Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh trong việc rèn kĩ năng đáp lời (Phân môn tập làm văn) cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
***





LÊ THỊ MINH HUYỀN




VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỘI THOẠI, TÍCH HỢP
GIÁO DỤC NẾP SỐNG THANH LỊCH - VĂN MINH
TRONG VIỆC RÈN KĨ NĂNG ĐÁP LỜI
(PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN) CHO HỌC SINH LỚP 2



Chuyên ngành: Giáo dục học (bậc Tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Anh Xuân




HÀ NỘI, 2012

MỤC LỤC
MỤC LỤC VÀ BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề hội thoại 2
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh
cho học sinh Thủ đô 3
2.3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề dạy - học phân môn Tập làm văn trong
trường Tiểu học 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
3.1. Đối tượng nghiên cứu 6
3.2. Phạm vi nghiên cứu 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4.1. Mục đích nghiên cứu 6
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại 7
5.2. Phương pháp phân tích tổng hợp 7
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu 7
5.4. Phương pháp thực nghiệm 7
6. Giả thuyết khoa học 8
7. Bố cục luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 9
1.1. Cơ sở lí luận 9
1.1.1. Lí thuyết hội thoại 9
1.1.2. Cơ sở Tâm lí học 15

1.1.3. Nội dung chương trình Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh cho
học sinh lớp 1, 2 liên quan đến kĩ năng Đáp lời 17
1.2. Cơ sở thực tiễn 18
1.2.1. Thực trạng dạy - học kĩ năng Đáp lời trong phân môn Tập làm văn
lớp 2 hiện nay 18
1.2.2. Thực trạng về tình hình giáo dục đạo đức, nhân cách của học sinh
trong nhà trường 20
Chƣơng 2. VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỘI THOẠI, TÍCH HỢP GIÁO
DỤC NẾP SỐNG THANH LỊCH - VĂN MINH NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ RÈN KĨ NĂNG ĐÁP LỜI (PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN)
CHO HỌC SINH LỚP 2 24
2.1. Các bài Tập làm văn liên quan đến kĩ năng Đáp lời 24
2.1.1. Mục tiêu của việc dạy học các bài Tập làm văn liên quan đến kĩ năng
Đáp lời 24
2.1.2. Các dạng bài dạy liên quan đến việc rèn kĩ năng Đáp lời 25
2.2. Vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục nếp sống thanh lịch -
văn minh vào việc rèn kĩ năng Đáp lời đóng trong phân môn Tập làm văn
cho HS lớp 2 27
2.2.1. Yêu cầu cần đạt của kĩ năng Đáp lời đóng 27
2.2.2. Vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục nếp sống thanh lịch -
văn minh nhằm nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng Đáp lời đóng trong phân
môn Tập làm văn cho học sinh lớp 2 27
2.3. Vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục nếp sống thanh lịch -
văn minh vào việc rèn kĩ năng Đáp lời mở trong phân môn Tập làm văn
cho học sinh lớp 2 40
2.3.1. Yêu cầu cần đạt của kĩ năng Đáp lời mở 40
2.3.2. Vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục nếp sống thanh lịch -
văn minh nhằm nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng Đáp lời mở trong phân môn
Tập làm văn cho học sinh lớp 2 41
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 52

3.1. Một số vấn đề chung 52
3.1.1. Mục đích thực nghiệm 52
3.1.2. Nội dung thực nghiệm 52
3.1.3. Cơ sở và đối tượng thực nghiệm 86
3.1.4. Thời gian và quy trình thực nghiệm 86
3.2. Tiến trình triển khai thực nghiệm 87
3.3. Kết quả thực nghiệm 87
3.3.1. Kết quả định tính (qua điều tra quan sát và phiếu hỏi) 87
3.3.2. Kết quả định lượng (qua các bài kiểm tra) 88
3.3.3. Nhận xét chung 89
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 91
I. Kết luận 91
II. Kiến nghị 92
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 94
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC

BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. Tập làm văn
2. Hội thoại
3. Giáo viên
4. Học sinh
5. Sách giáo khoa
6. Ví dụ
7. Thực nghiệm
8. Đối chứng




TLV
HT
GV
HS
SGK
VD
TN
ĐC

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Quan điểm giao tiếp hay quan điểm phát triển lời nói là một trong
những nguyên tắc, phương hướng xây dựng chương trình môn Tiếng Việt cải
cách giáo dục ở Tiểu học. Sự phát triển mạnh mẽ của Ngữ dụng học trong
những năm gần đây đã đặt giao tiếp và hội thoại (HT) vào một vị thế mới.
Trong chương trình môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học, HT gắn với tình
huống giao tiếp của Ngữ dụng học đã trở thành một nội dung học tập. Phân
môn Tập làm văn (TLV) là phân môn duy nhất rèn kĩ năng này cho học sinh
(HS) Tiểu học.
1.2. Mục tiêu của chương trình TLV lớp 2 thực chất là thông qua các bài
tập thực hành tổng hợp về Tiếng Việt, giúp HS củng cố, bổ sung kiến thức
(ngôn ngữ, đời sống), rèn luyện kĩ năng (nói - viết), qua đó nâng cao năng lực
tư duy, giáo dục tư tưởng, tình cảm và mĩ cảm cho các em. Yêu cầu của tiết
TLV lớp 2 mới dừng ở mức độ: bước đầu cho HS làm quen với việc tạo lập
văn bản (nói - viết) qua từng công đoạn, từ các yêu cầu đơn giản như nhắc lại
lời của người trong tranh , sắp xếp lại thứ tự tranh vẽ hoặc tình huống theo
nội dung câu chuyện đã học cho đến quan sát tranh trả lời câu hỏi. Còn việc
nói hay viết một đoạn văn theo đề tài nhất định dựa vào hệ thống câu hỏi gợi
ý cho trước là nhằm chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở lớp 3 và chuẩn bị

cho yêu cầu học TLV với quy trình đầy đủ ở lớp 4, 5. Chương trình TLV ở
lớp 2 có 31 tiết TLV (1 tiết/1 tuần) trên tổng số 35 tuần học. Trong 4 tuần ôn
tập giữa học kì I và giữa học kì II, cuối học kì I và cuối học kì II (mỗi tuần 10
tiết) cũng có nhiều bài tập thuộc phân môn TLV. Khi HS học phân môn TLV,
các em sẽ được rèn luyện cả 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Ở hầu hết các nội
dung, HS đều được rèn luyện cả hình thức nói và viết, thường là tập nói trước,
tập viết sau. Riêng học kì II có nhiều tiết HS được rèn về kĩ năng Đáp lời -
một nghi thức lời nói quan trọng và phổ biến của cuộc sống, gắn với HT trong
những tình huống giao tiếp cụ thể.
1.3. Thanh lịch văn minh là nét đẹp truyền thống đã được nhiều thế hệ
người dân Hà Nội tạo nên và lưu giữ. Trân trọng, kế thừa và phát huy nét đẹp
ấy trong đời sống người Hà Nội hôm nay và mai sau là trách nhiệm, là niềm

