bằng một đầu ống hút nhựa gắn vào ống tiêm 10 ml H.
meleagridis có trong hỗn hợp phân và manh tràng của gà bệnh được 4 ngày).
Theo dõi thí nghiệm sau 14 ngày, tiến hành mổ khám thấy: 31 gà trong số 44
gà ở lô 2 được bơm trực tiếp vào lỗ huyệt có bệnh tích điển hình ở cả gan và manh
tràng, trong khi đó không thấy gà ở lô 3 bị tổn thương khi cho bằng đường miệng. Ở
lô 1 khi cho nuôi nhốt chung với đàn gà mắc bệnh đầu đen trước đó, mổ khám thấy
có 11 gà mắc bệnh và có bệnh tích điển hình ở gan và manh tràng trong số 36 gà đối
chứng (chiếm 30,5 %).
Hauck. R, Hafe H. M. (2013) [21], cho biết trong 10 năm qua, phương pháp
gây nhiễm thông qua lỗ huyệt được tiến hành một cách phổ biến nhất và đạt độ tin
cậy cao.
Trong hầu hết các nghiên cứu liều gây nhiễm thường từ 10.000 - 100.000
đơn bào H. meleagridis được sử dụng, tỷ lệ tử vong ở gà được gây nhiễm chiếm
hơn 70 %. Trong đó gà tử vong sớm nhất có thể xảy ra ở ngày thứ 6 sau khi gây
nhiễm và muộn nhất thường từ 13 - 15 ngày sau gây nhiễm.
Mổ khám có thể quan sát được tổn thương ở manh tràng sau 3 - 4 ngày và
tổn thương nặng sau 3 tuần, gan ở giai đoạn đầu không thấy xuất hiện tổn thương
hoặc một số ít có các tổn thương nhẹ.
Các kết quả trên, cho thấy: Có thể gây nhiễm bệnh đầu đen cho gà khỏe bằng
2 đường, qua đường miệng và qua lỗ huyệt. Do ảnh hưởng của axit đường tiêu hóa
nên tỷ lệ nhiễm bệnh không cao khi gây nhiễm qua đường miệng. Bệnh đầu đen có
thể xảy ra bất cứ khi nào lỗ huyệt của gà khỏe tiếp xúc với phân tươi bị nhiễm mầm
bệnh. Ngay sau khi tiếp xúc với phân tươi của gà bệnh, H. meleagridis sẽ di chuyển
ngược theo nhu động ruột vào ký sinh ở manh tràng.
2.1.1.4. Vòng đời của Histomonas meleagridis
Lê Văn Năm và cs (2010) [4] tóm tắt vòng đời phát triển của đơn bào H.

meleagridis như sau:


13

Trong mô tổ chức của kí chủ (gà ta và gà tây). H. meleagridis sinh sản theo
phương thức tự phân đôi và sinh sản mạnh nhất ở giai đoạn thể lưới (Incistio) hay
thể hợp bào. Khi theo phân ra khỏi kí chủ, ở thể hình roi và thể amip chúng chỉ sống
được trong vòng 24 h, trong khi đó ở thể lưới chúng có thể tồn tại hàng năm trong
các trứng của giun kim H. gallinarum. Điều kiện khô ráo và nhiệt độ thấp giúp cho
H. meleagridis tồn tại lâu trong môi trường thiên nhiên ngoài cơ thể. Do đó gà bị
nhiễm bệnh khi ăn thức ăn, nước uống bị nhiễm trứng giun kim H. gallinarum có
chứa thể hợp bào H. meleagridis.
H. meleagridis có thể nuôi cấy ở môi trường nhân tạo và yếm khí.
2.1.1.5. Nuôi cấy đơn bào H. meleagridis
Drbohlav (1924) [14] là người đầu tiên tiến hành nuôi cấy đơn bào H.
meleagridis đã báo cáo rằng: H. meleagridis sinh trưởng tốt ở môi trường thạch
máu chứa 1% pepton so với môi trường thạch máu thông thường và thích hợp
nhất ở độ pH 7,2 - 7,8.
Bishop (1937) [9] đã thu thập các đơn bào H. meleagridis từ các tổn
thương ở gan của gà mắc bệnh nặng, sau đó nuôi cấy trong môi trường huyết
thanh ngựa pha với bột gạo với tỷ lệ 1: 8, đặt ống nghiệm thẳng đứng cũng thu
được kết quả tốt.
DeVolt (1943) [13] cũng tiến hành thí nghiệm nuôi cấy đơn bào H.
meleagridis trong hỗn hợp dung dịch huyết thanh gà tây 2% và NaOH 2%, pH =
9, hấp tiệt trùng ở 120
0
C trong 20 phút. Trước khi sử dụng, mỗi ống nghiệm cho
thêm một ít dung dịch tinh bột gạo vô trùng. Tác giả báo cáo rằng, có một số vi
khuẩn tồn tại trong môi trường nuôi cấy cùng với đơn bào H. meleagridis.

