Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.24 KB, 128 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn “ Vận dụng phƣơng pháp trực quan trong dạy
học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học”, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ
nhiệt tình của các thầy cô giáo,bạn bè và người thân.
Trước hết tôi xin được bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đến thầy
giáo PGS.TS. Đỗ Tiến Đạt, thầy đã giao đề tài và trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin được trân trọng cảm ơn Các thầy cô giáo Phòng Sau đại học, các thầy
cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của Ban giám hiệu, các thầy
cô giáo và các em học sinh trường Tiểu học Tích Sơn- Thành phố Vĩnh Yên, trường
Tiểu học Tam Hồng 1- Yên Lạc- Vĩnh Phúc.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
quan tâm, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận
văn.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực để hoàn thành tốt luận văn nhưng chắc chắn sẽ
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo của các
thầy(cô) giáo cũng như ý kiến đóng góp của các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 12 năm 2012
Tác giả


Nguyễn Thu Ba







LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chƣa
đƣợc ai công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác trƣớc đây.

Hà Nội, tháng 12 năm 2012
Tác giả luận văn


Nguyễn Thu Ba














DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT



STT
KÍ HIỆU
NỘI DUNG
1
ĐTHH
Đối tượng hình học
2
QHHH
Quan hệ hình học
3
SGK
Sách giáo khoa
4
PPDH
Phương pháp dạy học
5
GV
Giáo viên
6
HS
Học sinh
7
PTDH
Phương tiện dạy học
8
PMDH
Phần mềm dạy học
9

PTTQ
Phương tiện trực quan
10
PTDHTQ
Phương tiện dạy học trực quan
11
PPDHTQ
Phương pháp dạy học trực quan
12
CNTT&TT
Công nghệ thông tin và truyển thông
13
MTĐT
Máy tính điện tử










MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan

Danh mục các kí hiệu, chữ cái viết tắt
Mục lục
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
1
6
6
1.1. Một số khái niệm cơ bản
6
1.1.1. Phương pháp dạy học
6
1.1.1.1. Khái niệm:
6
1.1.1.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học:
9
1.1.1.3. Hệ thống các phương pháp dạy học:
11
1.1.2. Kĩ thuật dạy học
13
1.1.2.1. Khái niệm
13
1.1.2.2 Hệ thống các kĩ thuật dạy học
14
1.1.3. Phương tiện dạy học
14
1.1.3.1. Khái niệm
14
1.1.3.2. Phương tiện dạy học

16
1.1.3.3. Phương tiện trực quan
16
1.1.4. Phương pháp trực quan
17
1.1.4.1. Khái niệm
18
1.1.4.2. Quy trìnhsử dụng PTTQ
19
1.1.4.3. Một số yêu cầu khi vận dụng các phương tiện trực quan
21
vào dạy học Toán ở Tiểu học
1.1.5. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp trực quan
trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học
22
1.1.6. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học
24
1.2. Thực tế nhận thức và việc vận dụng phương pháp trực quan
trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích của giáo viên ở trường
Tiểu học hiện nay
28
1.2.1. Mục đích điều tra
28
1.2.2. Đối tượng điều tra
28
1.2.3. Nội dung điều tra
28
1.2.4. Phương pháp điều tra
28
1.2.5. Kết quả điều tra

28
1.2.5.1. Nhận thức của giáo viên về việc vận dụng phương pháp
trực quan trong dạy học môn Toán ở Tiểu học
28
1.2.5.2. Thực tế việc vận dụng phương pháp trực quan trong dạy
học môn Toán ở Tiểu học
29
Kết luận chương 1
33
CHƢƠNG 2: Vận dụng phƣơng pháp trực quan trong dạy học
chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học
35
2.1. Nội dung dạy học về chủ đề diện tích và thể tích và những
yêu cầu cơ bản của chuẩn kiến thức kĩ năng
35
2.1.1. Nội dung
35
2.1.2. Các yêu cầu cơ bản của chuẩn kiến thức, kĩ năng
37
2.2. Vận dụng phương pháp trực quan vào dạy học chủ đề diện
tích và thể tích
40
2.2.1. Vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học biểu tượng
diện tích, thể tích
40
2.2.1.1. Quy trình dạy học
40
2.2.1.2. Kĩ thuật trình diễn trực quan
42
2.2.1.3. Một số cách trình diễn trực quan trong đó chú ý sử dụng

công nghệ thông tin trong trình diễn trực quan
43
2.2.1.4. Minh họa việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy
học
55
2.2. 2. Vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học tính toán và
đo lường diện tích, thể tích.
62
2.2.2.1. Quy trình vận dụng
62
a. Dạy đo lường diện tích, thể tích
62
b. Dạy tính toán đại lượng diện tích, thể tích
64
2.2.2.2. Kĩ thuật tính toán
65
2.2.2.3. Minh họa việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy
học
66
2.2.3. Vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học giải các bài
toán hình học có nội dung liên quan đến diện tích và thể tích
68
2.2.3.1. Nội dung chủ yếu của các bài toán về diện tích và thể tích
ở Tiểu học
68
2.2.3.2. Quy trình vận dụng
68
2.2.3.3. Kĩ thuật triển khai
68
2.2.3.4. Minh họa việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy

học
69
2.2.4. Ứng dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ đề diện
tích và thể tích có nội dung gắn với thực tiễn đời sống
72
Kết luận chương 2
75
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm
77
3.1. Khái quát chung
77
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
77
3.1.2. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm
77
3.1.2.1. Nội dung thực nghiệm
77
3.1.2.2. Cách tiến hành thực nghiệm
77
a.Chọn mẫu
77
b. Các bước tiến hành thực nghiệm
79
3.2. Kết quả thực nghiệm
79
3.2.1. Thống kê kết quả
79
3.2.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm:
82
3.3. Kết luận thực nghiệm:

83
Kết luận chƣơng 3
83
KẾT LUẬN
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
88
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, cả nước đang quan tâm đến vấn đề giáo dục, với mong muốn
nước ta sớm có được một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển
ngày càng cao của đất nước. Hơn nữa, phát triển nguồn nhân lực đang trở
thành đòi hỏi bức thiết hàng đầu trên chặng đường công nghiệp hóa hiện đại
hóa của đất nước.
Giáo dục tiểu học là bậc học “nền tảng” trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Vì giáo dục tiểu học không chỉ là giáo dục cho các em lĩnh hội tri thức
mà đòi hỏi phải giáo dục cho các em được phát triển toàn diện về đức, trí, thể,
mỹ…
Trong các môn học ở tiểu học thì môn toán là môn học giữ vai trò quan
trọng. Học toán giúp các em phát triển năng lực tư duy, khả năng diễn đạt,
ứng xử, giải quyết tình huống có vấn đề, tính kiên trì, bền bỉ, làm việc khoa
học, sáng tạo… Nội dung dạy học môn toán ở tiểu học là nhằm giúp cho học
sinh: có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học: các số tự nhiên, phân số,
số thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê
đơn giản; hình thành các kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có
nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống; bước đầu góp phần phát triển năng

lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý, diễn đạt chúng (nói và viết), rèn luyện
khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc
sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình
thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ
động, linh hoạt, sáng tạo. Trong đó, nội dung kiến thức về hình học khá
phong phú và trừu tượng. Dạy học các yếu tố hình học ở tiểu học vừa nhằm
cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về hình dạng, vị trí, kích
thước,QHHH của các vật trong không gian trong cuộc sống hàng ngày, vừa

2
để chuẩn bị cho học các môn học ở trường trung học cơ sở và các bậc học tiếp
theo.
Các ĐTHH, quan hệ hình học trong chương trình và sách giáo khoa
(SGK) môn Toán tiểu học được hình thành thông qua các hoạt động dựa trên
các đồ vật, mô hình và bằng trực giác. Đối với học sinh tiểu học, việc nhận
thức các (ĐTHH) và (QHHH) là khó và trừu tượng, vì vậy phải dựa trên các
họat động với các đồ vật qua đó giúp học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề
để chiếm lĩnh nội dung tri thức. Mặt khác, tư duy của học sinh tiểu học chủ
yếu còn mang tính cụ thể nên những tác động trực giác, sẽ làm cho các em
hứng thú hơn trong việc tìm tòi và phát hiện cái mới.
Một trong những yêu cầu đặt ra đối với giáo dục ở nước ta hiện nay là
phải thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh và nâng cao hiệu quả giảng dạy ở các cấp học. Ở Tiểu
học, yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học là nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Vì thế trong quá trình
dạy học, giáo viên phải không ngừng đổi mới phương pháp, vận dụng linh
hoạt, sáng tạo các phương pháp vào quá trình giảng dạy. Phương pháp trực
quan là một trong những phương pháp thường được giáo viên sử dụng trong
những giờ lên lớp. Vì khi hoạt động với đồ vật, mô hình trực quan sẽ giúp cho
học sinh Tiểu học dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những nội dung hình

học, đồng thời phát triển tư duy hình học, trí tưởng tượng không gian một
cách chắc chắn hơn.
Hiện nay, giáo viên đã chú trọng sử dụng phương pháp trực quan trong
quá trình dạy học của mình và không ngừng đổi mới. Tuy nhiên, vẫn còn bộ
phận giáo viên vẫn còn thói quen giảng giải rồi cung cấp luôn kiến thức mới
cho các em, nếu có sử dụng trực quan thì cũng mang tính hình thức, đối
phó… trong khi kiến thức hình học lại khá trừu tượng. Một trong những