2
tự hào và vinh dự của người dân Thủ đô, trong đó có thế hệ trẻ đang ngồi trên
ghế nhà trường. Bắt đầu từ năm học 2010 - 2011, chương trình Giáo dục nếp
sống thanh lịch văn minh cho HS Hà Nội đã được đưa vào giảng dạy trong
các trường Phổ thông của thành phố Hà Nội. Những nội dung của chương
trình Giáo dục nếp sống thanh lịch văn minh có mối liên hệ chặt chẽ với lí
thuyết HT nói chung và việc rèn kĩ năng Đáp lời (phân môn TLV) của HS lớp
2 nói riêng.
1.4. Việc đưa Giáo dục nếp sống thanh lịch văn minh và rèn kĩ năng
Đáp lời vào chương trình học của HS lớp 2 đã tạo ra những thay đổi quan
trọng trong nhận thức cũng như nội dung phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ và
dạy ngoại ngữ. Tuy nhiên do hiểu biết về lí thuyết Ngữ dụng học nói chung và
lí thuyết HT nói riêng của giáo viên (GV) tiểu học còn hạn chế, kinh nghiệm
của GV còn ít ỏi cho nên nhiều GV còn gặp khó khăn khi muốn dạy hiệu quả
dạng bài rèn kĩ năng Đáp lời sao cho vừa đúng quy tắc HT vừa thanh lịch -
văn minh.
Đó chính là những lí do cơ bản khiến chúng tôi chọn đề tài Vận dụng lí

thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh trong
việc rèn kĩ năng Đáp lời ( phân môn Tập làm văn) cho học sinh lớp 2.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề hội thoại
Hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ, vì vậy lí thuyết HT là một
phần không thể thiếu của Ngữ dụng học. Từ năm 1970, HT trở thành đối
tượng chính thức của một phân ngành Ngôn ngữ học, ngành phân tích HT.
Cho đến nay thì Ngôn ngữ học của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam đều bàn đến HT.
Trong cuốn Đại cương Ngôn ngữ học - tập 2 Ngữ dụng học, tác giả Đỗ
Hữu Châu đã giải thích: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường
xuyên, phổ biến trong sự hành chức của ngôn ngữ.” Lí thuyết HT là lĩnh vực
nghiên cứu cuối cùng của ngôn ngữ học quan tâm đến các diễn ngôn trong
hoạt động, trong hoàn cảnh giao tiếp. Chính vì vậy, nghiên cứu HT phải vận
dụng tổng hòa những tri thức về cấu trúc ngôn ngữ, những tri thức ngữ dụng
và cả những tri thức xã hội học, tâm lí học, văn hóa học. Mặt khác qua nghiên

3
cứu HT, chúng ta mới có được hiểu biết đầy đủ, toàn diện tất cả những thành
tố tạo nên ngôn ngữ và những thành phần nằm trong lĩnh vực Ngữ dụng học
vốn từng được xem xét riêng rẽ trước đây.
Ở cuốn Dụng học Việt ngữ, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã trình bày
những vấn đề của lí thuyết HT bằng những dẫn chứng sinh động cụ thế, bằng
sự sáng rõ trong phân tích, mạch lạc trong cách trình bày. Trong cuốn sách
này, tác giả cũng không quên đề cập đến mối liên quan giữa văn hóa và ngôn
ngữ để từ đó xác định lí thuyết HT nên đi theo hướng nào để phát hiện và để
khai thác các nhân tố văn hóa có thể có. Song làm thế nào để vận dụng được lí
thuyết HT vào dạy học các môn Tiếng Việt cho HS tiểu học để các em có thể
giao tiếp một cách có văn hóa, thanh lịch? Đó là nội dung cuốn sách này chưa
bàn đến.

Ngoài hai công trình đó còn có rất nhiều công trình nghiên cứu có tính
dẫn luận về Ngữ dụng học nói chung và lí thuyết HT nói riêng như:
- Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Đỗ Hữu Châu (2002), Giáo trình giản yếu về Ngữ dụng học, Nhà xuất
bản Giáo dục.
- Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình Ngữ dụng học, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Một ngành khoa học mới bao giờ cũng có một hệ thống thuật ngữ mới.
Tác giả của các công trình này đã có những cố gắng đáng kể đưa khái niệm nền
tảng của Ngữ dụng học đến với đông đảo bạn đọc. Bên cạnh đó, họ đã không
quên đề cập đến văn hóa và ngôn ngữ, hình thành cho mọi người một cái nhìn
tổng thể để từ đó xác định rõ khi nghiên cứu Ngữ dụng học cần đi theo hướng
nào để phát hiện, khai thác các nhân tố văn hóa có thể có. Các công trình này
đều mang tính ứng dụng cao, có tác dụng thúc đẩy Ngữ dụng học ở Việt Nam
phát triển mạnh hơn, cố gắng tiến kịp với Ngữ dụng học thế giới.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn
minh cho học sinh Thủ đô
Nhân kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, bên cạnh những công
trình lớn được xây dựng để chào mừng Đại lễ kỉ niệm, thực trạng văn hóa
giao tiếp, ứng xử, nếp sống văn minh của người Hà Nội là mối quan tâm của

4
các nhà quản lý, nhà giáo dục và của toàn xã hội. Thực tế, Hà Nội chưa có
chương trình, tài liệu chính thức nào giáo dục Nếp sống thanh lịch - văn minh
cho HS. Vì vậy, thực hiện Chương trình 08-CT ngày 04/8/2006 của Thành ủy
Hà Nội, Kế hoạch số 55/KH-UBND ngày 29/9/2006 của UBND Thành phố
Hà Nội về “Phát triển văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh,
thiết thực kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội”; căn cứ ý kiến chỉ đạo
UBND Thành phố tại văn bản số 1319/VX-KG&VX ngày 03/6/2009, Sở
Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Nhà xuất bản Hà Nội xây dựng Đề án biên

