Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Đánh giá sự tham gia của cộng đồng trong chương trình xây dựng nông thôn mới tại xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 86 trang )


®¹I häc Th¸I nguyªn
Tr−êng ®¹i häc n«ng l©m





LÝ THỊ MINH



Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CHƯƠNG
TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ THÔNG NGUYÊN,
HUYỆN HOÀNG SU PHÌ, TỈNH HÀ GIANG



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế và PTNT
Khóa học : 2010 - 2014







Th¸i Nguyªn, 2014

®¹I häc Th¸I nguyªn
Tr−êng ®¹i häc n«ng l©m




LÝ THỊ MINH



Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CHƯƠNG
TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ THÔNG NGUYÊN,
HUYỆN HOÀNG SU PHÌ, TỈNH HÀ GIANG



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế và PTNT
Khóa học : 2010 - 2014


Giảng viên hướng dẫn: Th.S. Nguyễn Thị Giang
Khoa Kinh tế & PTNT - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên




Th¸i Nguyªn, 2014
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi. Số liệu và
kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được sử dụng trong bất cứ một học
vị nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ để thực hiện đề tài đều đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong đề tài đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả đề tài


Lý Thị Minh












LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này trước tiên em xin chân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu Nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn,
cảm ơn các thầy cô giáo đã truyền đạt cho em những kiến thức quý giá trong
suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Em đặc biệt xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, sự quan tâm
sâu sắc của cô giáo Th.S Nguyễn Thị Giang đã giúp đỡ em trong suốt thời
gian thực tập để em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân xã Thông Nguyên
cũng như toàn bộ người dân trong xã đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho em trong quá trình thực tập, điều tra và nghiên cứu tại địa phương.
Cuối cùng em xin bày tỏ sự biết ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã
luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập.
Trong quá trình nghiên cứu do có những lý do chủ quan và khách quan
nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để
em có thể hoàn thành khóa luận được tốt hơn!

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014
Sinh viên


Lý Thị Minh



DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất của xã Thông Nguyên 28
Bảng 4.2: Một số chỉ tiêu kinh tế xã Thông Nguyên năm 2013 31
Bảng 4.3: Thành phần và cấu dân tộc của xã Thông Nguyên năm 2013 34
Bảng 4.4: Tình hình biến động nhân khẩu, lao động của xã Thông Nguyên từ
năm 2011 - 2013 35
Bảng 4.5: Kết quả phát triển kinh tế xã Thông Nguyên Error! Bookmark not
defined.
Bảng 4.6: Hiểu biết của người dân về chương trình xây dựng nông thôn mới
tại xã Thông Nguyên 39
Bảng 4.7: Những công việc của người dân khi tham gia vào chương trình xây
dựng nông thôn mới 46
Bảng 4.8: Sự tham gia của người dân trong việc thảo luận chiến lược phát
triển thôn, bản 48
Bảng 4.9: Sự tham gia của người dân trong việc lập kế hoạch 50
Bảng 4.10: Danh sách đóng góp tài sản và công lao động vào xây dựng đường
giao thông nông thôn tại thôn Làng Giang 53
Bảng 4.11: Danh sách đóng góp tài sản và công lao động vào xây dựng đường
giao thông nông thôn tại thôn Phìn Hồ 54
Bảng 4.12: Người dân tham gia tập huấn và ứng dụng kỹ thuật trong sản xuất,
một lớp tập huấn tại thôn Làng Giang, Bản Giàng, Phìn Hồ, Giàng Hạ
56
Bảng 4.13: Giá trị đóng góp của cộng đồng người dân cho xây dựng đường
giao thông nông thôn mới xã Thông Nguyên năm 2013 58








DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BPTNT : Ban phát triển nông thôn
BQ : Bình quân
CC : Cơ cấu
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CT : Chương trình
CSXH : Chính sách xã hội
GPMB : Giải phóng mặt bằng
HTX : Hợp tác xã
NN : Nông nghiệp
NQ/TW : Nghị quyết Trung ương
PTNT : Phát triển nông thôn
MTQG : Mục tiêu quốc gia
QĐ- TTg : Quyết định thủ tướng
NTM : Nông thôn mới
UBND : Ủy ban nhân dân