3
nguyên nhân của thực trạng này là do sự hiểu biết của giáo viên về phương
pháp chưa thật đầy đủ. Vì vậy, khi áp dụng phương pháp trực quan vào quá
trình giảng dạy hầu hết còn thực hiện theo cảm tính, và chưa có kĩ thuật sử
dụng phương pháp đó. Chính vì vậy, việc vận dụng phương pháp trực quan
vào dạy học trở nên cứng nhắc, máy móc, thiếu sáng tạo dẫn đến chất lượng
của giờ học không đạt hiệu quả như mong muốn.
Do đó, vấn đề vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ đề
diện tích và thể tích ở Tiểu học sao cho phù hợp với nhận thức và tư duy của
học sinh là điều mà tôi quan tâm.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Vận dụng
phương pháp trực quan trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu
học”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cách vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ
đề diện tích và thể tích nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán
ở Tiểu học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về phương pháp trực quan để vận dụng vào
DH chủ đề diện tích và thể tích ở tiểu học;
- Nghiên cứu nội dung chương trình SGK Toán lớp 3,4,5, các yêu cầu cơ
bản về kiến thức và kĩ năng;

- Nghiên cứu cách vận dụng phương pháp trực quan nhằm phát huy tính
tích cực học tập cho học sinh;
- Tìm hiểu thực trạng nhận thức và vận dụng phương pháp trực quan
trong dạy học Toán ở trường Tiểu học làm cơ sở thực tiễn cho đề tài;
- Kiểm nghiệm tính khả thi của việc vận dụng phương pháp trực quan
trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở tiểu học.

4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu:
Vận dụng phương pháp trực quan vào dạy học chủ đề diện tích và thể
tích ở Tiểu học.
b. Phạm vi nghiên cứu:
+ Quá trình dạy học chủ đề diện tích và thể tích trong môn Toán ở các
lớp 3,4,5.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến phương
pháp trực quan trong dạy học ở trường tiểu học, nghiên cứu sách giáo khoa và
các tài liệu khác .
- Phương pháp điều tra: Thực hiện điều tra, phỏng vấn, dự giờ để quan
sát việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy học của giáo viên Tiểu học.
- Phương pháp thống kê: thống kê số liệu, phân tích kết quả điều tra thực
trạng và kết quả thực nghiệm.
- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo hướng đã
đề xuất để xem xét tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng phương pháp
trực quan vào dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học .
6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ đề diện tích và
thể tích ở Tiểu học một cách hợp lý thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học các chủ đề nói trên trong dạy học môn Toán ở các lớp 3,4,5.

7. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp
trực quan trong dạy toán ở tiểu học.
- Xây dựng được yêu cầu cơ bản khi vận dụng phương pháp trực quan
trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở tiểu học.

5
- Đề xuất được phương án thiết thực, khả thi khi vận dụng phương pháp
trực quan trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học.




















6

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Phƣơng pháp dạy học
1.1.1.1. Khái niệm:
Thuật ngữ “phương pháp” trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩa
là con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định.
Vấn đề phương pháp được đề cập sớm và khá nhiều trong Triết học,
trong đó có hướng tiếp cận của G.Hêghen (1770-1831) và C.Mác (1818-
1883). Cả hai hướng tiếp cận này đều rất có ý nghĩa cho việc lựa chọn và sử
dụng phương pháp, phương tiện trong dạy học.
Theo G.Hêghen: “ phương pháp là hình thức tự vận động bên trong
của nội dung” . Nghĩa là, mỗi sự vật đều có bản chất của nó và được thể hiện
qua những hình thức nhất định, hình thức không bao giờ tồn tại tách rời nội
dung và đồng thời nội dung cũng không tách rời hình thức vận động của nó.
Mỗi sự vật trong quá trình tồn tại đều gắn với một hình thức vận động đặc
trưng. Vận dụng cách tiếp cận về phương pháp của G.Hêghen vào dạy học
cho ta phương pháp luận rất quan trọng. Mỗi nội dung dạy học sẽ có một
phương pháp đặc thù mang lại hiệu quả cao nhất mà không thể thay thế bằng
các phương pháp khác. Do đó không thể nói rằng phương pháp dạy học này
tốt, PPDH kia không tốt mà cần phải xác định, với nội dung này thì PPDH
phù hợp với nó là gì? Cách tiếp cận của G.Hêghen cho thấy, muốn xác định
và sử dụng PPDH tối ưu, trước hết phải trả lời câu hỏi dạy cái gì? Sau đó mới
đến câu hỏi dạy như thế nào? Tức là cách dạy phải luôn phù hợp với nội dung