soạn Bộ tài liệu “Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh” để đưa vào giảng
dạy cho HS các trường phổ thông ở Hà Nội.
Bộ tài liệu biên soạn cho từng cấp bao gồm tài liệu dành cho HS và tài
liệu hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên (GV). Cách biên soạn bộ tài liệu đảm
bảo tính đồng tâm, phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông và không
làm quá tải chương trình. Nội dung của bộ tài liệu đã khơi dậy được trong các
em niềm tự hào, mong muốn kế thừa truyền thống thanh lịch, văn minh, nét
đẹp văn hóa đặc trưng của người Hà Nội. Bộ tài liệu cũng tuyên truyền trách
nhiệm của HS Thủ đô trong việc xây dựng nếp sống thanh lịch, văn minh; tạo
sự chuyển biến từng bước về nhận thức và hành vi trong sinh hoạt đời sống
hằng ngày; từ đó góp phần đào tạo, xây dựng các thế hệ người Hà Nội ngày
càng thanh lịch, văn minh để xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, tươi
đẹp.
Bên cạnh đó, còn có thể kể ra rất nhiều tài liệu nghiên cứu về Nếp sống
thanh lịch, văn minh như:
- Nguyễn Viết Chức (Chủ biên) (2001), Nếp sống người Hà Nội, Viện
Văn hóa và nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Hoàng Đạo Thúy (2010), Nét văn hóa thanh lịch của người Hà Nội,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
- Thái Hà (2009), Bé học ứng xử văn minh, Nhà xuất bản Thời đại.
- Giang Quân (2010), Văn hóa gia đình người Hà Nội, Nhà xuất bản
Thời đại.
Nhưng tất cả các tài liệu kể trên mới nói về cách ứng xử trong gia đình,
ngoài xã hội sao cho thanh lịch, văn minh. Hiện nay chưa có bất kì một tài
liệu nào nghiên cứu về vấn đề Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh cho

5
HS Thủ đô và càng không có tài liệu nào nghiên cứu về cách tích hợp giáo
dục nếp sống thanh lịch - văn minh vào việc dạy các môn học trong nhà
trường.

2.3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề dạy - học phân môn Tập làm văn
trong trường Tiểu học
Về phân môn TLV trong trường Tiểu học đã có rất nhiều tác giả nghiên
cứu và thể hiện rõ quan điểm của mình qua các công trình nghiên cứu như
Nguyễn Trí, Lê Phương Nga, Nguyễn Minh Thuyết.
Tác giả Nguyễn Trí trong một công trình cùng đồng tác giả Lê Phương
Nga cuốn Phương pháp dạy học Tiếng Việt đã thể hiện chiến lược dạy học
Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp. Đó là hướng đi đúng, có cơ sở khoa học
vững chắc song tác giả chưa đi sâu vào vấn đề dạy TLV, đặc biệt là kĩ năng
Đáp lời.
Trong một cuốn khác - Một số vấn đề dạy Tiếng Việt theo quan điểm
giao tiếp ở Tiểu học - tác giả Nguyễn Trí đã đưa ra được quy trình dạy TLV có
vận dụng lí thuyết HT. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu lí
luận, giới thiệu kinh nghiệm ban đầu chứ chưa có được những hướng dẫn cụ
thể về việc rèn kĩ năng Đáp lời - một phần quan trọng của kĩ năng nói - trong
phân môn TLV.
Còn ở cuốn Một số vấn đề dạy hội thoại cho học sinh tiểu học, tác giả
Nguyễn Trí đã đưa ra quan điểm dùng thực hành giao tiếp để hình thành các
kĩ năng nói trong dạy TLV. Tuy vậy, tác giả mới đưa ra được các bước triển
khai trao lời đáp bằng nghi thức lời nói phù hợp chứ chưa đưa ra được cách
đáp lời sao cho văn minh, lịch sự.
Với cuốn Hỏi - Đáp về dạy Tiếng Việt 2, tác giả Nguyễn Minh Thuyết
đã phân tích được nhiệm vụ chính của môn TLV, mối quan hệ giữa TLV với
các loại bài học khác trong Tiếng Việt đồng thời tập trung giúp người đọc thấy
được mức độ yêu cầu và các dạng bài TLV ở trường Tiểu học. Tuy nhiên
chương trình TLV hiện nay đã một số thay đổi với những dạng bài và mức độ
yêu cầu cũng phát triển hơn nên nhận định của tác giả cũng bị hạn chế.
Những công trình nghiên cứu trên tuy chưa bàn đến một cách cụ thể
những vấn đề mà luận văn quan tâm. Song đó là những gợi ý cần thiết định


6
hướng cho việc nghiên cứu luận văn Vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp
giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh trong việc rèn kĩ năng Đáp lời
(phân môn Tập làm văn) cho học sinh lớp 2.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc vận dụng lí thuyết HT, tích
hợp nội dung giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh vào việc rèn kĩ năng
Đáp lời (phân môn TLV) cho HS lớp 2.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Các bài TLV dạy kĩ năng Đáp lời
cho HS lớp 2 có liên quan đến HT và có thể tích hợp với nội dung giáo dục
nếp sống thanh lịch - văn minh.
Giới hạn phạm vi thực nghiệm: Việc thực nghiệm (TN) được thực hiện
tại trường Tiểu học Kim Đồng - Quận Ba Đình (nội thành Hà Nội) và trường
Tiểu học Cầu Diễn - Huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa lí thuyết HT và nội dung giáo dục
nếp sống thanh lịch - văn minh với việc rèn kĩ năng Đáp lời trong phân môn
TLV lớp 2.
- Làm rõ sự cần thiết phải vận dụng lí thuyết HT, tích hợp giáo dục nếp
sống thanh lịch - văn minh vào việc rèn kĩ năng Đáp lời (phân môn TLV) cho
HS lớp 2.
- Làm rõ hiệu quả của việc vận dụng lí thuyết HT, tích hợp giáo dục
nếp sống thanh lịch - văn minh khi rèn kĩ năng Đáp lời (phân môn TLV) cho
HS lớp 2.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về lí thuyết Ngữ dụng học (lí thuyết HT)


7
- Nghiên cứu về đặc điểm tâm lí và ngôn ngữ lứa tuổi (lớp 2).
- Nghiên cứu về chương trình sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy, thực tế
việc dạy học rèn kĩ năng Đáp lời trong phân môn TLV lớp 2.
- Thực nghiệm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp thống kê, phân loại được sử dụng để thống kê, phân loại
các bài TLV trong chương trình, các phiếu điều tra, bài kiểm tra của HS để rút
ra những kết luận cần thiết của luận văn.
5.2. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này được vận dụng khi nghiên cứu phân tích các tài liệu
về lí thuyết HT, các tài liệu liên quan đến nội dung chương trình Giáo dục nếp
sống thanh lịch - văn minh cho HS Hà Nội, các tài liệu về tâm lí lứa tuổi, đặc
điểm ngôn ngữ của HS Tiểu học, các tài liệu về chương trình, sách giáo khoa
(SGK), phương pháp dạy học, đặc biệt tài liệu về đổi mới phương pháp rèn kĩ
năng Đáp lời để tìm ra cơ sở khoa học về HT và xác định những tiền đề tâm lí
cho việc rèn kĩ năng Đáp lời theo hướng vận dụng lí thuyết HT, tích hợp giáo
dục nếp sống thanh lịch - văn minh.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Sau khi phân loại, cần tiến hành so sánh, đối chiếu các bài trong
chương trình để tìm ra điểm giống và khác nhau, phần kiến thức nào hay, mở
rộng, có ích cho việc thu nhận kiến thức của HS.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp này vận dụng trong quá trình quan sát, dự giờ, tìm hiểu để
nắm bắt tình hình rèn kĩ năng Đáp lời (phân môn TLV) ở trường Tiểu học bao
gồm hoạt động dạy học, chất lượng dạy học, xu thế dạy học để rút ra được
những nhận định về thực trạng cũng như hướng phát triển của phương pháp
rèn kĩ năng Đáp lời (phân môn TLV) cho HS lớp 2 hiện nay.