MỤC LỤC

Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1. Mục tiêu chung 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài 4
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 4
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất 4
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
2.1. Cơ sở khoa học lý luận 5
2.1.1. Khái niệm Nông thôn và phát triển nông thôn 5
2.1.2. Nông thôn mới 6
2.1.3. Một số điều kiện và tiêu chí xây dựng nông thôn mới 7
2.1.3.2. Một số tiêu chí để xây dựng mô hình nông thôn mới. 7
2.1.4. Khái niệm cộng đồng 8
2.1.5. Nội lực cộng đồng và vai trò của cộng đồng trong phát triển nông
thôn 9
2.1.5.1. Khái niệm về nội lực, nguồn lực cộng đồng 9
2.1.5.2. Vai trò của cộng đồng trong phát triển nông thôn. 10
2.1.5.3. Phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng 11
2.1.6. Lý luận về sự tham gia và các chỉ tiêu xác định sự tham gia của cộng
đồng trong xây dựng nông thôn mới. 12
2.1.6.1. Lý luận về sự tham gia 12
2.1.6.2. Các yêu tố xác định sự tham gia trong PTNT 14
2.1.6.3. Các hình thức tham gia 15
2.1.6.4. Mức độ tham gia 16
2.2. Cơ sở thực tiễn 16
2.2.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về tăng cường sự tham
gia của người dân trong phát triển nông thôn. 16
2.2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 16
2.2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 18
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

22
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 22
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 22
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 22
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 22
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 22
3.2.2. Thời gia n nghiên cứu 22
3.3. Nội dung nghiên cứu 22
3.4. Phương pháp nghiên cứu 22
3.4.1. Phương pháp thu thập thông tin 22
3.4.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 24
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 25
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 25
4.1.1.1. Vị trí đại lý của xã 25
4.1.1.2. Đất đai, địa hình 25
4.1.1.3. Khí hậu, thời tiết, thủy văn 26
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và lao động 31
4.1.2.1. Hiện trạng kinh tế 31
4.1.2.2. Tình hình dân số - lao động 33
4.2. Đánh giá sự tham gia của cộng đồng trong chương trình xây dựng nông
thôn mới tại xã Thông Nguyên 38
4.2.1. Sự hiểu biết của người dân trong chương trình xây dựng nông thôn
mới tại xã Thông Nguyên 38
4.2.2. Thực trạng xây dựng nông thôn mới tại xã Thông Nguyên 40
4.2.2.1. Mức độ đạt các tiêu chí nông thôn mới của xã Thông Nguyên 40
4.2.2.2. Đánh giá chung sau 3 năm triển khai chương trình xây dựng
NTM tại xã Thông Nguyên 44
4.2.3. Sự tham gia của cộng đồng trong chương trình xây dựng nông thôn
mới tại xã Thông Nguyên 46

4.2.3.1. Những công việc của cộng đồng khi tham gia vào chương trình
xây dựng nông thôn mới tại xã Thông Nguyên 46
4.2.3.2. Sự tham gia của cộng đồng trong một số hoạt động đã thực hiện
trong chương trình nông thôn mới tại xã Thông Nguyên 52
4.2.4. Đánh giá chung về sự tham gia của cộng đồng trong chương trình xây
dựng nông thôn mới tại xã Thông Nguyên 59
4.2.4.1. Mặt đạt được 59
4.2.4.2. Mặt chưa đạt được 59
4.3. Những khó khăn và trở ngại ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng
trong chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Thông Nguyên 60
4.4. Một số giải pháp để thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong chương
trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Thông Nguyên 62
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 65
5.1. Kết luận 65
5.2. Kiến nghị 66
5.2.1. Đối với các cấp chính quyền 66
5.2.2. Đối với người dân nông thôn 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68






