Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận môn tài chính tiền tệ Lý thuyết thị trường hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.95 KB, 16 trang )

Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
DANH SÁCH NHÓM 6
1. Nguyễn Thị Ngọc Điệp
2. Phan Trần Hoàng Yến
3. Trần Thị Bích Trâm
4. Phạm Thị Thùy Dương
5. Huỳnh Ngô Mỹ Linh
6. Nguyễn Anh Thư
7. Lê Thị Thanh Hoa
8. Nguyễn Công Phát
9. Lê Thị Minh Hằng
10. Thân Thị Quỳnh Hương
11. Lê Quân Huy
1
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ “LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ”
1.1 Quá trình phát triển:
Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis: EMH) lần đầu tiên
xuất hiện trong luận án tiến sĩ của nhà thống kê học người Pháp Louis Bachelier vào
năm 1900. Đến đầu thập niên 1960 Giáo sư Eugene Fama của trường đại học Chicago
đã có công phát triển EMH như một khái niệm mang tính học thuật trong các nghiên
cứu của mình: “Một thị trường được coi là hiệu quả khi giá cả luôn được phản ánh
đầy đủ bởi các thông tin có sẵn”.
Hiện nay, EMH được phát triển không chỉ bằng việc đưa ra các khái niệm mà nó
còn được áp dụng nhiều trong thực hành để kiểm định về tính hiệu quả của thị trường
chứng khoán. Từ đó, có rất nhiều kết luận được rút ra thiết thực trong hoạt động của
thị trường chứng khoán và thị trường tài chính nói chung.
1.2 Khái niệm:
Tính hiệu quả của thị trường là khả năng và tốc độ mà tổng thể các thông tin trên


thị trường ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Một thị trường được coi là hiệu quả khi nó
đạt hiệu quả về mặt thông tin, hay nói các khác, giá của các loại tài sản được giao dịch
như cổ phiếu, trái phiếu bất động sản, phản ánh được tất cả các thông tin đã biết trên
thị trường.
EMH nêu lên rằng nhà đầu tư không thể nào vượt mặt được thị trường bằng cách
sử dụng mọi thông tin mà thị trường đã biết, trừ khi nhờ may mắn. Thông tin hay tin
tức trong một thị trường hiệu quả được định nghĩa là bất cứ thông tin nào có thể gây
ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, mà thông tin này không thể nào biết được trong hiện tại
và chỉ xuất hiện ngẫu nhiên trong tương lai. Chính những thông tin ngẫu nhiên này sẽ
2
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
làm cho giá cổ phiếu trong tương lai biến động. Theo giả thuyết này, những thị trường
trong đó xuất hiện giao dịch nội gián (insider trading) không thể coi là thị trường hiệu
quả được.
Không tính các đối tượng tìm cách tối đa hoá lợi nhuận, thì EMH đòi hỏi rằng
mọi đối tượng phải có kì vọng, dự đoán hợp lý. Điều đó có nghĩa là, cho dù không một
ai đúng, thì tính bình quân ra thị trường vẫn đúng và bất cứ khi nào có thông tin
mớixuất hiện, các đối tượng sẽ tự động cập nhật lại dự đoán của mình một cách thích
hợp. Khi đối mặt với các thông tin mới, mỗi nhà đầu tư sẽ có cách phản ứng khác
nhau, tất cả những gì mà EMH đòi hỏi chỉ là, phản ứng của các nhà đầu tư hoàn toàn
ngẫu nhiên, để ảnh hưởng ròng của chúng(sau khi đã bù trừ lẫn nhau) lên giá thị
trường không bị nhà đầu tư khai thác để kiếm lợi nhuận cao một cách bất thường, đặc
biệt sau khi đã trừ chi phí giao dịch. Do đó, bất cứ ai cũng có thể sai dự đoán sai về thị
trường, nhưng do giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi cả thị trường nên giá của nó chính là
giá thị trường kì vọng, hay nói cách khác, xét trên tổng thể, thì thị trường luôn đúng.
Thị trường hiệu quả được phân chia thành 3 cấp độ: dạng yếu, dạng trung
bình(bán mạnh) và dạng mạnh.
3
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
CHƯƠNG 2:

CÁC HÌNH THÁI CỦA THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
2.1 Các mức độ thông tin:
Giáo sư Eugene Fama (Đại học Chicago, Mỹ) là người đã tổng hợp và đưa ra phổ
biến các dạng hiệu quả của thị trường thành ba giả thuyết thành phần tương ứng với ba
tập thông tin được xem xét.
- Tập thông tin dạng yếu: tập thông tin chỉ bao hàm các dữ liệu lịch sử về loại
chứng khoán đang phân tích, đó là các thông tin giá quá khứ, lợi suất, thu nhập, trong
quá khứ.
- Tập thông tin dạng trung bình: tập thông tin bao gồm tất cả các dữ liệu phù hợp
đã được công bố ra công chúng trong quá khứ và hiện tại, tập thông tin này cũng bao
gồm tập thông tin dạng yếu.
- Tập thông tin dạng mạnh: tập thông tin bao gồm tất cả các dữ liệu được biết,
không kể các dữ liệu đó có được công bố hay không, đây là tập thông tin bao hàm cả
tập thông tin dạng yếu và dạngtrung bình.
Như vậy, từ tương ứng ba tập thông tin trên, thị trường hiệu quả được phân chia
ra thành ba cấp độ hiệu quả hay ba dạng hiệu quả, đó là thị trường hiệu quả dạng yếu,
thị trường hiệu quả dạng trung bình và thị trường hiệu quả dạng mạnh.
2.2Các mức độ thị trường:
2.2.1 Mức độ thứ nhất: Thị trường hiệu quả dạng yếu (weak – form)
Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng này cho rằng giá chứng khoán hiện tại là sự
phản ánh đầy đủ mọi thông tin dạng yếu của thị trường chứng khoán (các thông tin quá
khứ), bao gồm các mức giá trong quá khứ, lợi suất trong quá khứ hay sự thay đổi của
giá hay các mức lợi suất ở các thời điểm Tại thị trường hiệu quả dạng yếu, mức giá
thị trường hiện tại đã phản ánh tất cả các thu nhập trong quá khứ và mọi thông tin trên
thị trường nên giả thuyết này có nghĩa là lợi suất – suất sinh lời của chứng khoán trong
quá khứ cũng như các thông tin khác không có mối liên hệ với tương lai (các lợi suất
độc lập với nhau). Nói cách khác, không thể dự báo được giá chứng khoán trong tương
lai hay là có thể kiếm được lợi nhuận vượt trội bằng những căn cứ từ thông tin tương
tự của chúng trong quá khứ.
2.2.2 Mức độ thứ hai: Thị trường hiệu quả dạng trung bình (semi – strong)

4
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng trung bình cho rằng giá chứng khoán sẽ điều
chỉnh nhanh chóng trước bất kỳ thông tin công khai nào, tức là mức giá hiện tại phản
ánh đầy đủ mọi thông tin công khai trong hiện tại (hoặc lân cận với hiện tại), cũng như
trong quá khứ. Như vậy lý thuyết dạng này bao trùm lên lý thuyết hiệu quả dạng yếu.
Thông tin công khai bao gồm: các báo cáo tài chính công khai của doanh nghiệp, các
thông báo về thu nhập và cổ tức, chia cổ phần, chia tách cổ phiếu, thưởng cổ phiếu, và
các thông tin kinh tế vĩ mô, Trong một thị trường hiệu quả dạng này các nhà đầu tư
khi ra quyết định dựa trên các thông tin sau khi nó được công bố sẽ không thu được lợi
nhuận cao hơn mức trung bình bởi các thông tin công khai đã được phản ánh hết vào
trong mức giá chứng khoán.
2.2.3 Mức độ thứ ba: Thị trường hiệu quả dạng mạnh (strong – form)
Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng mạnh cho rằng giá chứng khoán phản ánh tất
cả các thông tin từ công khai đến nội bộ. Như vậy trong một thị trường hiệu quả dạng
mạnh thì người sử dụng tất cả những thông tin có thể có, dù rằng các thông tin đó có
được phổ biến ra công chúng hay không sẽ không thể thu được lợi nhuận vượt trội so
với người khác.
Tuy nhiên thị trường hiệu quả dạng mạnh không bao giờ lại thể hiện đúng theo
định nghĩa, bởi vì đây là một giả thuyết về một hình ảnh gần như phi thực tế. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra không thể có thị trường nào mà khi có những thông tin nội gián,
người sử dụng chúng lại không thu được lợi ích bất thường (thị trường bất động sản là
minh chứng rõ nhất: khi có thông tin nội bộ về những vùng đất đai quy hoạch thì
những người có được thông tin này thực sự có được những đặc lợi khó sánh).
Ba dạng hiệu quả của thị trường có thể được minh họa bằng hình vẽ sau đây:
HÌNH THÁI YẾU
Thông tin quá khứ
HÌNH THÁI TRUNG BÌNH
Thông tin đại chúng
HÌNH THÁI MẠNH