7
dạy học. Sự thay đổi nội dung sẽ dẫn đến thay đổi PPDH và hình thành
phương thức dạy học mới.
Cũng về vấn đề phương pháp, theo cách tiếp cận của C.Mác thì C.Mác

cho rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất
ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào với tư liệu lao động nào”.
Mỗi hoạt động đều có cấu trúc ba thành phần: chủ thể hoạt động; đối tượng và
tư liệu (phương tiện) lao động, trong đó, phương pháp và phương tiện là
thước đo trình độ lao động. Cách tiếp cận này của C.Mác cho ta thấy trong
dạy học, phương pháp có tính độc lập tương đối với nội dung và trình độ, hiệu
quả của hoạt động. Dạy học được quyết định bởi phương pháp và phương tiện
dạy học. Ngoài ra, đối với một nội dung dạy học sẽ có nhiều phương pháp để
triển khai, trong đó luôn có một phương pháp tốt nhất. Vì vậy, muốn đạt hiệu
quả cao trong dạy học phải trả lời được câu hỏi: phương pháp nào tối ưu nhất?
Phương tiện nào là tốt nhất trong quá trình chuyển tải nội dung bài dạy đến
với người học?
Lịch sử mấy chục năm gần đây nghiên cứu về vị trí vai trò của phương
pháp dạy học đã cho thấy PPDH có vai trò quan trọng to lớn, nó là một trong
những mắt xích quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy
học.
Trong các tài liệu về lí luận dạy học có nhiều quan niệm khác nhau về
PPDH, mỗi một quan niệm phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa
học, các nhà sư phạm về bản chất, khái niệm PPDH ở mỗi thời kì xác định.
* Theo quan điểm của nhà Triết học Anh P.Bêcơn (1561-1626) , ông đã
ví phương pháp như ngọn đèn lớn soi sáng cho con người đi trong đêm tối.
Ông nói rằng: người thọt mà đi đúng đường sẽ đến đích trước người khoẻ
chân mà chạy lạc đường.

8
* Quan điểm của các nhà giáo dục Việt Nam: Cũng như các nhà giáo
dục nước ngoài, các nhà giáo dục Việt Nam khi nghiên cứu về phương pháp
dạy học cũng đưa ra các định nghĩa, các quan điểm khác nhau:
- Theo TS. Nguyễn Văn Cường “Các PPDH theo nghĩa rộng là những
hình thức và cách thức hoạt động của GV và HS trong những điều kiện dạy

học xác định nhằm đạt mục tiêu dạy học”
- Theo PGS.TS Trần Kiều: “ Phương pháp dạy học là một hệ thống tác
động liên tục của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành
của học sinh để học sinh lĩnh hội vững chắc các thành phần của nội dung giáo
dục nhằm đạt được mục tiêu đã định.”
- Theo G.S Nguyễn Bá Kim: “PPDH là cách thức hoạt động và giao lưu
của thầy gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạt được
mục đích dạy học”
- Còn tác giả Lê Nguyên Long cho rằng PPDH là con đường, là cách thức,
là hoạt động phối hợp thống nhất giữa giáo viên và học sinh, do giáo viên tổ
chức và chỉ đạo, nhằm đạt tới mục đích dạy học- giáo dục xác định.
Qua một số quan điểm trên, ta thấy có nhiều quan điểm khác nhau về
phương pháp dạy học, song dù ở cấp độ nào thì các tác giả cũng cho ta thấy
được phương pháp giúp con người nhận thức được hiện thực khách quan và
đảm bảo chất lượng, hiệu quả của các hoạt động thực tiễn. không có phương
pháp, con người sẽ hoạt động không có hiệu quả. Trong dạy học càng cần
phải có phương pháp, vì phải làm cho học sinh tiếp thu kiến thức bằng con
đường ngắn nhất, với sự nỗ lực của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn giảng
dạy của giáo viên. Vì thế PPDH chính là hoạt động giao lưu giữa thầy và trò
nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.
PPDH không phải là một thực thể độc lập, tồn tại vì mục đích tự thân
mà chỉ là hình thức vận động của một hoạt động đặc thù: hoạt động dạy học.

9
Qua việc phân tích các quan niệm về PPDH, chúng tôi hiểu và quan niệm về
PPDH như sau: Phương pháp dạy học là cách thức ,là con đường tiến hành
các hoạt động của người dạy và người học nhằm thực hiện một nội dung dạy
học nhất định.
1.1.1.2. Đặc điểm của phƣơng pháp dạy học:
Để lựa chọn PPDH thích hợp đối với bài dạy học, giáo viên có thể dựa

vào các cơ sở sau đây:
* Căn cứ vào mục tiêu của bài dạy.
Mỗi bài, tuỳ theo mục tiêu, có thể được tiến hành bằng PPDH thích
hợp. Mỗi bài dạy thường có nhiều mục tiêu cụ thể. Ứng với một mục tiêu lại
được thực hiện bằng một hay một số PPDH nhất định.
* Căn cứ vào nội dung của bài dạy.
Về mặt nguyên tắc, đối tượng(nội dung) khác nhau thì phương pháp
tiếp cận cũng khác nhau. Đối tượng thay đổi thì phương pháp cũng phải thay
đổi. Do đó, không có PPDH nào thích hợp với tất cả mọi nội dung dạy học.
Vì vậy PPDH , phải căn cứ vào vị trí của từng bài trong logic cấu trúc của
chương trình, vào trọng tâm của từng bài, từng tiết, vào từng đơn vị kiến thức
trong bài học và mà lựa chọn PPDH khác nhau.
* Căn cứ vào các giai đoạn của quá trình nhận thức.
Quá trình nhận thức, về cơ bản thường có ba giai đoạn: “Tiếp nhận
thông tin” - “Xử lí thông tin”- “Vận dụng thông tin”. Mỗi giai đoạn có thể
tương ứng với những PPDH nhất định: phương pháp “nhập đề” vào bài khác
với triển khai các đơn vị kiến thức mới, củng cố, ôn tập, làm bài tập…
* Căn cứ vào đặc điểm đối tượng học sinh
Dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, dạy sát với đối
tượng, đảm bảo tính vừa sức cũng là một cơ sở để giáo viên lựa chọn PPDH
thích hợp. Điều này đòi hỏi giáo viên phải nắm vững trình độ, năng lực của