1

Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Xây dựng nông thôn mới (NTM) là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết 26 - NQ/TW ngày 05 tháng 08
năm 2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông
thôn, nông dân. Thực hiện Nghị quyết 26, Thủ tướng chính phủ đã ban hành
quyết định số 800/QĐ - TTg ngày 04 tháng 06 năm 2010 phê duyệt chương
trình mục tiêu quốc gia (MTQG) về xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020.
Đây là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và an
ninh quốc phòng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, được
thực hiện trên phạm vi cả nước.
Trước giai đoạn 10 năm thực hiện chương trình MTQG xây dựng NTM
đã có 10 năm triển khai các hoạt động thử nghiệm thông qua các chương trình
thí điểm xây dựng NTM ở nhiều địa phương. Giai đoạn 2001-2005 là chương
trình thí điểm NTM cấp xã của Ban kinh tế Trung ương; giai đoạn 2007-2009
là chương trình thí điểm NTM cấp thôn bản của Bộ NN&PTNT; giai đoạn
2009-2011 là chương trình thí điểm NTM thời kỳ đẩy nhanh CNH-HĐH do
Ban bí thư Trung ương Đảng. Song song với các chương trình này, nhiều địa
phương cũng triển khai các hoạt động xây dựng NTM theo những chương
trình riêng của tỉnh, thành phố.
Các chương trình thí điểm và chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
NTM đều thực hiện nguyên tắc chủ đạo trong triển khai các nội dung xây
dựng NTM là phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương, các
hoạt động cụ thể do chính cộng đồng dân cư ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để
quyết định và tổ chức thực hiện. Nguyên tắc này đã xác định xây dựng NTM
là một hoạt động “dựa vào cộng đồng” phát huy sự tham gia và đóng sgóp
của cộng đồng là nguồn lực chính để thực hiện các nội dung xây dựng NTM.
Tuy nhiên, theo đánh giá chung từ các chương trình thí điểm, quá trình
thử nghiệm vẫn chưa khơi dậy hiệu quả nguồn lực từ cộng đồng, người dân
chưa tích cực tham gia đóng góp vào các hoạt động xây dựng NTM. Nhiều

2


nơi dân cư có tâm lý ỷ lại chỉ dựa vào sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước.
Nguồn vốn cho xây dựng NTM, do đó, chủ yếu từ ngân sách nhà nước và tập
trung cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, thiếu sự tham gia ý kiến của
cộng đồng, thiếu các hoạt động phát huy vai trò cộng đồng trong tổ chức sản
xuất, bảo vệ môi trường, duy trì và phá triển các truyền thống văn hóa tốt
đẹp Ngay trong báo cáo của Ban chỉ đạo Trung ương về kết quả giai đoạn
đầu triển khai chương trình MTQG xây dựng NTM,vấn đề tồn tại vẫn là
nhận thức của một số cán bộ các cấp và người dân về việc xây dựng NTM
còn chưa đúng và chưa đầy đủ, chưa phát huy được vai trò chủ thể của cộng
đồng dân cư.
Hoàng Su Phì là một huyện miền núi nằm ở phía Tây của tỉnh Hà Giang.
Huyện có tổng diện tích 63.281,8 ha với 166.896 nhân khẩu trong 33379 hộ
dân sinh sống trong 25 xã (trong đó có 01 thị trấn và có 04 xã giáp danh giới
với Trung Quốc (theo tài liệu “Quy hoạch phát triển tổng thể của huyện từ
1997 - 2010”). Vì vậy Hoàng Su Phì là một huyện thuộc huyện biên giới (có
khoảng 34 km đường biên giới với Trung Quốc), giữ một vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh và của
Quốc Gia.
Hoàng Su Phì có 10 dân tộc anh em cùng chung sống, chủ yếu là các dân
tộc thiểu số, trong đó dân tộc Nùng chiếm hơn 38%, dân tộc Dao chiếm 22%,
dân tộc H’Mông chiếm 13%, còn lại là các dân tộc khác như Pà Thẻn, Phù Lá,
Cơ Lao, Kinh… Là một huyện miền núi, có địa hình bị chia cắt bởi hai mạch
hệ thống núi, hệ thống các dãy núi Tây Côn Lĩnh nằm ở phía tây của tỉnh Hà
Giang có độ cao trung bình từ 1000 - 2000m, Hoàng Su Phì có một nền kinh
tế khá đa dạng và năng động tuy nhiên cũng có nhiều bất cập xảy ra, nền kinh
tế phát triển không ổn định, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, công tác
xây dựng và sản xuất còn chưa đồng bộ và chưa có quy hoạch.
Thông Nguyên là một xã miền núi nằm về phía Tây Nam của huyện
Hoàng Su Phì, xã gồm có 13 thôn, với tổng số nhân khẩu là 3.111 người trên

601 hộ. Toàn xã có 8 dân tộc khác nhau, trong đó nhiều nhất là dân tộc Dao
chiếm 78,6%, dân tộc Tày chiếm 10,4%, còn lại là các dân tộc khác như
H’Mông, Kinh, Nùng, Mường, Cao Lan, Ngái chiếm tỷ lệ nhỏ (Theo số liệu