Tất cả thông tin (kể cả thông tin nội bộ)
5
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
CHƯƠNG 3:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
3.1 Lý thuyết dự tính hợp lý – cơ sở lý luận của lý thuyết thị trường hiệu quả:
Dự tính có vai trò quan trọng và ý nghĩa trong một số lĩnh vực của nền kinh tế,
giúp cho nhà quản lý, nhà đầu tư, người tiêu dùng phán đoán xu hướng vận động,
phát triển của thị trường trong tương lai. Từ đó vạch định ra những chiến lược, chính
sách, đưa ra quyết định thực hiện để mang lại lợi ích và hiệu quả kinh kế. Những kết
quả thu được lại tác động trở lại đến sự vận động của thị trường.
Tóm lại, "dự tính" có tác động rất lớn đến sự vận động của nền kinh tế. Và một
dự tính chính xác với vận động thực tế của thị trường nhất sẽ mang về cơ hội lớn nhất
để tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường.
Có 03 loại dự tính:
 Dự tính thích ứng: được cho rằng chỉ hình thành từ những kinh nghiệm đã qua;
 Dự tính hợp lý: là dự tính dựa trên biến số;
 Dự tính tối ưu: sử dụng thông tin từ rất nhiều nguồn để đưa ra dự tính.
3.1.1 Nội dung của lý thuyết dự tính hợp lý:
Lý thuyết dự tính hợp lý được phát triển sẽ không khác vời dự báo tối ưu bằng
cách sử dụng mọi thông tin có sẵn.
Cần lưu ý hai lý do khiến cho một dự tính có thể không phải là hợp lý:
+ Thứ nhất, có thể biết được mọi thông tin nhưng không thể có được dự tính hợp
lý do sự lười nhát.
+ Thứ hai, do không biết một hoặc một vài thông tin sẵn sàng.
Như vậy, điều kiện lý thuyết thị trường hiệu quả là có mọi thông tin sẵn sàng và
biết sử dụng chúng trong việc dự tính để có được dự tính hiệu quả.
6
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
3.1.2 Phân tích nội dung lý thuyết dự tính hợp lý:

Với cách phát biểu ở phần trên cần lưu ý rằng việc dự tính không buộc phải là
hoàn toàn chính xác mới là hợp lý. Nó chỉ cần là tốt nhất có thể được trong điều kiện
thông tin có sẵn.
Hay nói cách khác, mặc dù điều dự tính của một dự tính hợp lý là tương đồng với
dự báo tối ưu sử dụng mọi thông tin sẵn sàng. Nó hoàn toàn có thể không chính xác so
với thực tế. Lý thuyết dự tính hợp lý có những hàm ý cơ bản sau:
Thứ nhất, "nếu có một sự thay đổi trong cách vận động của biến số, thì cách mà
dự tính về biến số được hình thành như thế nào cũng sẽ thay đổi theo"
Ví dụ: Giả sử rằng có 02 cách biến động của GDP như sau:
1. Nếu GDP tăng thì nó sẽ tiếp tục tăng và tăng ổn định.
2. Nếu GDP tăng thì tới một mức nào đó nó sẽ có xu hướng giảm về mức trung bình.
Với hai cách biến động của biến số GDP như trên thì cũng hình thành 02 cách dự
tính hợp lý về nó. Giả sử GDP năm nay là tăng so với năm trước:
Theo cách 1: Ta có dự tính hợp lý là GDP tiếp tục tăng ổn định trong các năm tới.
Theo cách 2: Giả sử GDP năm nay đã vượt một mức nào đó thì dự tính năm tới
nó sẽ giảm.
Như vậy, điều chủ yếu của vấn đề là cần nắm rõ quy luật vận động của biến số
cần dự tính.
Thứ hai, "những sai lầm dự báo của dự tính sẽ trung bình bằng không, và không
thể dự báo sớm trước được".
3.1.3 Vai trò của lý thuyết dự tính hợp lý:
Lý thuyết dự tính hợp lý có vai trò rất lớn trong đời sống thực tế cũng như trong
kinh tế. Thông qua phương pháp dự tính hợp lý ta đã có được dự đoán tốt nhất có thể
có về một biến số trong tương lai. Như vậy, ta có thể tiết kiệm được về thời gian, chi
phí tổn thất quá lớn do biến số trong tương lai không bằng với dự tính. Từ đó, các nhà
đầu tư, nhà sản xuất kinh doanh có thể đưa ra quyết định, xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh trong tương lai, thay đổi chiến lược kinh doanh khi cần thiết.
3.2 Lý thuyết thị trường hiệu quả:
Mặc dù được phát triển song song với lý thuyết dự tính hợp lý nhưng trên thực
thực tế lý thuyết thị trường hiệu quả chính là lý thuyết dự tính hợp lý được xây dựng