8
Phương pháp này cũng vận dụng trong việc định hướng thiết kế các bài
dạy kĩ năng Đáp lời (phân môn TLV) vận dụng theo lí thuyết HT, tích hợp giáo
dục nếp sống thanh lịch - văn minh; hướng dẫn GV thực hiện mô hình thiết kế,
quy trình hoạt động, chọn và tổ chức dạy TN ở trường Tiểu học có đối chứng
(ĐC); tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả (bằng phiếu điều tra, bài kiểm tra) của
HS cả trước và sau quá trình học tập có so sánh với lớp ĐC.
6. Giả thuyết khoa học
Đề tài thực hiện thành công sẽ giúp HS rèn kĩ năng Đáp lời phù hợp
với hoàn cảnh giao tiếp sao cho thanh lịch - văn minh từ đó có ý thức rèn kĩ
năng Đáp lời phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp; yêu thích phân môn TLV, yêu
thích bộ môn Tiếng Việt và hình thành tình yêu tiếng mẹ đẻ, tình yêu nét đẹp
thanh lịch, văn minh trong giao tiếp ứng xử của người HS Thủ đô.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Vận dụng lí thuyết hội thoại, tích hợp giáo dục nếp sống
thanh lịch - văn minh nhằm nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng Đáp lời (phân
môn Tập làm văn) cho học sinh lớp 2
Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm





9
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Lí thuyết hội thoại
1.1.1.1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ,
nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác [7; tr.201].
1.1.1.2. Đơn vị hội thoại
Các đơn vị HT gồm: cuộc thoại, đoạn thoại và cặp thoại (lưỡng thoại);
tham thoại và hành vi ngôn ngữ (đơn thoại). Liên quan đến đề tài này là các
đơn vị lưỡng thoại.
Cuộc thoại
Cuộc thoại là đơn vị lớn nhất của HT. Cuộc thoại là sản phẩm của tình
huống HT. Cuộc thoại giải quyết vấn đề đặt ra trong tình huống HT.
Các tiêu chí để nhận diện một cuộc HT là: nhân vật HT; tính thống nhất về
thời gian, địa điểm; về đề tài diễn ngôn; về ranh giới của cuộc thoại.
Ví dụ (VD): Đoạn đối thoại của mẹ Sơn và Nam trong Bài tập 3 (Tiết
TLV: Đáp lời chào, lời tự giới thiệu - sách Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 12) là một cuộc
thoại.
Đoạn thoại
Về nguyên tắc, có thể định nghĩa “đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do
một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ
dụng”. [7; tr.313]. Về ngữ nghĩa đó là sự liên kết chủ đề.
Cấu trúc tổng quát của một cuộc HT có thể là: đoạn thoại mở thoại, các
đoạn thân thoại và đoạn thoại kết thúc.

10
Đoạn thoại mở thoại phần lớn là công thức hoá, có tác dụng mở ra mối
quan hệ giữa các nhân vật. Người mở thoại thường tránh sự xúc phạm đến thể
diện của người nghe, chuẩn bị một “hoà khí” cho cuộc thoại.
VD: Đoạn thoại mở đầu trong Bài tập 3 (Tiết TLV Đáp lời chào, lời tự giới
thiệu - sách Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 12) như sau:
- Mẹ Sơn: Chào cháu.

- Nam: Cháu chào cô ạ.
Các đoạn thân thoại có thể gồm một vài đoạn thoại để phát triển nội dung
đề tài cuộc thoại.
VD: Đoạn thoại kế tiếp trong Bài tập 3 (Tiết TLV Đáp lời chào, lời tự
giới thiệu - sách Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 12) là đoạn thân thoại:
- Mẹ Sơn: Cháu cho cô hỏi đây có phải nhà bạn Nam không?
- Nam: Vâng ạ, cháu là Nam đây! Cô hỏi gì cháu ạ?
- Mẹ Sơn: Tốt quá. Cô là mẹ bạn Sơn đây.
- Nam: Thế ạ.
- Mẹ Sơn: Sơn bị sốt. Cô nhờ cháu chuyển giúp cô đơn xin phép cho Sơn
nghỉ học.
- Nam: Vâng ạ. Cháu sẽ chuyển.
Đoạn thoại kết thúc có chức năng đóng cuộc thoại.
Cặp thoại
Một cặp thoại tối thiểu chỉ gồm một lời trao (lời dẫn nhập) và một lời
đáp (lời hồi đáp). Đó là cặp thoại điển hình sau:
- Mẹ Sơn: Cháu cho cô hỏi đây có phải nhà bạn Nam không?
- Nam: Vâng ạ, cháu là Nam đây! Cô hỏi gì cháu ạ?
Quy luật thông thường là trao gì, đáp nấy. Tuy vậy cũng có trường hợp
có cặp thoại chỉ có lời trao mà không có lời đáp mà thay thế vào đó là hành
động cụ thể.
VD: Trong đoạn thoại trên, sau khi Nam nhận mình đúng là người mẹ
Sơn cần tìm thì mẹ Sơn có thể gật đầu đưa luôn cho Nam lá đơn xin phép
nghỉ ốm của Sơn.

11
1.1.1.3. Quy tắc hội thoại
Quy tắc HT là những quy tắc bất thành văn nhưng được xã hội chấp
nhận và những người tham gia HT phải tuân theo khi thực hiện các vận động
HT để cho cuộc thoại vận động như mong muốn.