3

thống kê của văn phòng ủy ban nhân dân xã Thông Nguyên). Thông Nguyên
có đất đai thổ nhưỡng tương đối tốt, song địa hình đồi núi khá phức tạp, do đó
cũng ảnh hưởng nhiều đến công tác xây dựng của xã. Nhiều năm qua đã có
những chủ chương, dự án về nông thôn ở xã và đã đạt được những kết quả
đáng kể, song qua đó cũng có nhiều bất cập xảy ra, văn hóa xã hội chưa thực
sự ổn định, sản xuất nông nghiệp còn nhiều bất cập, cuộc sống người dân gặp
nhiều khó khăn. Do vậy xây dựng nông thôn mới đang là một vấn đề cấp thiết
ở xã, với nền sản xuất hàng hóa mở hướng đến thị trường giao lưu và hội
nhập, xây dựng cơ sở hạ tầng, xã hội một cách có quy hoạch, đồng bộ, hiện
đại đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống của người dân.
Xuất phát từ lý do trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá sự
tham gia của cộng đồng trong chương trình xây dựng nông thôn mới tại xã
Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang”, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm thức đẩy sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng NTM
trên địa bàn nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá sự tham gia của cộng đồng trong chương trình xây dựng NTM
trên địa bàn xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Từ đó,
đề xuất một số giải pháp nâng cao sự tham gia của cộng đồng trong việc xây
dựng NTM trên địa bàn xã Thông Nguyên.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội xã Thông Nguyên,
huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.

- Đánh giá sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động xây dựng
NTM trên địa bàn xã.
- Đưa ra một số vấn đề khó khăn, trở ngại ảnh hưởng đến sự tham gia
của cộng đồng trong việc xây dựng NTM.
- Đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng người
dân trong việc xây dựng NTM tại xã Thông Nguyên.

4

1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút kinh nghiệm thực tế phục vụ cho
công tác sau này.
- Vận dụng và phát huy được các kiến thức đã học tập và nghiên cứu
- Góp phần hoàn thiện những lý luận và phương pháp nhằm đẩy mạnh
và phát triển, xây dựng điều kiện kinh tế xã hội ở nông thôn trong giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tư liệu khoa học hữu ích cho
việc nghiên cứu, tham khảo trong việc giảng dạy, học tập tại trường, khoa và
các viện nghiên cứu về phát triển nông thôn.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tư liệu tốt cho chính quyền địa
phương, là cơ sở cho việc đánh giá sát thực hơn thực trạng xây dựng NTM
và sự tham gia của cộng đồng ở xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì,
tỉnh Hà Giang.
- Giúp người dân nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trong của việc xây
dựng NTM, đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của cộng đồng
người dân vào việc xây dựng NTM nói riêng và phát triển nông thôn nói chung.
- Kết quả của đề tài là cơ sở cho các cấp chính quyền địa phương, các
nhà đầu tư đưa ra quyết định mới, hướng đi mới để xây dựng thành công mô

hình nông thôn mới trên địa bàn xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh
Hà Giang. Đồng thời kết quả đề tài cũng là cơ sở để cho các nhà hoạch định
chính sách xem xét điều chỉnh, bổ sung cơ chế chính sách trong việc tăng
cường, nâng cao sự tham gia của cộng đồng người dân trong xây dựng Nông
thôn mới tại các địa phương khác và trên cả nước.






5

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học lý luận
2.1.1. Khái niệm nông thôn và phát triển nông thôn
Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nông
dân. Tập hợp dân cư này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội
và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của
các tổ chức khác.
Khác với đô thị, nông thôn có một cộng đồng chủ yếu là nông dân, làm
nghề chính là nông nghiệp; có mật độ dân cư thấp, kết cấu hạ tầng nông thôn
kém phát triển, mức độ phúc lợi xã hội thua kém hơn; có trình độ dân trí, trình
độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn so với đô thị.
Phát triển nông thôn là một phạm trù rộng được nhận thức với rất nhiều
quan điểm khác nhau. Theo Mai Thanh Cúc và cs (2005) [3]: “Phát triển
nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện sống về kinh tế và
xã hội của một nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng nông thôn. Nó giúp

những người nghèo nhất trong những người dân sống ở các vùng nông thôn
được hưởng lợi ích từ sự phát triển”.
Phát triển nông thôn có tác động theo nhiều cách khác nhau. Đây là một
quá trình thu hút mọi người dân tham gia vào các chương trình phát triển,
nhằm mục tiêu cải thiện chất lượng cuộc sống của các cư dân nông thôn, đồng
thời, phát triển nông thôn là quá trình phát triển thực hiện hiện đại hóa nền
văn hóa nông thôn nhưng vẫn bảo tồn được những giá trị truyền thống thông
qua việc ứng dụng khoa học và công nghệ. PTNT là sự phát triển tổng hợp tất
cả các hoạt động có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố vật
chất, kinh tế, công nghệ, văn hóa, xã hội, thể chế và môi trường. Nó không
thể tiến hành một cách độc lập mà phải được đặt trong khuôn khổ của một
chiến lược, chương trình phát triển quốc gia. Sự phát triển của các vùng nông
thôn sẽ đóng góp tích cục vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.