7
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
và vận dụng đối với thị trường tài chính. Dự tính trên thị trường tài chính bằng với dự
báo tối ưu sử dụng mọi thông tin sẵn sàng.
3.2.1 Khái niệm thị trường hiệu quả:
Thị trường được coi là hiệu quả khi nó đạt đầy đủ ba yếu tố sau:
 Phân phối hiệu quả
 Hoạt động hiệu quả
 Thông tin hiệu quả
Thị trường được coi là hiệu quả về mặt phân phối khi các nguồn tài nguyên, vốn
khan hiếm trên thị trường được phân phối một cách có hiệu quả nhất. Tức là chỉ những
người trả giá cao nhất cho nguồn tài nguyên mới được sử dụng chúng.
Thị trường được coi là hiệu quả về mặt hoạt động khi các chi phí giao dịch trong
thị trường là không. Điều đó có nghĩa, thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên trên
thực tế, thị trường không thể tồn tại nếu cổ phiếu của người vận hành thị trường không
được bù đắp.
Thị trường được coi là hiệu quả về mặt thông tin nếu thị giá phản ánh lập tức và
đầy đủ tất cả các công tin trên thị trường.
3.2.2 Hình thái thị trường hiệu quả:
Các hình thái thị trường hiệu quả được phân chia căn cứ trên mức độ khác nhau
trong sự phản của giá cả đối với thông tin trên thị trường. Có 03 loại hình thái:
 Thị trường hiệu quả dạng yếu: nếu giá cả đã phản ánh đầy đủ và kịp thời những
thông tin trong quá khứ của thị trường.
 Thị trường hiệu quả dạng trung bình: nếu giá cả phản ánh tất cả những thông tin
liên quan đến công ty được công bố ra công chúng: thông tin trong quá khứ,
thông tin cơ bản về năng lực sản xuất, chất lượng quản lý, dự đoán thu nhập,
bảng cân đối kế toán, thông tin về đối thủ cạnh tranh
 Thị trường hiệu quả dạng mạnh: nếu giá cổ phiếu đã phản ánh tất cả những
thông tin cần thiết có liên quan đến công ty, kể cả những thông tin nội bộ.
8

Tất cả thông tin
Thông tin đại chúng
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
CHƯƠNG 4:
NHỮNG TRANH LUẬN VỀ LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
4.1 Những tranh luận về khái niệm Lý thuyết Thị Trường hiệu quả
Khái niệm về Lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH) lần đầu tiên xuất hiện từ đầu
thế kỷ 20 và ngày càng được tiếp tục hoàn thiện. Năm 1900 nhà thống kê học người
Pháp Louis Bachelier đã viết “Quá khứ, hiện tại và thậm chí là các sự kiện sẽ diễn ra
trong tương lai sẽ được phản ánh trong giá thị trường, nhưng thường cho thấy không
có quan hệ rõ ràng giữa các thay đổi giá” [2, tr5]. Sau đó một số tác giả khác đã tiếp
tục theo đuổi về EMH, trong đó phải kể đến Kendall (1953), Paul Samuelson (1965).
Theo Samueson: “…Giá cả cạnh tranh chắc chắn sẽ được thể hiện trong các sự thay
đổi giá… nó thể hiện là tuân theo bước ngẫu nhiên và không thể dự báo được” [1, tr
137]. Sau này các tác giả đương đại đã chỉ ra những bằng chứng liên quan đến EMH
cho đến những năm 1960 chính là giả thuyết về bước ngẫu nhiên (RWH- Random
Walk Hypothesis) – giả thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá cả trong quá khứ
và giá tương lai của các tài sản (ngày nay ta thấy nó thuộc về EMH dạng yếu).
Sau những năm 1960, RWH tiếp tục được mở rộng sang EMH với sự xuất hiện
của EMH dạng trung bình và dạng mạnh. Lý thuyết về thị trường hiệu quả chính thức
được biết đến và khái niệm thị trường hiệu quả lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1969
bởi tác giả Fama. Ông cho rằng “Thị trường hiệu quả là thị trường được điều chỉnh
rất nhanh chóng bởi các thông tin mới”. Fama (1970 - 1991) đã tổng kết về EMH khá
đầy đủ và chi tiết. Theo đó: “Một thị trường được coi là hiệu quả khi giá cả luôn được
phản án đầy đủ bởi các thông tin có sẵn”. Tuy vậy, cùng với khái niệm về thị trường
hiệu quả như thế thì đòi hỏi có các yêu cầu kèm theo chẳng hạn như: người đầu tư
phải có những hành động hợp lý một cách tuyệt đối, chi phí giao dịch rất nhỏ - gần
9
Thông tin
quá khứ

Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
như có thể bỏ qua, thông tin được lưu thông một cách hoàn hảo…và điều này trong
thực tế thì khó xảy ra. Vì thế, khái niệm về EMH không thể làm hài lòng tất cả giới
nghiên cứu. Nhà nghiên cứu kinh tế Jensen (1978) định nghĩa thị trường hiệu quả một
cách gần thực tế hơn như sau: “Một thị trường hiệu quả là thị trường mà trong đó
thông tin được phản ánh trong mức giá cho tới khi lợi ích biên của giao dịch khi có
được thông tin đó (lợi suất kỳ vọng) không thể vượt quá chi phí biên của việc khai thác
thông tin”. [3, tr 221]
Khái niệm TTHQ tiếp tục được mở rộng bằng một quan niệm của Black (1986)
được ông đưa ra phát biểu trước Hiệp hội Tài chính Mỹ: Chúng ta có thể định nghĩa
thị trường hiệu quả là một thị trường mà ở đó, giá nằm trong biên độ hai lần so với
giá trị, tức là giá lớn hơn nửa giá trị và nhỏ hơn hai lần giá trị. Nhân tử 2 ở đây là suy
nghĩ chủ quan của tôi. Tuy nhiên, nó có vẻ khá hợp lý từ quan điểm của tôi, với sự bất
định về giá trị và áp lực từ các nhân tố luôn có xu hướng đẩy giá về giá trị. Với định
nghĩa này, tôi nghĩ rằng hầu hết tất cả các thị trường đều hiệu quả trong suốt thời
gian. “Hầu hết” có nghĩa là ít nhất 90% [4, tr 129]. Định nghĩa thị trường hiệu quả
này tập trung vào quy mô của độ chệch giữa giá tài sản với giá trị thực. Thông tin của
nhà đầu tư có thể bị nhiễu và do vậy giá có thể chệch khỏi giá trị nền tảng. Tuy nhiên,
thị trường vẫn hiệu quả trong điều kiện này nếu như độ chệch không kéo dài quá lâu
hoặc quá lớn trước khi chúng được điều chỉnh lại cho đúng.
Vào năm 1992, Malkiel đã đưa ra một khái niệm khá toàn diện về EMH, được đề
cập đến như sau: “Một thị trường vốn (cũng đúng cho thị trường chứng khoán) được
cho là hiệu quả nếu nó phản ánh đầy đủ và chính xác tất cả các thông tin có sẵn trong
việc xác định giá chứng khoán” [5, tr 15- 27]. Có nghĩa, thị trường được coi là hiệu
quả đối với một tập thông tin Ωt nếu giá chứng khoán không bị ảnh hưởng bằng việc
thông tin được tiết lộ cho tất cả các thành viên thị trường. Hơn nữa, thị trường hiệu
quả đối với tập thông tin Ωt hàm ý rằng người đầu tư không thể kiếm được những lợi
nhuận bất thường trên cơ sở những thông tin từ tập Ωt .
4.2 Những lý thuyết tài chính liên quan đến lý thuyết thị trường hiệu quả:
EMH hiện nay luôn có một số lý thuyết khác phản biện lại do thực tế các sự kiện