Các nhà nghiên cứu khác cũng tiến hành nuôi cấy H. meleagridis ở các
môi trường khác nhau. Lesser (1960) [28] thử nghiệm thay thế huyết thanh ngựa
bằng sữa tươi và sữa bò. Tác giả nhận thấy chỉ có sữa tươi đã được tiệt trùng
hoặc chưa được tiệt trùng và được lọc qua màng lọc Selas (0,6 micron) là có kết
quả tương tự với huyết thanh ngựa. Việc thay thế sữa tươi bằng sữa bò tươi
cũng không đạt được kết quả.


14

Sau này, Lesser (1960) [28] đã nuôi cấy H. meleagridis trong môi trường
M199 pha loãng 10 lần bằng nước cất và bổ sung 10 % sữa tươi đã lọc hoặc
huyết thanh ngựa và 0,05 % NaHCO
3
. Nhận thấy H. meleagridis sinh trưởng tốt.
Mc Dougald và Galloway (1970) [31] khẳng định rằng: Môi trường nuôi
cấy đơn bào H. meleagridis tốt nhất là môi trường Dwyers (1970). Môi trường
này bao gồm 85 % M199; 5 % chiết xuất phôi thai gà và 10 % huyết thanh cừu
hoặc huyết thanh ngựa, điều chỉnh pH 7,8. H. meleagridis phát triển nhanh
trong môi trường này và được sử dụng để chẩn đoán, xét nghiệm Histomoniasis
từ 28 - 48 h sau khi tiêm.
2.1.2. Bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà
2.1.2.1. Lịch sử bệnh
Histomoniasis được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1893 ở Rhode Island
(Cushman, 1894) [11]. Tuy nhiên, các báo cáo của Trạm thực nghiệm nông nghiệp
tại địa phương về tình hình dịch bệnh từ năm 1891, báo cáo đã đề cập về một " bệnh
khó hiểu" xuất hiện trên đàn gà tây, với triệu chứng chung là da vùng đầu bị biến
đổi màu, gà mắc bệnh tỷ lệ chết cao, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi gà tây.
Những người nông dân địa phương căn cứ vào triệu chứng đặc biệt đã quan sát
được ở vùng đầu của gà tây mắc bệnh: mào thâm tím, da mép và da vùng đầu xanh

xám, thậm chí xanh đen nên gọi tên bệnh là bệnh “đầu đen”.
Kể từ khi bệnh “đầu đen” xuất hiện phổ biến, các nhà khoa học đã tập
trung nghiên cứu về bệnh. Sau một thời gian nghiên cứu, người ta nhận thấy
dấu hiệu biến đổi da vùng đầu không phải là dấu hiệu đặc trưng cho bệnh, vì nó
có thể quan sát thấy trong một số bệnh khác của gà tây. Theo Smith (1895) [35],
khi gà tây mắc bệnh thì gan và manh tràng là 2 cơ quan bị tổn thương nặng nề
nhất. Tác giả đã lấy bệnh phẩm là 2 cơ quan này để nghiên cứu và xác định
được nguyên nhân gây bệnh là một sinh vật đơn bào (Amoeba meleagridis), từ
đó bệnh đã được đặt tên là bệnh truyền nhiễm Enterohepatitis. Nghiên cứu kỹ
hơn, Tyzzer (1920) [37], đã xác định được nguyên nhân gây bệnh và gọi tên sinh
vật đơn bào gây bệnh đó là H. meleagridis. Từ đó, bệnh cũng được gọi bằng tên khoa
DANH MỤC HÌNH

Trang
Hình 4.1. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà tại một số địa phương của
huyện Phú Bình 37

×