6

2.1.2. Nông thôn mới
Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW [8] đưa ra mục tiêu: “Xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ
thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường”.
Trong quyết định số 800/QĐ-TTg [10] đưa ra mục tiêu chung về xây
dựng mô hình nông thôn mới: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ;
gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ,
ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an
ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất tinh thần của người dân ngày

càng được nâng cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy nông thôn mới trước tiên nó phải là nông thôn chứ không phải
thị trấn, thị tứ, thị xã hay thành phố nhưng lại khác với nông thôn truyền
thống hiện nay, có thể khái quát gọn theo năm nội dung cơ bản sau: 1. Làng
xã văn minh, 2. Sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; 3.
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; 4.
Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; 5. Xã hội nông thôn an
ninh tốt, quản lý dân chủ.
Mô hình nông thôn mới là một chính sách về một mô hình phát triển cả
về nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính chất tổng hợp, bao quát
nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết
các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán,
cân đối mang tính tổng thể, khắc phục tình trạng rời rạc, hoặc duy ý chí.
Sự hình dung của các nhà nghiên cứu về mô hình nông thôn mới là
những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những thành tựu KHKT
hiện đại mà vẫn giữ được những nét đặc trưng, tinh hoa văn hóa của người
Việt Nam. Nhìn chung, mô hình nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá,
hợp tác hóa, dân chủ hóa và văn minh hóa.

7

Mô hình NTM được quy định bởi các tính chất: đáp ứng các yêu cầu
phát triển (đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường), đạt hiệu
quả cao nhất trên tất cả các mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội), tiến bộ
hơn so với mô hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận
dụng trên cả nước.
Có thể quan niệm NTM là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành
một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho
nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn dược xây dựng so với
mô hình nông thôn cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt.

2.1.3. Một số điều kiện và tiêu chí xây dựng nông thôn mới
2.1.3.1. Điều kiện cần có để xây dựng NTM theo đề án của Bộ NN&PTNT
- Về kinh tế, nông thôn có có nền sản xuất hàng hóa mở, hướng đến thị
trường và giao lưu, hội nhập. Để đạt được điều đó, kết cấu hạ tầng của nông
thôn phải hiện đại, tạo điều kiện cho mở rộng sản xuất giao lưu buôn bán.
- Về chính trị, phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật, gắn
lệ làng với pháp luật để điều chỉnh hành vi con người, đảm bảo tính pháp lý,
tôn trọng kỷ cương phép nước, phát huy tính tự chủ của làng xã.
- Về văn hóa - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, giúp
nhau xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng.
- Về con người, chú trọng nâng cao trình độ dân trí, nhằm phát huy nội
lực của người dân, tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật vận dụng vào sản
xuất. Khuyến khích người dân tích cực tham gia các hoạt động lập kế hoạch,
giám sát điều chỉnh và đánh giá công trình phát triển thôn, xóm.
- Về môi trường, xây dựng, củng cố bảo vệ môi trường, tài nguyên, du
lịch sinh thái. Bảo vệ rừng đầu nguồn, chống ô nhiễm nguồn nước, môi
trường không khí và chất thải sinh hoạt, chất thải từ các khu công nghiệp để
nông thôn phát triển bền vững.
2.1.3.2. Một số tiêu chí để xây dựng mô hình nông thôn mới.
Được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 491/QĐ-TTg (16/4/2009)
[11] ban hành bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm 19 tiêu chí như: quy
hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở
vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà dân cư, thu nhập, hộ nghèo, cơ

8

cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường,
hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh, an ninh, trật tự xã hội; và được
chia thành 5 nhóm cụ thể:
+ Về quy hoạch