chứng khoán đã và đang diễn ra đầy biến động như: ngày thứ ba đen tối 1987, tình
hình chứng khoán của các nước Châu Á năm 2000….Một số lý thuyết phản bác đó là:
10
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
Thuyết Down của các nhà phân tích kĩ thuật, Lý thuyết về phân tích giá trị của các nhà
phân tích cơ bản, Lý thuyết tài chính hành vi, Lý thuyết thị trường thích nghi. Các đặc
điểm của các lý thuyết tài chính và trường phái phản biển như:
4.2.1 Trường phái phân tích kĩ thuật:
Công cụ chủ yếu của các nhà phân tích kĩ thuật là đồ thị, biểu đồ để biểu thị tất
các sự việc xảy ra trên thị trường hoặc các chỉ số tính ra từ các đại lượng đó. Trên đồ
thị họ tìm ra quy luật về các tín hiệu báo trước về sự thay đổi của xu thế giá.
Các nhà phân tích luôn tìm kiếm và phát triển lý thuyết của mình. Đối với họ
những sự việc đã diễn ra trong quá khứ rất quan trọng và là cơ sở cho tương lai. Ngược
lại EMH cho rằng trong thị trường chứng khoán giá cả trong quá khứ không liên quan
gì với những diễn biến trong tương lai. Chỉ khi nào thị trường không đạt hiệu quả thì
những phân tích kĩ thuật này mới có ý nghĩa. Tuy nhiên thị trường luôn trong trạng
thái tự điều chỉnh về mức hiệu quả do đó phân tích kĩ thuật là công cụ trong những
thời điểm nhất định cho nhà đầu tư,
4.2.2 Lý thuyết về phân tích giá trị của các nhà phân tích cơ bản:
Phân tích cơ bản là phân tích tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của công
ty. Người phân tích còn dựa trên bảng cân đối tài khoản, báo cáo lợi tức của công ty…
Những phân tích này sẽ đánh giá một chứng khoán trên hay dưới mức giá trị hiện
hành, điều này khẳng định giá trị thực của công ty và các đặc tính tài chính như: khả
năng phát triển, dòng tiền mặt, những rủi ro mà công ty có thể gặp phải…Kết quả của
phân tích sẽ ảnh hưởng đến việc quyết định đầu tư cho tương lai của công ty.
Khi thị trường hiệu quả trung bình thì việc phân tích cơ bản không có giá trị bởi
giá chứng khoán đã phản ánh hết những thông tin được công bố từ chính các báo cáo
tài chính của các công ty và việc sử dụng thông tin không mang lại lợi ích nào cho các
nhà đầu tư.
Tuy nhiên khi thị trường không hiệu quả, hiệu quả yếu hoặc trung bình thì trường

phái phân tích cơ bản chiếm ưu thế. Nhưng cũng không hoàn toàn phủ nhận EMH bởi
các nhà đầu tư sau khi sử dụng thông tin phân tích cơ bản sẽ đưa thị trường trở nên
hiệu quả hơn. Giá cả lúc này là tín hiệu tốt để phản ánh đúng giá trị nội tại của chứng
khoán.
11
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
4.2.3 Lý thuyết tài chính hành vi
Nền tảng cơ bản của thuyết này là: “thị trường không luôn luôn đúng” đặt ra một
đối trọng lớn với lý thuyết EMH. Bởi EMH dựa trên niềm tin luôn tồn tại một cơ chế
điều chỉnh thị trường về trạng thái hiệu quả đó là cơ chế kinh doanh chênh lệch giá. Cơ
chế này thể hiện cơ hội kinh doanh chênh lệch giá giúp các nhà đầu tư điều chỉnh thị
trường về trạng thái hợp lý hay cân bằng. Ngược lại lý thuyết tài chính hành vi cho
rằng cơ chế điều chỉnh đó không phải lúc nào cũng xảy ra, những nhà đầu tư hợp lý sẽ
không chiến thắng những nhà đầu tư bất hợp lý và thị trường sẽ không hiệu quả -
nghĩa là định giá quá cao hoặc quá thấp giá cổ phiếu hay giá các loại sản phẩm tài
chính khác,
Trong thị trường khi tồn tại một trong ba điều kiện cơ bản sau sẽ khó tuân theo
EMH, hiện tượng định giá sai sẽ xuất hiện:
+ Tồn tại hành vi không hợp lý
+ Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống
+ Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính
4.2.4 Lý thuyết thị trường thích nghi:
Lý thuyết thị trường thích nghi còn được gọi với cái tên AMH ( Adaptive Market
Hypothesis), tưc 1à thị trường hiệu quả mang tính thích nghi cao. Lý thuyết này được
giải thích là có thêm những hành động bất hợp lý của các chủ thể tham gia thị trường
và chú ý hơn đến hành vi của từng nhóm chủ thể trên thị trường.
AMH được chấp nhận trong ngắn hạn, giải thích nhiều sự kiện EMH không thể
lý giải. AMH chấp nhận những nghịch lý hiện hữu ở EMH. Trên thực tế khi tất cả các
nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán tin rằng thị trường hiệu quả thì lúc đó thị
trường lại không hiệu quả do không có động cơ để các nhà đầu tư phân tích chứng