Các quy tắc HT:
Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời:
Một cuộc HT phải có người nói và người nghe. Người nói có người
nghe và ngược lại. Khi có hai người HT, người kia phải nói khi người này
nhường lời cho anh ta theo cách lời người này kế tiếp lời người kia, không có
sự dẫm đạp lên lời của nhau. Không thể vì vội mà cả hai cùng tranh nhau nói,
như vậy sẽ không đạt được hiệu quả giao tiếp.
Các lượt lời có thể được một người điều khiển phân phối hoặc do các
nhân vật HT tự thương lượng một cách không tường minh với nhau. Người nói
nên biết kết thúc lượt lời của mình đúng lúc để nhường lời cho người khác thì
mới tỏ ra là người biết trò chuyện lịch sự và là người nói chuyện có duyên.
Tránh tình trạng nói quá dài, quá lâu sẽ làm cho người nghe sốt ruột và sẽ ngắt
lời, hoặc vì lịch sự, họ lơ đãng, không còn chú ý đến những điều mà bạn đang
nói.
Dấu hiệu của sự kết thúc lượt lời là sự trọn vẹn về ý, sự trọn vẹn về cú
pháp, ngữ điệu, các câu hỏi, các tiểu từ tình thái cuối câu “nhé”, “nghen” …
VD: Đoạn đối thoại trong phần a của Bài tập 2 (Tiết TLV Đáp lời đồng ý -
sách Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 66):
- Hương cho tớ mượn cái tẩy nhé.
- Ừ.
- Cảm ơn cậu nhé.
Qui tắc chi phối cấu trúc HT
Một cuộc HT không phải là sự lắp ghép ngẫu nhiên, tùy tiện các phát
ngôn, các hành động ngôn ngữ. Các phát ngôn, các hành động ngôn ngữ trong
một cuộc HT phải liên kết với nhau. Nguyên tắc này không chỉ chi phối các
ngôn bản đơn thoại mà chi phối cả các lời tạo thành một cuộc HT. Nếu giữa
các lời của các nhân vật HT không có liên kết thì một “cuộc HT giữa những
người điếc” sẽ xảy ra, trong đó “ông nói gà, bà nói vịt”.

12

Tính liên kết HT thể hiện trong lòng một phát ngôn, giữa các phát
ngôn, giữa các hành động ngôn ngữ, giữa các đơn vị HT ở cả hai phương diện
nội dung và hình thức.
Qui tắc điều hành nội dung hội thoại
Cuộc HT nào cũng có nội dung. Các nội dung này lại được thể hiện
trong nội dung các lượt lời. Sự phát triển của nội dung HT để đạt đến đích của
cuộc HT phụ thuộc rất nhiều vào nội dung các lượt lời. Quy tắc luân phiên
lượt lời bảo đảm sự kế tiếp các lượt lời về mặt hình thức để sự phát triển HT
được liên tục và hợp lí. Còn quy tắc điều hành nội dung HT sẽ điều hành quan
hệ và nội dung giữa các lượt lời. Sự điều hành này đòi hỏi mỗi người tham gia
HT phải đảm bảo hai yêu cầu: Lời nói của họ phải phù hợp với đề tài và nội
dung cuộc thoại ở thời điểm họ tham gia; lời nói của họ phải phù hợp với đích
của HT.
Vì vậy người tham gia HT phải thực hiện bốn phương châm sau:
- Phương châm về lượng: Phương châm này đòi hỏi lời nói phải có nội
dung. Không nên nói quá ít hoặc quá nhiều những điều không đúng với đích
cuộc thoại. Nếu nói quá nhiều sẽ làm người nghe mệt mỏi dẫn đến lơ đãng,
không còn chú ý đến cuộc thoại.
- Phương châm về chất: Phương châm này khuyên người nói: Hãy nói
những điều anh tin rằng đúng hoặc có bằng chứng xác thực. Không nên nói
những điều không có căn cứ chắc chắn, mình không tin lắm. Khi có vấn đề gì
đó chưa rõ, chưa xác định thì nên có sự tìm hiểu, kiểm tra lại thông tin hoặc
tra cứu lại cẩn thận.
- Phương châm về cách thức: Nên nói một cách rõ ràng, mạch lạc, có
hệ thống và có tính lôgic chặt chẽ để người nghe dễ nhận ra ý mà người nói
định nói. Tránh lời nói mập mờ, tối nghĩa, gây sự hiểu lầm.
- Phương châm về quan hệ (còn gọi là phương châm quan yếu): Cần
trình bày sao cho câu chuyện của bạn có quan hệ với câu chuyện đang diễn ra.
Qui tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại - phép lịch sự
Theo cách hiểu thông thường, lịch sự có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là có

thái độ nhã nhặn, lễ độ khi tiếp xúc, phù hợp với quan niệm và phép tắc xã
giao của xã hội, VD: nói năng lịch sự. Nghĩa thứ hai là đẹp một cách sang

13
trọng và trang nhã, VD: ăn mặc lịch sự. Trong hai nghĩa trên, nghĩa thứ nhất
gắn với các hoạt động giao tiếp, hội thoại. [34; tr.189]
Theo các nhà Ngữ dụng học, lịch sự là một qui tắc quan trọng của lí
thuyết HT liên quan đến phương diện liên cá nhân trong các cuộc giao tiếp,
trò chuyện. Quan hệ liên cá nhân trong HT luôn được duy trì hay phát triển
theo hướng lợi ích các bên tham gia HT được hài hòa hay bị tổn thất.
Lịch sự có liên quan đến thể diện những người tham gia HT. Theo cách
hiểu thông thường, thể diện là những cái làm cho người ta coi trọng mình khi
tiếp xúc (nói tổng quát), VD: giữ thể diện cho gia đình. [34; tr.189]
Nói đến qui tắc lịch sự trong HT là nói đến hành vi đe dọa thể diện hay
tôn vinh thể diện. Trong giao tiếp, HT, hầu hết các hành vi ngôn ngữ đều tiềm
ẩn khả năng làm tổn hại đến các thể diện kể trên. Lịch sự trong giao tiếp đòi
hỏi khi giao tiếp, các đối tác cần giữ thể diện cho mình và cho người. Khi có
hành vi ở lời hoặc hoạt động nào có nguy cơ làm mất thể diện của đối tác thì
cần có hành vi cứu vãn thể diện. Hoạt động cứu vãn thể diện là “tất cả những
điều mà một người phải làm để nhằm làm sao cho hành động của anh ta
không làm mất thể diện cho ai, kể cả thể diện của chính mình.” (Goffman).
Phép lịch sự trong HT có quan hệ mật thiết với đặc thù văn hóa từng
dân tộc. VD: Người phương tây, khi giao tiếp, cấm kị việc hỏi tuổi (nhất là
với phụ nữ). Với người phương đông thì ngược lại. Hỏi tuổi chứng tỏ sự
quan tâm tới người đối thoại với mình.
Phép lịch sự trong HT liên quan đến đức tính khiêm tốn. Tuy nhiên
không phải lúc nào khiêm tốn cũng là lịch sự. Tự khen mình quá hoặc tự chê
mình quá lời… cũng đều là không lịch sự vì đó đều là cách đề cao cái tôi, đều
thiếu khiêm tốn do đó thiếu lịch sự.
1.1.1.4. Các vận động hội thoại

Trong bất cứ cuộc HT nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao lời, trao
đáp và tương tác.
Vận động trao lời: là vận động mà Sp1 nói lượt lời của mình ra và
hướng lượt lời của mình về phía Sp2 nhằm làm cho Sp2 nhận biết được rằng
lượt lời được nói ra là dành cho mình.