+ Về hạ tầng kinh tế - xã hội
+ Về văn hóa - xã hội - môi trường
+ Về hệ thống chính trị
2.1.4. Khái niệm cộng đồng
Theo Nguyễn Ngọc Luân và cs (2011)[6], có nhiều khái niệm về cộng
đồng, trong đó nổi bật hai khái niệm: theo Marcia L.Conner “Cộng đồng là
các nhóm dân cư có cùng sở thích, có chung lợi ích và mối quan tâm”. Khái
niệm này đã phản ảnh được, đặc trưng mang tính chất của cộng đồng.
T.Schouten và P.Moriarty lại cho rằng: “Cộng đồng sinh ra và tồn tại do một
nhóm những người đồng sở thích, nhưng cộng đồng không chỉ có nghĩa chỉ là
một nhóm gồm những cá nhân đó mà còn bao hàm cả mối quan hệ, hành vi,
ứng xử và sự tương tác giữa các thành viên”. Trên thực tế, không có một
cộng đồng thuần chất. Trong một cộng đồng có thể bao gồm cả những người
giàu, người nghèo từ các giai tầng xã hội khác nhau, có trình độ kiến thức và
nhu cầu cụ thể khác nhau, nhưng có cùng mối quan tâm và lợi ích chung. Mặt
khác, một cá nhân có thể đồng thời thuộc về vài cộng đồng tại cùng một thời
điểm do bản thân họ có nhiều mối quan tâm, nhiều sở thích và chia sẻ lợi ích
với nhiều nhóm người khác nhau; trong một cộng đồng số thành viên thường
có xu hướng biến đổi. Cộng đồng nông thôn gắn kết với nhau trên cơ sở tình
làng nghĩa xóm truyền thống và quan hệ nội bộ dòng tộc.
Ở Việt Nam, có nhiều tài liệu đưa ra khái niệm “cộng đồng”. Từ điển
tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, 1992 giải thích: “cộng đồng là toàn thể những
sống thành một xã hội, nói chung có những điểm giống nhau, gắn bó thành
một khối”. Đại từ tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1999 giải thích:
“cộng đồng là tập hợp những người có những điểm giống nhau làm thành một
khối như một xã hội”. Như vậy có thể hiểu cộng đồng là một nhóm người có
cùng những đặc điểm chung, ví dụ: đặc quyền, đặc lợi, sống với nhau, cùng
chia sẻ lợi ích chung Nói cách khác, cộng đồng là một nhóm người cùng

9


sống với nhau trong một khu vực nhất định, có chung đặc điểm về tâm lý, tác
động qua lại và sử dụng tài nguyên vốn có để đạt được mục đích chung
(Nguyễn Ngọc Luân và cs, 2011) [6].
Cộng đồng nông thôn truyền thống ở Việt Nam là làng xã xuất hiện từ
khi tổ tiên biết làm nông nghiệp, đặc biệt là từ khi biết trồng lúa nước. Cộng
đồng dân cư làng xã, những nhóm người dân tự quản gắn bó với nhau trên cơ
sở tự nguyện vì những mối quan tâm chung. Các mối quan tâm này khá phong
phú đa dạng. Để có thể thực hiện mục tiêu chung, cộng đồng đã tự lập ra
những hình thức tổ chức tự quản hết sức phong phú của mình (Nguyễn Ngọc
Luân và cs, 2011) [6].
2.1.5. Nội lực cộng đồng và vai trò của cộng đồng trong phát triển nông thôn
2.1.5.1. Khái niệm về nội lực, nguồn lực cộng đồng
Theo cuốn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới cấp xã” của Bộ
NN&PTNT(2009) [1] có giải thích về “nội lực cộng đồng” bao gồm:
(i) Công sức, tiền của do người dân và cộng đồng tự bỏ ra để chỉnh trang
nơi ở của gia đình mình như: xây dựng, nâng cấp nhà ở; xây dựng đủ 3 công
trình vệ sinh; cải tạo, bố trí lại các công trình phục vụ khu chăn nuôi hợp vệ
sinh theo tiêu chuẩn nông thôn mới; cải tạo lại vườn ao để có thu nhập và
cảnh quan đẹp
(ii) Đầu tư cho sản xuất ngoài đồng ruộng hoặc cơ sở sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ để có thu nhập cao.
(iii) Đóng góp xây dựng các công trình công cộng của làng, xã như:
đường giao thông thôn, xóm; kiên cố hóa kênh mương; vệ sinh công cộng
Theo giải thích trong cuốn sổ tay này thì “nội lực cộng đồng” chính là
những đóng góp bằng tiền và công sức của người dân và cộng đồng. Cách hiểu
này chưa thực sự đầy đủ vì ngoài đóng góp bằng tiền và công sức, người dân
và cộng đồng còn có thể đóng góp cho xây dựng nông thôn bằng các nguồn lực
khác như đất đai và các tài sản khác; trí tuệ và năng lực của người dân; các mối
quan hệ xã hội, quyền đưa ra quyết định (Nguyễn Tiến Định và cs, 2010) [4].