10
học sinh về kiến thức, kĩ năng; về đặc điểm tư duy, tâm- sinh lí lứa tuổi; về
vốn kiến thức thực tế tích luỹ trong cuộc sống; tập quán- thói quen của thành
phần dân tộc…. Chỉ trên cơ sở đó, giáo viên mới dự kiến sử dụng PPDH nào
để có thể kích thích được nhu cầu và hứng thú khám phá, tiếp nhận tri thức
của học sinh.
* Căn cứ vào hình thức tổ chức và phương tiện dạy học
Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà các giáo viên có thể sử dụng các

phương pháp dạy học khác nhau nhằm thực hiện mục đích dạy học đề ra.
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các thế
hệ máy tính mới đã ra đời, những quyển sách điện tử đang dần thay thế cho
những loại sách truyền thống, một số nhà trường ở nước ta cũng đã trang bị
các phương tiện dạy học hiện đại. Tất nhiên khi sử dụng các phương tiện này
trong dạy học (chẳng hạn như máy vi tính, máy chiếu, projector…) các giáo
viên phải thay đổi phương pháp dạy học của mình cho phù hợp và có hiệu
quả.
Bên cạnh đó, việc sử dụng các phương pháp dạy học còn phụ thuộc vào
các hình thức tổ chức dạy học. Nhìn chung, các phương pháp dạy học chỉ phát
huy tối đa ưu điểm của mình khi được sử dụng phối hợp với nhau một cách
hợp lý và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
* Căn cứ vào điều kiện vật chất của việc dạy học.
Đây là những yếu tố, tuy không quyết định, nhưng cũng có ảnh hưởng
nhất định đến việc lựa chọn PPDH. Chẳng hạn như: tài liệu, phương tiện( máy
tính, máy chiếu ), số lượng học sinh, thời gian, địa điểm…
* Căn cứ vào năng lực, kinh nghiệm của giáo viên
Việc lựa chọn phương pháp vừa có tính khách quan lại vừa có tính chủ
quan. Các nhà sư phạm đều có thể dễ dàng mô tả phương pháp dạy học trực quan
song sử dụng phương pháp này sao cho có hiệu quả quả tốt nhất, phần lớn phụ

11
thuộc vào năng lực, kinh nghiệm của mỗi người. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải
không ngừng nâng cao trình độ của mình để có thể phối hợp tối ưu các phương
pháp dạy học trong giảng dạy.
Lựa chọn PPDH nào , thì điều quan trọng nhất chính là ở chỗ PPDH đó
phải “Phát huy được tính tích cực, tự giác,chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”(Luật Giáo

dục.2005.Điều 28)
1.1.1.3. Hệ thống các phƣơng pháp dạy học:
Có nhiều cách phân loại các phương pháp dạy học. Đứng trên những
góc độ nhìn nhận khác nhau về phương pháp dạy học, các nhà giáo dục lại
đưa ra các cách phân loại phương pháp dạy học khác nhau. Chúng ta có thể
khái quát về hệ thống các phương pháp dạy học hiện nay như sau:
Theo các nhà giáo dục Việt Nam thì các tác giả đã đưa ra một vài cách
phân loại hệ thống các PPDH như sau:
* Dựa vào chức năng của PPDH, tác giả Đặng Vũ Hoạt đã chia hệ
thống PPDH thành các nhóm phương pháp:
+ Chức năng truyền thụ tri thức bằng ngôn ngữ (lời nói và chữ viết) là
chủ yếu ta có các phương pháp: phương pháp thuyết trình, phương pháp vấn
đáp, phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Chức năng truyền thụ tri thức dựa vào hình ảnh trực quan là chủ yếu
ta có: phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan.
+ Chức năng truyền thu tri thức thông qua hoạt động thực hành là chủ yếu
ta có: phương pháp làm thí nghiệm, phương pháp luyện tập, phương pháp ôn tập.
+ Kiểm tra, đánh giá với tư cách là phương pháp dạy học.