14
Trong lời trao, sự có mặt của Sp1 là điều tất yếu. Sự có mặt của Sp1 thể
hiện ở từ xưng hô ngôi thứ nhất, ở tình cảm, thái độ, hiểu biết, ở quan điểm
của Sp1 trong nội dung lượt lời trao; ở dấu hiệu bổ sung cho lời nói (điệu bộ,
cử chỉ gãi đầu, vỗ ngực, đập bàn…)
Sự có mặt của Sp2 thể hiện qua những yếu tố ngôn ngữ tường minh
như lời hô gọi, chỉ định, những lời thưa gửi và các từ nhân xưng ngôi thứ 2;
những yếu tố hàm ẩn như những tiền giả định giao tiếp, những biểu hiện mà
Sp1 và Sp2 đã có chung; ở hứng thú hoặc tâm trạng của Sp2 mà Sp1 đã nhận
biết trước khi trao lời.
Vận động trao đáp: là vận động mà khi Sp2 đáp lời Sp1, có sự lần lượt
thay đổi vai nói, vai nghe giữa các nhân vật giao tiếp là trao đáp. Chỉ khi Sp2
hồi đáp lại lượt lời của Sp1 thì mới thực sự có vận động trao đáp, HT mới
chính thức được hình thành.
Sự hồi đáp có thể bằng các hành động ngôn ngữ tương thích với hành
động dẫn nhập lập thành cặp như hỏi - trả lời, chào - chào, cầu khiến - nhận
lời…; cũng có thể được thực hiện bằng những hành động bất kì, không tương
thích với hành động dẫn nhập.
Ngay cả những hành động tự thân không đòi hỏi sự hồi đáp như hành
động cảm thán vẫn cần được hồi đáp.
Vận động tương tác: là kết quả sự phối hợp của các nhân vật giao tiếp
trong suốt quá trình diễn ra cuộc thoại. Các nhân vật sẽ tác động qua lại lẫn
nhau, làm biến đổi lẫn nhau.
Trước khi HT, giữa các thoại nhân có sự khác biệt đối lập, thậm chí trái

ngược nhau về các mặt (hiểu biết, tâm lí, tình cảm…).
Trong HT và qua HT, khoảng giao nhau giữa các mặt của người đối
thoại mở rộng dần và một cuộc HT thành công là cuộc thoại mà sau đó sự
khác biệt nói trên bị mất đi (dĩ nhiên có những cuộc HT không thành công,
khoảng bất đồng vẫn y nguyên, thậm chí còn mở rộng ra).
Trong HT, một lời nói bị chấm dứt khi người kia không tỏ ra chú ý đến
nội dung của nó, lảng xa nó. Lúc này người nói phải tìm cách hòa phối lại
cuộc HT bằng cách kéo đối phương trở lại câu chuyện và khi thấy rằng đã kéo
lại được rồi thì cần khởi động lại câu chuyện.

15
Tương tác là một kiểu quan hệ xã hội giữa người với người. Hễ có một
hoạt động xã hội thì có sự tương tác. Tương tác bằng lời chỉ là một trong
những dạng tương tác giữa người với người. Có tương tác bằng lời mà cũng
có tương tác không bằng lời. Giữa tương tác bằng lời và tương tác không
bằng lời có những yếu tố đồng nhất: đầu tiên là khái niệm lượt lời. Trong HT,
điều quan trọng là người trong cuộc phải tuân theo những quy tắc nhất định
thì mới có sự phân chia “lượt”. Nếu người này nói tranh phần của người kia
(cướp lời người khác) thì gọi là vi phạm “lượt lời”, còn nếu cả hai người đối
thoại tranh nhau nói hoặc ngắt quãng không chịu nói thì dẫn tới sự “trật khớp”
về lượt. Ngoài ra giữa tương tác bằng lời và tương tác không bằng lời còn có
sự đồng nhất về cặp khái niệm kế cận được điều khiển bởi quy tắc giữ sự cân
bằng trong tương tác.
Cuối cùng, trong tương tác còn có những cặp trao đáp củng cố và sửa
chữa. Trao đáp củng cố nhằm thiết lập hay làm vững chắc quan hệ giữa người
trong cuộc để cuộc tương tác đạt hiệu quả. Khi chúng ta xúc phạm hoặc cho
rằng mình xúc phạm đến người cùng tham gia vào một hoạt động xã hội với
mình, chúng ta thực hiện cặp trao đáp sửa chữa. Sự sửa chữa có thể bằng lời:
xin lỗi, tỏ ra ân hận, mà cũng có thể không bằng lời: cười, đưa quà tặng, tự
tay sửa chữa lại cái mình làm hỏng

Ba vận động: trao lời, trao đáp và tương tác là ba vận động đặc trưng
cho một cuộc thoại. Những quy tắc, cấu trúc và chức năng trong HT đều bắt
nguồn từ ba vận động trên, chủ yếu là vận động tương tác.
Trong thực tế, khi rèn kĩ năng Đáp lời ở phân môn TLV lớp 2, có
trường hợp HS không chịu nói lời đáp (im lặng) hoặc nếu bắt buộc phải đáp
lời thì đọc lại lời đáp mẫu trong sách.
1.1.2. Cơ sở Tâm lí học
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lí của lứa tuổi học sinh lớp 2
Ở mỗi độ tuổi khác nhau, việc tiếp nhận tiếng mẹ đẻ của trẻ em đều
chịu sự chi phối của sự phát triển tâm sinh lí. Dạy Tiếng Việt nói chung, dạy
TLV nói riêng, chúng ta phải chú ý đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi để từ đó tìm
ra phương hướng, biện pháp giảng dạy thích hợp.