Trong nghiên cứu này, nội lực từ người dân được hiểu là những nguồn lực sẵn
có của người dân có thể đóng góp cho phát triển nông thôn, các công việc làm
tham gia của người dân cũng chính là nội lực. Cụ thể, nội lực của người dân

10
bao gồm:
- Tiền (vốn tài chính)
- Sức lao động
- Tài sản sở hữu (đất đai và các tài sản khác)
- Trí tuệ và năng lực (trình độ, kỹ năng)
- Quan hệ xã hội (quyền ra quyết định, mối quan hệ)
*Nguồn lực cộng đồng
Theo Nguyễn Ngọc Luân và cs (2011)[6], một cách khái quát nhất,
nguồn lực từ cộng đồng là tất cả các nguồn lực thực tế trong cộng đồng giúp
người dân tạo dựng cuộc sống cho chính họ (Gord Cunningham, 2006). Trong
tài liệu tập huấn Kỹ năng phát triển cộng đồng (Đại học An Giang, 2007),
nguồn lực cộng đồng được khái niệm một cách toàn vẹn bao gồm các thành
phần sau:
- Các nguồn tài nguyên thiên nhiên (natural capitals): Là các nguồn lực
tài nguyên thiên nhiên tồn tại trong cộng đồng. Ví dự như đất sản xuất, tài
nguyên rừng, thủy sản
- Các nguồn tài sản vật chất (physical capitals): là các công trình được
xây dựng phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho đời sống nhân dân tại cộng đồng.
Ví dự: cơ sở hạ tầng (đường, điện, trường, trạm)
- Các nguồn tài sản vê con người (human capitals): gồm các kỹ năng
(skill), kiến thức (knowledge) và năng lực (talent) của các thành viên trong
cộng đồng.
- Các nguồn tài sản xã hội (sosical capitals): Mối quan hệ giữa các
thành viên trong cộng đồng, ví dụ như niềm tin.
- Các nguồn tài sản tài chính (financial capitals): là các nguồn lực kinh

tế tồn tại trong cộng đồng như hệ thống ngân hàng đang hoạt động trong vùng,
khả năng kinh tế của các thành viên trong cộng đồng.
2.1.5.2. Vai trò của cộng đồng trong phát triển nông thôn.
Trong cuốn cẩm nang “Phát triển nông thôn toàn diện” (2004), Giáo sư
Michael Dower cho rằng cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong phát triển
nông thôn, là cơ sở cho phát triển nông thôn bền vững vì:
- Họ biết rõ nhất những khó khăn và nhu cầu của mình.

11

- Họ quản lý nguồn tài nguyên như đất đai, nhà xưởng, sản phẩm địa
phương mà quá trình phát triển phải dựa vào đó.
- Kỹ năng, truyền thống, kiến thức và năng lực của họ là tiềm năng
chính để phát triển.
- Sự cam kết của họ là sống còn (nếu như họ không ửng hộ một kế
hoạch nào, kế hoạch đó sẽ không thực hiện được).
- Hơn thế nữa, một cộng đồng càng phát triển và năng động, thì càng có
khả năng thu hút người dân ở lại, và giữ họ không di chuyển đi nơi khác.
(Nguyễn Ngọc Luân và cs, 2011) [6].
2.1.5.3. Phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng
Theo các phân tích ở trên thì vai trò của cộng đồng trong phát triển nông
thôn được xã định là rất quan trọng. Các nguồn lực cộng đồng có thể huy
động chó phát triển nông thôn cũng rất đa dạng. Chính vì thế, những năm vừa
qua, cách tiếp cận phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng được thực hiện phổ
biến ở nhiều chương trình, dự án phát triển nông thôn ở trên thế giới.
Theo Nguyễn Ngọc Luân và cs (2011): Phát triển nông thôn dựa vào
cộng đồng là phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng để phát triển các lĩnh
vực khác nhau ở khu vực nông thôn. Phương pháp tiếp cận phát triển nông
thôn dựa vào cộng đồng được nhiều chương trình, dự án sử dụng phổ biến.
Mỗi chương trình, dự án có mục tiêu riêng, có thể nhằm tăng cường vai trò

của phụ nữ trong cộng đồng, phát triển hệ thống, dịch vụ chăm sóc sức khỏe
người dân, quản lý nguồn tài nguyên rừng, cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng
ở nông thôn
Chính vì thế có rất nhiều quan niệm khác nhau về phát triển nông thôn
dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, có một điểm chính vẫn còn đang có nhiều
tranh luận, đó là cách hiểu thế nào là “dựa vào cộng đồng” (community-
based). Có ý kiến chó rằng, ở các nước đang phát triển, vẫn đề phát triển nông
thôn là rất quan trọng do phần lớn dân cư sống ở khu vực nông thôn và hoạt
động chính là sản xuất nông nghiệp, vì thế rất nhiều tổ chức khác nhau áp
dụng các biện pháp phát triển cộng đồng khác nhau đã được thực hiện tại các
quốc gia này. Hầu hết những nỗ lực hỗ trợ phát triển này được tạo ra từ phía
bên ngoài cộng đồng (nhà nước, tổ chức phi chính phủ, cơ quan nghiên cứu -