12
* Theo GS. Nguyễn Bá Kim việc phân loại hệ thống các phương pháp
dạy học như hiện nay là chưa hoàn chỉnh và chưa được thống nhất. Với những
phương diện khác nhau ta có những cách phân loại PPDH khác nhau, việc
phân loại PPDH theo một logic chặt chẽ là một việc làm không cần thiết, mà
vấn đề quan trọng là người GV có biết xem xét các phương diện khác nhau,
thấy được những PPDH về từng phương diện đó, để lựa chọn, sử dụng những
phương pháp cho đúng lúc, đúng chỗ và biết vận dụng phối hợp các phương
pháp trong các phương pháp đó khi cần thiết. Có thể trình bày các PPDH
theo các phương diện sau:
- Những chức năng điều hành quá trình dạy học (đảm bảo trình độ xuất phát,

hướng đích và gợi động cơ, làm việc với nội dung mới, củng cố, kiểm tra và
đánh giá, hướng dẫn công việc nhà)
+ Những con đường nhận thức (suy diễn, quy nạp)
+ Những hình thức hoạt động bên ngoài của thầy và trò (GV thuyết
trình; thầy - trò vấn đáp; HS hoạt động độc lập)
+ Những mức độ tìm tòi khám phá (truyền thụ tri thức dưới dạng có
sẵn, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề)
+ Những hình thức tổ chức dạy học: căn cứ vào số lượng HS trong
đơn vị học tập ta có các hình thức: dạy học theo lớp,dạy học theo nhóm, dạy
học từng cặp.
Mặt khác, trong quá trình dạy học tùy từng đối tượng HS khác nhau
mà người ta phân biệt dạy học đồng loạt với dạy học phân hoá. Dạy học phân
hoá lại được phân chia thành dạy học phân hoá nội tại (phân hoá trong) và
dạy học phân hoá về tổ chức (phân hoá ngoài).Trong các hình thức dạy học
phân hoá ngoài, ta có thể kể hoạt động ngoại khoá,lớp chuyên môn, nhóm HS
yếu kém

13
+ Những phương tiện dạy học (sử dụng phương tiện nghe nhìn, sử
dụng phương tiện chương trình hoá, làm việc với SGK, làm việc với bảng
treo, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông như công cụ dạy học).
+ Những tình huống dạy học điển hình: dạy học những khái niệm toán
học, dạy học những quy tắc, phương pháp; dạy học giải bài tập toán học.
+ Những hình thức tự học: đọc sách; tự tìm kiếm thông tin trong môi
trường công nghệ thông tin và truyền thông; học thầy, học bạn, học tập
chuyên gia.
Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhưng người ta vẫn
chưa thoả đáng về vấn đề phân loại PPDH.
1.1.2. Kĩ thuật dạy học
1.1.2.1. Khái niệm

Trong khi phương pháp dạy học được xem là cách thức hành động có
trình tự, phối hợp tương tác với nhau của giáo viên và của học sinh nhằm đạt
được mục đích dạy học thì kĩ thuật dạy học được hiểu như thế nào?
Theo Từ điển Giáo dục học thì “ Kĩ thuật dạy học là tổng thể các
phương pháp sư phạm của nhà giáo dùng để truyền thụ những kiến thức và
giúp cho phát triển nhân cách học sinh”.
Tác giả GS. Bernd Meier- TS Nguyễn Văn Cường thì cho rằng: “Kĩ
thuật dạy học là những biện pháp, cách thức, hành động của GV và HS trong
các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy
học”.
Từ các định nghĩa như trên chúng ta có thể hiểu: Kĩ thuật dạy học là
những thao tác, hành động của GV và HS trong các tình huống vận dụng
phương pháp dạy học cụ thể nhằm đạt được mục đích dạy học.
Các kĩ thuật dạy học chưa phải là PPDH độc lập mà chỉ là thành phần
nhỏ của PPDH, là đơn vị nhỏ nhất của PPDH. Việc GV nắm vững PPDH và

14
các kĩ thuật dạy học tương thích của các PPDH là một trong những điều kiện
quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học
đáp ứng với mục tiêu đề ra.
1.1.2.2 Hệ thống các kĩ thuật dạy học
Trong quá trình dạy học, với mỗi PPDH cụ thể có các kĩ thuật dạy học
( KTDH) đặc thù được sử dụng tương ứng, cũng có những kĩ thuật dạy học dùng
trong nhiều phương pháp khác nhau. Có nhiều các KTDH, theo các tài liệu về lí
luận dạy học trong nước hiện nay, có nhóm các KTDH như sau:
- Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Châu, PGS.TS Vũ Quốc Chung, TS
Nguyễn Thị Sơn có một số KTDH như: kĩ thuật luyện tập và thực hành, kĩ
thuật ôn tập, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật giao bài tập về nhà.
- Còn tác giả Phan Trọng Ngọ giới thiệu một số kĩ thuật dạy học như kĩ
thuật giải thích, kĩ thuật trình diễn, kĩ thuật sử dụng câu hỏi, kĩ thuật sử dụng