16
Đối với HS ở độ tuổi 7 - 8, tư duy, cách suy nghĩ mang tính chất cảm
tính, hình tượng cụ thể. Tuy nhiên, HS lớp 2 đã có một bước phát triển cao
hơn về tư duy - đánh dấu sự nhảy vọt về tâm lí. Các em đã bước đầu suy nghĩ
một cách trừu tượng và khái quát hơn.
Nhưng trong cùng một lớp học, một trường, cùng một độ tuổi nhưng sự
phát triển tâm lí ở từng HS có sự phát triển không đồng đều. Ngoài ra với HS
tiểu học, đặc biệt là HS lớp 2 thường tiếp nhận đối tượng bằng những hình ảnh
cảm tính, những biểu tượng cụ thể. Bên cạnh đó còn có quy luật tâm lí: càng
nhiều cơ quan cảm giác tham gia vào việc tiếp nhận đối tượng thì đối tượng ấy
càng khắc sâu trong trí nhớ một cách bền vững. Chương trình TLV ở tiểu học
nói chung và ở lớp 2 nói riêng đã bước đầu chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi để xây dựng nội dung, cấu trúc chương trình.
Vì vậy để có phương pháp dạy đúng đắn, khoa học, phù hợp với trình
độ của HS và bài giảng có sức cuốn hút, người GV cũng cần nắm chắc những
đặc điểm tâm lí nổi bật của lứa tuổi. Như vậy, việc dạy - học TLV sẽ đạt
được kết quả tốt như mong muốn.

1.1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của lứa tuổi học sinh lớp 2
Khi bước chân đến trường Tiểu học, hầu hết trẻ đã có ngôn ngữ nói
thành thạo. Các em đã biết diễn đạt bằng lời nói những suy nghĩ của mình
cũng như có thể thông hiểu ngôn ngữ nói của người khác.
Vốn từ của HS lớp 2 tăng lên rất nhiều do được học nhiều môn học,
phạm vi tiếp xúc được mở rộng. Không chỉ là số lượng từ mà việc hiểu ý
nghĩa khái quát của từ cũng phát triển ở trẻ. Trẻ ngày càng dùng từ chính xác
hơn, hợp văn cảnh hơn. Có thể nói, ngôn ngữ của HS lớp 2 phát triển ở cả ba
mặt: ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng. Nhờ có ngôn ngữ viết, trẻ có khả năng tự
học mà không cần sự giúp đỡ trực tiếp của GV. Ngôn ngữ phát triển đã trở
thành điều kiện cho các quá trình nhận thức của trẻ tiểu học phát triển mạnh.
Tư duy, tưởng tượng chỉ có thể mang tính khái quát và trừu tượng khi dựa
trên phương tiện ngôn ngữ. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho HS là nhiệm
vụ cực kì quan trọng của GV và nhà trường Tiểu học. Trong quá trình dạy
học, GV cần chú ý: chuẩn xác trong phát âm, tìm biện pháp làm giàu vốn từ
cho trẻ, rèn luyện ngôn ngữ nói, viết cho các em ngay từ lớp 1, uốn nắn kịp
thời những sai sót trong ngôn ngữ của HS, đặc biệt là những thói quen như

17
nói ngọng, nói lắp, nói trống không,… Muốn vậy bản thân GV phải có ngôn ngữ
chuẩn mực, trong sáng, ngữ điệu phù hợp khi dạy học - giao tiếp với các em.
1.1.3. Nội dung chương trình Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn
minh cho học sinh lớp 1, 2 liên quan đến kĩ năng Đáp lời
Chương trình Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh cho HS Thủ đô
tập trung vào 5 nội dung chính:
Nội dung 1: Khái niệm thanh lịch - văn minh
Nội dung 2: Phong cách thanh lịch - văn minh
Nội dung 3: Giao tiếp thanh lịch - văn minh
Nội dung 4: Ứng xử thanh lịch - văn minh nơi công cộng
Nội dung 5: Ứng xử thanh lịch - văn minh với thiên nhiên, môi trường

Với những nội dung trên thì ở lớp 1 và lớp 2 tập trung chỉ dẫn hành vi
cá nhân cụ thể về ăn, mặc, nghe, nói, cử chỉ cơ bản. Các nội dung đề cập ở
mức độ sơ đẳng nhất, chỉ nêu hiện tượng đúng sai để HS nhận thức từ đó làm
theo cái đúng mà không cần giải thích phân tích kĩ. Trong những nội dung
trên, ở chương trình Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh của lớp 1và lớp
2 chỉ có những bài sau liên quan đến kĩ năng Đáp lời:

Lớp
Bài
Tên bài
Lớp 1
Bài 1
Em hỏi và trả lời

Bài 2
Lời chào

Bài 3
Bữa ăn trong gia đình

Bài 4
Bữa ăn bán trú
Lớp 2
Bài 1
Ý kiến của em

Bài 2
Tôn trọng người nghe

Bài 3

Bữa ăn cùng khách

Bài 4
Sinh nhật bạn


18
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng dạy - học kĩ năng Đáp lời trong phân môn Tập làm
văn lớp 2 hiện nay
1.2.1.1. Qua dự giờ
Chúng tôi đã dự giờ TLV dạy học kĩ năng Đáp lời: Đáp lời cảm ơn
(Tuần 21); Đáp lời đồng ý (Tuần 25); Đáp lời chia vui (Tuần 28); Đáp lời an
ủi (Tuần 33) ở hai trường Tiểu học Kim Đồng - Quận Ba Đình (nội thành Hà
Nội) và Tiểu học Cầu Diễn - Huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội) trong năm
học 2011 - 2012. Các vấn đề chúng tôi tập trung theo dõi trong các tiết dự giờ
là: Quy trình dạy học TLV, kĩ năng Đáp lời của HS, mối liên hệ giữa nội dung
bài học và nội dung chương trình nếp sống thanh lịch - văn minh đã được học,
giữa HS với GV, giữa HS với HS. Nói chung cách thức dạy học đã có những
chuyển biến theo hướng tăng cường hoạt động của HS. Người GV khi dạy kĩ
năng Đáp lời trong giờ TLV nhìn chung đã biết tổ chức cho HS tham gia vào
hoạt động giao tiếp trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể nhưng chưa biết uốn nắn
cho HS khi đáp lời có sai sót. Một đặc điểm tâm lí khá phổ biến của GV khi
dạy TLV là rất ngại dạy kĩ năng nói, mà kĩ năng Đáp lời đòi hỏi HS phải nói
rất nhiều. Điều này có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan
trọng là GV chưa được trang bị đầy đủ những vấn đề lí thuyết về HT đủ để
rèn luyện cho các em hiệu quả. Cho đến tận bây giờ, những vấn đề mang tính
lí thuyết thực sự khoa học chứ không phải là những vấn đề lí thuyết của sự
đúc kết kinh nghiệm giảng dạy cũng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Ngoài
ra, vốn sống, vốn hiểu biết của các em về thanh lịch - văn minh còn chưa

nhiều, đa số HS còn nhút nhát chưa có thói quen hoạt động độc lập. Chính vì
vậy, trong phần rèn kĩ năng Đáp lời của phân môn TLV lớp 2, nhiều HS chưa
thể vận dụng vốn ngôn ngữ, kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt để mạnh dạn, tự
tin trình bày ý kiến của mình và thực hành đáp lời theo tiêu chí thanh lịch -
văn minh đã được học ở chương trình Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn
minh. Ngoài ra, đôi khi GV còn áp đặt coi hoạt động đáp lời là một cuộc hỏi
đáp trong đó GV là người hỏi, HS là người trả lời. Vì vậy, người học thụ động
không quan tâm đến việc vận dụng những nghi thức lời nói ấy ở ngoài đời
thường ra sao nên việc dạy chúng trở nên hình thức và sáo rỗng.