khoán và chọn ra chứng khoán đang bị đánh giá thấp hơn thực tế để thay đổi hạng mục
đầu tư, thị trường giảm sút do tính thanh khoản yếu.
Thực tế thị trường hiệu quả phụ thuộc vào người tham gia thị trường chứng
khoán tin rằng thị trường chưa hiệu quả và việc phân tích chọn chứng khoán là cần
thiết trong nỗ lực tìm những khoản lợi nhuận cao hơn mức trung bình của thị trường
để thị trường trở nên sôi động và có tính thanh khoản cao.
12
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
Trên đây là một số lý thuyết tài chính đan xen cùng Lý thuyết thị trường hiệu
quả, là đối trọng của lý thuyết này. Tuy nhiên những thuyết này cũng chỉ thắng thế
trong thời gian ngắn hạn, khi thị trường tạm thời chưa hiệu quả. Bên cạnh đó khi thị
trường hiệu quả ở mức nào đó như: hiệu quả dạng yếu, trung bình, không hiệu quả…
thì các trường phái lý thuyết tài chính trên vẫn song song cùng tồn tại với EMH. Thị
trường vẫn cần EMH làm thước đo để xác định vị trí hiệu quả của nó.
CHƯƠNG 5:
THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Từ các nghiên cứu về mô hình kiểm định của Hagerman và Richmond (1973),
Duffy – Deno’s (1996) , Hwey – Chyi Lee, Sheng – Shyr Cheng (2004) và gần đây là
kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam của Vũ Thị Minh Luận (tạp chí hoạt
động khoa học số 6/2009) cho thấy, TTCK Việt Nam không hiệu quả về mặt thông tin
(dạng yếu), nghĩa là có thể đoán được giá cổ phiểu tương lai dựa vào quá khứ, nhưng
cũng không phải ở mức quá tồi khi mà nhà đầu tư có sự phản ứng thông tin về giá quá
khứ ở những mức độ khác nhau trong trường hợp các mức giá lên xuống không phải
hoàn toàn giống nhau.
Giải pháp gia tăng hiệu quả cho thị trường chứng khoán Việt Nam:
Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán còn non trẻ, thì tính hiệu quả của thị trường
còn kém hay chưa đạt hiệu quả dạng thấp trong giả thuyết EMH cũng là một hiện
tưởng tất yếu Song song với quá trình phát triển của thị trường chứng khoán, Việt Nam
cần phải đặt mục tiêu hướng đến thị trường hiệu quả (dạng thấp) để có cơ sở đưa ra
các chiến lược thích hợp nhằm phát triển bền vững thị trường chứng khoán.

Dựa vào thực trạng những gì đang diễn ra, để đạt được mục tiêu trên, thiết nghĩ
những nhà quản lý thị trường cần phải quan tâm và thực hiện đồng bộ các giải pháp
sau:
1) Cải thiện tính minh bạch của thông tin được công bố ở cả hai phía là công ty niêm yết
và cơ quan quản lý.
13
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
Hiện nay, các công ty niêm yết không nhất quán trong vấn đề công bố thông tin,
khiến cho các công ty khác không muốn thực hiện.
Các cơ quan quản lý cần phải có biện pháp chặt chẽ hơn trong việc quản lý việc
công bố thông tin để nhà đầu tư thấy được tính chuyên nghiệp và có niềm tin khi đầu
tư vào thị trường chứng khoán.
2) Tiến tới dỡ bỏ biên độ giao dịch tại các sàn giao dịch chứng khoán, tạo điều kiện cho
chứng khoán phản ứng nhanh chóng với thông tin công bố.
Tác động của biên độ giao dịch đến TTCK tại Việt Nam còn rất lớn, dễ nhận ra
hàng loạt các lệnh đặt mua, bán với số lượng lớn được đưa vào sàn ở những giây cuối
cùng của phiên giao dịch, gây ra hiện tượng cung/cầu ảo, gây thiệt hại cho nhà đầu tư
nếu thiếu kinh nghiệm.
Khi biên độ giao dịch được xóa bỏ, giá cả sẽ rất linh hoạt điều chỉnh theo quan
hệ cung – cầu. Việc tranh nhau đặt lệnh ATO/ATC sẽ không còn hiệu lực. Nhà đầu tư
sẽ phải bám sát thị trường để quyết định mức giá. Việc đầu tư theo kiểu ép giá hôm
nay để chờ cơ hội mua vào ngày mai sẽ không còn khả thi nữa. Tính thanh khoản của
thị trường chứng khoán sẽ tăng vọt và tất cả các nhà đầu từ phải suy nghĩ, chứ không
còn ỷ lại vào dòng lệnh AT hay đặt kịt giá trần/sàn.
Khi biên độ giao dịch không còn, nếu các công ty niêm yết và các chính sách vĩ
mô công khai minh bạch thông tin giá chứng khoán sẽ được điêu chỉnh nhanh chóng
về mức giá nội tại, quan hệ cung cầu được điều chỉnh tương ứng.
3) Nâng cao vai trò của cơ quan giám sát thị trường chứng khoán như cơ quan quản lý
nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, và các định chế trung gian (công ty chứng
khoáng, công ty quản lý quỹ, …) tạo nên hệ thống giám sát gồm 3 tầng theo hàng dọc.