các phương tiện dạy học.
- Theo “Tài liệu Hội thảo tập huấn Phát triển năng lực thông qua
phương pháp và phương tiện dạy học mới” của GS.Bernd Meier- TS Nguyễn
Văn Cường còn có các kĩ thuật dạy học được sử dụng trong các PPDH theo
hướng tích cực như: kĩ thuật động não, kĩ thuật tia chớp,kĩ thuật lược đồ tư
duy, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật 635, kĩ thuật bể cá,…
Cũng như PPDH, KTDH là một khái niệm vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau trong việc đưa ra định nghĩa chính xác cũng như hệ thống phân
loại. Việc hệ thống hoá các KTDH như trên chỉ có tính chất tương đối, nhằm gợi
ra cho giáo viên có ý tưởng kết hợp nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau trong dạy
học. GV có thể chủ động lựa chọn và áp dụng những kĩ thuật dạy học thích hợp
nhất nhằm nâng cao chất lượng dạy học .
1.1.3. Phƣơng tiện dạy học
1.1.3.1. Khái niệm

15
Trong lý luận dạy học, vấn đề phương tiện dạy học(PTDH) cũng giống
như PPDH và KTDH còn nhiều tranh luận. Phần vì mỗi nhà lý luận lại có một
quan niệm riêng về vấn đề này, phần vì do có sự tác động nhanh chóng và
mạnh mẽ của khoa học công nghệ vào trong dạy học vì thế nó làm thay đổi
những quan niệm đã có.
Theo từ điển tiếng Việt ( Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội – Đà Nẵng
1997), thì Phƣơng tiện là: “ Cái dùng để làm một việc gì, để đạt được một
mục đích nào đó”
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, khái niệm PTDH được được hạn chế ở
những thiết bị có khả năng chứa đựng hoặc truyền tải những thông tin về nội
dung dạy học và về sự điều khiển quá trình dạy học. Mô hình, hình vẽ, SGK,
phiếu học tập, máy vi tính là những ví dụ về PTDH. Bàn, ghế, không phải
là PTDH theo đúng nghĩa này, bởi vì chúng không có khả năng chứa đựng
hay chuyển tải thông tin liên quan đến chương trình dạy học.

Tác giả Vũ Trọng Rỹ quan niệm: Thiết bị dạy học hay phương tiện dạy
học, đồ dùng dạy học là thuật ngữ chỉ một đối tượng vật chất hoặc một tập
hợp đối tượng vật chất mà người giáo viên sử dụng với tư cách là phương tiện
điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, còn đối với học sinh thì đó là
nguồn tri thức, là phương tiện giúp học sinh lĩnh hội các khái niệm, định luật,
thuyết khoa học, hình thành ở họ các kĩ năng, kĩ xảo đảm bảo việc thực hiện
mục tiêu dạy học.
“Phương tiện dạy học là những công cụ mà thầy giáo và học sinh sử
dụng trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu dạy học” – Thái Duy
Tuyên.
Theo Phan Trọng Ngọ: “Phương tiện dạy học là toàn bộ sự vật, hiện
tượng trong thế giới, tham gia vào quá trình dạy học, đóng vai trò là công cụ
hay điều kiện để giáo viên và học sinh sử dụng là khâu trung gian tác động

16
vào đối tượng dạy học. PTDH có chức năng khơi dậy, dẫn chuyền và làm tăng
sức mạnh tác động của người dạy và người học đến đối tượng dạy học”.
Qua một số quan niệm trên ta thấy các tác giả biểu đạt thuật ngữ PTDH
theo các cách khác nhau song đều có một quan điểm chung : là những công cụ
được sử dụng hỗ trợ giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi khái quát về PTDH như sau: PTDH
là những phương tiện vật chất cần thiết để giáo viên và học sinh sử dụng trong
quá trình dạy học nhằm đạt được mục đích dạy học.
1.1.3.2. Phương tiện dạy học
Như đã nêu ở trên, PTDH đóng vai trò là công cụ, là điều kiện để giáo
viên và học sinh sử dụng trong hoạt động dạy học.
Phương tiện dạy học bao gồm các mô hình , tranh ảnh, dụng cụ, băng đĩa ghi
âm, ghi hình, phần mềm dạy học(PMDH), máy tính, máy chiếu
Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát tiển mạnh mẽ, có nhiều PTDH
mới ra đời. Việc ứng dụng hay tích hợp các ứng dụng của công nghệ thông tin

nhằm hỗ trợ cho việc dạy học có hiệu quả hơn rất nhiều so với việc sử sụng
các PTDH truyền thống như : tranh ảnh, thí nghiệm Các PTDH mới này có
rất nhiều tên gọi khác nhau như: Bài học điện tử, thiết bị điện tử, PTDH ảo
Để đạt được mục đích dạy học, việc vận dụng các phương pháp dạy
học không thể tách rời việc sử dụng các phương tiện dạy học, trong đó có các
phương tiện trực quan(PTTQ). Do đó khi nói đến phương pháp dạy học là nói
đến PTTQ và cách sử dụng nó trong các khâu của quá trình dạy học.
1.1.3.3. Phương tiện trực quan
Để có hình ảnh trực quan về sự vật, một mặt cần có sự hoạt động của
con người; mặt khác sự vật ấy phải tác động phù hợp với cơ quan cảm giác và
nằm trong vùng ngưỡng của nó. Tuy nhiên, hoạt động nhận thức của con
người nói chung, trong dạy học nói riêng không phải bao giờ và lúc nào chủ