19
1.2.1.2. Qua phiếu hỏi
Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát 50 HS và 4 cô giáo ở hai trường:
Tiểu học Kim Đồng - Quận Ba Đình (nội thành Hà Nội) và Tiểu học Cầu
Diễn - Huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội) trong năm học 2011 - 2012 theo
phiếu hỏi. Nội dung phiếu hỏi (Phụ lục 1 - Phiếu 1) dành cho HS gồm 5 câu
hỏi tập trung khảo sát xem có những hoạt động nào diễn ra, HS chú ý của vào
vấn đề nào khi học các bài rèn kĩ năng Đáp lời và đặc biệt khảo sát sự hiểu
biết của các em về nội dung Nếp sống thanh lịch - văn minh có liên quan đến
kĩ năng Đáp lời đó trong tiết TLV. Kết quả là rất ít HS lựa chọn câu đáp án c
của câu hỏi 1, 4, 5 là những câu nhằm khai thác hiểu biết về hoạt động HT
trong giờ TLV của HS. Đối với câu hỏi 2, 3 có rất nhiều em đã lựa chọn đáp
án b. Điều đó cho thấy HS vẫn còn thụ động chưa có nhu cầu giao tiếp và
không muốn giao tiếp trong khi học TLV.
Đối với người dạy, chúng tôi khảo sát mối quan tâm của họ đối với
hiệu quả của việc rèn kĩ năng Đáp lời cũng như hiểu biết của họ về nội dung
giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh có liên quan và khảo sát xem họ
thường gặp khó khăn gì cũng như họ có những mong muốn nào khi dạy nội
dung Đáp lời trong các giờ TLV ở lớp 2 (Phụ lục 1 - Phiếu 2). Kết quả là đa
số GV đã lựa chọn đáp án a cho câu hỏi 1, 2, 4, 5. Ở câu hỏi 3 thì hầu hết GV

đều lựa chọn đáp án c. Như thế chứng tỏ ngay cả người dạy cũng không chú ý
lắm đến việc dạy cho HS đáp lời sao cho đúng (quy tắc HT), cho hay (Nếp
sống thanh lịch - văn minh) mà chỉ quan tâm xem HS của mình đã biết cách
đáp lời chưa để dạy.
1.2.1.3. Nhận xét
Từ kết quả khảo sát, chúng tôi khẳng định việc rèn kĩ năng Đáp lời cho
HS sao cho đúng quy tắc HT và thanh lịch - văn minh rất được chú trọng
trong môn TLV lớp 2. Dạy để các em có kĩ năng Đáp lời đúng và thanh lịch -
văn minh là tâm điểm chú ý, là nơi để người GV chứng tỏ năng lực sư phạm
của mình. Và trong thực tế giảng dạy cũng như qua các tiết dự giờ, chúng tôi
nhận thấy việc rèn kĩ năng Đáp lời trong phân môn TLV lớp 2 vẫn còn tồn tại
một số nhược điểm:
Nhược điểm thứ nhất là: Người dạy coi việc dạy kĩ năng Đáp lời là một
cuộc hỏi - đáp. Ở đó người GV xuất hiện với tư cách người hỏi, còn HS là
người trả lời. Ở đó, người GV không quan tâm đến hứng thú và sự chú ý của

20
HS với những điều mình hỏi, cũng không quan tâm cách đáp lời của HS như
thế nào, có đúng quy tắc HT không và đã thanh lịch - văn minh chưa? Kiểu
dạy này khiến cho HS dễ dàng đáp lời theo khuôn mẫu sẵn có, không cần
tham gia luyện tập vào các tình huống đáp lời trong đời thường là có thể hoàn
thành bài tập. Hoạt động chủ yếu của HS là nghe và trả lời. HS sẽ nghe những
điều thầy hỏi và chỉ việc nói theo. Cách “dạy” này không đúng với quan điểm
dạy học trong giao tiếp.
Nhược điểm thứ hai là: Người dạy coi việc rèn kĩ năng Đáp lời là việc
làm bài tập. Khi đó, người GV giao bài tập cho HS viết các câu đáp lời của
mình vào vở. Lúc này, cuộc đáp lời không diễn ra và vì vậy người học không
được rèn luyện kĩ năng Đáp lời trong HT để biết đáp lời sao cho thanh lịch -
văn minh.
Thêm nữa, do tác động của “phong trào” đổi mới phương pháp dạy học

theo hướng tăng cường hoạt động của HS, đòi hỏi người GV phải biết sử
dụng thiết bị dạy học và biết ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy nên
dù có rất nhiều ưu điểm thì thiết bị dạy học cũng cần được sử dụng hợp lí. Bởi
vì, mặt mạnh của kĩ năng Đáp lời là phản xạ và cảm xúc từ tình huống thực tế
chứ không phải cứng nhắc áp dụng một công thức giống nhau trong các tình
huống tương tự.
Từ thực tế trên, chúng tôi thấy yêu cầu đặt ra cho việc rèn kĩ năng Đáp
lời (phân môn TLV) là đi sâu nghiên cứu hơn nữa các kĩ năng Đáp lời để xác
định các thao tác, xây dựng các đề bài gắn với tình huống đáp lời, tổ chức các
tiết TLV để người học thấy hứng thú, có nhu cầu đáp lời một cách có văn hóa
và tích hợp được với chương trình Giáo dục nếp sống thanh lịch - văn minh
đã được học, để từ đó vận dụng có hiệu quả trong cuộc sống.
1.2.2. Thực trạng về tình hình giáo dục đạo đức, nhân cách của học
sinh trong nhà trường
1.2.2.1. Qua khảo sát
Ngày 1/8/2008, ngành Giáo dục và đào tạo Hà Nội chính thức triển
khai thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện Hà Nội được mở rộng địa giới hành
chính. Cùng với sự phát triển của Thủ đô, quy mô mạng lưới trường lớp của
Giáo dục và đào tạo Hà Nội cũng được mở rộng, phân bổ từ thành phố đến
các huyện vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, sự hợp nhất mặt bằng chất lượng và

×