Trong đó sở giao dịch chứng khoán sẽ theo dõi các côg ty chứng khoán thành viên,
công ty ni6m yết về hoạt động giao dịch và thị trường của họ. Cơ quan quản lý nhà
nước phải chắc rằng việc thực thi quyền lực của sở phải tuân theo lợi ích chung, phù
hợp với quy luật chứng khoán, quy định của sở giao dịch chứng khoán.
4) Cần sửa đổi, bổ sung nâng cao tính thực thi của hệ thống pháp luật liên quan đến đầu
tư chứng khoán, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của thị trường. Bộ Tài chính, ,Ủy
ban chứng khoán cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết các quy
định về những tội danh trong lĩnh vực chứng khoán.
TTCK Việt Nam đang dần tiếp cận với thông lệ quốc tế, nên việc nới lỏng các
quy định về giao dịch chứng khoán để tăng tính thanh khoản cho thị trường là việc cần
phải làm nhanh. Cho phép nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản giao dịch, và một số
14
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
trường hợp các nhà đầu tư được phép mua và bán cùng một loại cổ phiếu trong một
ngày giao dịch, cơ quan quản lý nên cho phép nhà đầu tư được bán cổ phiếu vào ngày
T+2, T+3, tức là sau thời điểm Trung tâm Lưu ký đối chiếu giao dịch với các thành
viên trên thị trường.
Rút ngắn thời gian được phép bán chứng khoán kể từ khi lệnh mua thành công,
nhà đầu tư sẽ tăng tính chủ động hơn trong việc chốt lời hoặc sửa sai quyết định mua
của mình
5) Tăng cường tiêu chuẩn niêm yết đối với các công ty có nhu cầu niêm yết., nhằm tăng
tính an toàn cho nhà đầu tư
Nâng cao tiêu chuẩn niêm yết đối với các công ty có nhu cầu niêm yết sẽ giúp
TTCK đi vào ổn định và đạt hiệu quả hơn.
Khi tiêu chuẩn niêm yết thấp, sẽ có một bộ phận doanh nghiệm hoạt động không
hiệu quả được tham gia niêm yết, dễ gây rủi ro cho các nhà đầu tư.và làm xấu đi mội
trường đầu tư. Do đó, cần đầu tư vào chất lượng hàng hóa của tùng sàn, để nhà đầu tư
dễ nhận biết và xây dựng TTCK Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế. Tăng tỷ suất lợi
nhuận sau thuế trên vốn điều lệ có thể là giải háp mang tính khả thi nhất ở thời điểm
hiện tại

6) Tại bất kỳ TTCK nào thì giá biến động của các lại chứng khoán là “điều hiển nhiên”,
song với các loại giá của các loại cổ phiếu một cách liên tục trong thời gian dài,
không đi kèm với các thông tin mang tính đột biến của doanh nghiệpp cho thấy TTCK
Việt Nam chưa thể đạt tới mức hiệu quả dạng thấp của Eugene Fama. Tuy nhiên, để
hội nhập và muốn trở thah2 một thị trường phát triển ổn định, TTCKK Việt Nam cần
thiết phải theo dõi những nội dung trong giả thuyết EMH . Với những giải pháp được
triển khai đồng bộ và quyết liệt thì việc tiếp cận được giả thuyết hiệu quả là điều hoàn
toàn có thể đạt được trong thời gian gần.
15
Lý thuyết thị trường hiệu quả Nhóm 6 thực hiện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Ứng dụng Lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích thị
trường chứng khoán Việt Nam – Vũ Thị Minh Luận – Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân.
2.Samuelson, Paul A. (1965), Proof that properly anticipated prices fluctuate
randomly. Reprinted in Efficient Market Hypothesis, edited by Lo
3. Đinh Xuân Trình, Nguyễn Thị Quy (1998), Giáo trình chứng khoán, NXB Giáo Dục
4. Stephen Hall and Giovanni Urga (2002), Testing for ongoing efficiency in the
Russian stock market.
5. TIAA-CREF Individual & Institutional Services LLC and Teachers Personal
Investors Services Inc (2007), “Are You a Rational Investor?”, New York, N.Y. 10017
6. Timmermann, Allen and Granger, Clive W. J. (2004), “Efficient market hypothesis
and forecasting”, International Journal of Forecasting.
16

×