17
thể cũng tác động trực tiếp nên đối tượng nhận thức( đối tượng học tập);
không phải bao giờ đối tượng nhận thức cũng xuất hiện trong khả năng cảm
nhận của các giác quan của chủ thể. Trong trường hợp các sự vật quá nhỏ
( nguyên tử, điện tử, vi sinh vật), hoặc những chuyển động có bước sóng quá
ngắn( sóng , ánh sáng, siêu âm) hoặc các vật thể ở quá xa với tri giác mắt của
con người thì con người không thể trực tiếp cảm nhận được chúng. Khi đó,
chủ thể nhận thức phải dựa vào các phương tiện trung gian, thông qua các
phương tiện này mà chủ thể có được hình ảnh trực quan về đối tượng. Các
phương tiện trung gian có chức năng làm cho các giác quan của chủ thể được
“ mở rộng” và “ nối dài” hơn, tạo điều kiện cho con người nhận thức được sâu
sắc và đầy đủ về thế giới khách quan.
Như vậy trong trường hợp con người không thể “ đến tận nơi ” để sờ
mó đối tượng hoặc tiếp xúc đối tượng rất tốn kém, ta có thể sử dụng vật thay
thế cho đối tượng như tranh ảnh, mô hình, sơ đồ để diễn tả và biểu diễn
chúng. Những phương tiện như vậy có thể gọi chung là “ phương tiện trực
quan” trong nhận thức.

Trong dạy học có nhiều cách để tạo ra hình ảnh và biểu tượng trực
quan, người giáo viên có thể sử dụng những kinh nghiệm đã được hình thành
trong quá trình sống của HS; trong trường hợp khác người giáo viên có thể sử
dụng những lời nói giàu hình ảnh để giúp người học sử dụng các biểu tượng
đã có mà hình thành các biểu tượng mới.
Phương tiện trực quan là những phương tiện được sử dụng
trong hoạt động dạy học, có vai trò là công cụ để giáo viên và học sinh tác
động vào đối tượng; có chức năng khơi dậy, dẫn chuyền, tăng cường khả năng
hoạt động của các giác quan, góp phần tạo nên chất liệu cảm tính của đối
tượng nhận thức nhằm đạt được các mục đích dạy học cụ thể.
1.1.4. Phƣơng pháp trực quan

18
1.1.4.1. Khái niệm
Phương pháp dạy học trực quan là một PPDH được nhiều tác giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Theo Đặng Thành Hưng, trong mười hai hệ
thống PPDH hiện tại, PPDH trực quan xếp vào “ hệ thống có lịch sử lâu dài
nhất nhưng đến nay vẫn ngự trị trong trường phổ thông”(tr 13)
Vì được nghiên cứu và sử dụng trong nhiều hoàn cảnh và điều kiện khác
nhau nên PPDH trực quan lại có nhiều cách hiểu và tên gọi khác nhau. Theo
tác giả Đặng Thành Hưng thì nhóm các phương pháp dạy học trực quan bao
gồm: Thị phạm( biểu diễn, làm mẫu, cho xem phim, tranh ảnh, biểu đồ); quan
sát độc lập( quan sát thí nghiệm, theo dõi tình huống); thăm quan( nội khóa và
ngoại khóa). Các tác giả Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức; Hà thế Ngữ, Đặng
Vũ Hoạt thì cho rằng phương pháp trực quan bao gồm phương pháp trình bày
trực quan và phương pháp quan sát. Còn tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng,
PPDH trực quan bao gồm các phương pháp minh họa, biểu diễn thí nghiệm và
quan sát.
Khái quát hóa các nghiên cứu về PPDH trực quan cho ta thấy: có hai quan
niệm khác nhau về PPDH trực quan.

Quan niệm thứ nhất coi PPDHTQ là phương pháp trình bày các phương
tiện trực quan của GV và PP của HS quan sát các PTTQ đó. Khi GV trình bày
các PTTQ để minh họa tri thức thì HS theo dõi, quan sát việc trình diễn các
PTTQ của GV một cách tích cực, nhằm thu hút được nhiều hình ảnh về
chúng. Ngày nay đã có nhiều đổi mới về kĩ thuật, giới thiệu, trình bày PTTQ
của GV và các yêu cầu đối với HS khi quan sát nhưng về cơ bản sự phối hợp
giữa quan sát của HS với trình bày trực quan có kết hợp với ngôn ngữ của GV
vẫn là đặc trưng cơ bản của PPTQ theo quan niệm này.
Quan niệm thứ hai về phương pháp dạy học trực quan (PPDHTQ) gắn
liền với triết học biện chứng và tâm lý học hiện đại về nhận thức. Xuất phát từ

×