12
phát triển) chứ bản thân cộng đồng không tự tổ chức phát triển. Điều này tạo
đặt ra vấn đề là “sự tham gia” hay “dựa vào cộng đồng” nằm ở đâu? Nhiều
câu hỏi cũng được đặt ra về sự bền vững của những tác động phát triển này
cũng như câu hỏi về việc cộng đồng có được tăng cường sức mạnh để tự ra
quyết định của mình hay không? (Nguyễn Ngọc Luân và cs, 2011)[6].
Theo Nguyễn Ngọc Luân và cs (2011)[6], cũng có nhiều câu trả lời cho
những tranh luận trên, trong đó đáng chú ý là khái niệm phát triển nông thôn
dựa vào nội lực cộng đồng do Jody Kretzmann và John McKnight (1993) đưa
ra. Đây là một cách tiếp cận phát triển cộng đồng đề cao việc sử dụng những
kỹ năng và sức mạnh đã và đang hiện hữu ngay trong cộng đồng nông thôn
hơn là việc lôi kéo, trông chờ vào sự trợ giúp từ bên ngoài. Cụm từ “dựa vào
cộng đồng” ở đây đề cập đến tính chủ động, tự phát triển, trong đó khuyến
khích các thành viên trong cộng đồng tạo ra sự tiến triển cho chính bản thân
họ, đối lập với cách tiếp cận truyền thống là dựa theo nhu cầu mà đã khiến
cho cộng đồng phụ thuộc vào các hỗ trợ bên ngoài.
2.1.6. Lý luận về sự tham gia và các chỉ tiêu xác định sự tham gia của cộng

đồng trong xây dựng nông thôn mới.
2.1.6.1. Lý luận về sự tham gia
Sự tham gia của người dân vào việc xây dựng mô hình nông thôn mới
được coi như nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của việc áp dụng
phương pháp tiếp cận phát triển dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ
trong các thí điểm mô hình. Các nội dưng trong vai trò của người dân vào
việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới được hiểu là:
- Dân biết: là quyền lợi, nghĩa vụ và sự hiểu biết của người dân trong
cộng đồng về những kiến thức bản địa có thể đóng góp vào quá trình quy
hoạch nông thôn, quá trình khảo sát, thiết kế các công trình xây dựng cơ sở hạ
tầng nông thôn. Mặt khác, người dân có điều kiện tham gia hiệu quả hơn vào
các giai đoạn sau của quá trình xây dựng công trình; người dân nắm được
thông tin đầy đủ vê công trình mà họ tham gia như mục đích xây dựng công
trình, các yêu cầu đóng góp từ cộng đồng, trách nhiệm và quyền lợi từ cộng
đồng người dân được hưởng lợi.
- Dân bàn: bao gồm sự tham gia ý kiến của người dân liên quan đến kế

13
hoạch phát triển sản xuất, liên quan đến các giải pháp, mọi hoạt động, của
nông dân trên địa bàn như bàn luận mở ra một hướng sản xuất mới, đầu tư
xây dựng công trình phúc lợi công cộng, giải pháp thiết kế, phương thức khai
thác công trình, tổ chức quản lý công trình, các mức đóng góp và các định
mức chi tiêu từ các nguồn thu, phương thức quản lý tài chính Trong cộng
đồng dân cư hưởng lợi.
- Dân đóng góp: là một yếu tố không chỉ ở phạm trù vật chất, tiền bạc
mà còn cả phạm trù nhận thức về quyền sở hữu và tính trách nhiệm, tăng tính
tự giác của từng người dân trong cộng đồng. Hình thức đóng góp có thể bằng
tiền, sức lao động, vật tư tại chỗ hoặc đóng góp bằng trí tuệ.
- Dân làm: Chính là sự tham gia lao động trực tiếp từ người dân vào các
hoạt động phát triển nông thôn như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt

động của các nhóm khuyến nông, khuyến lâm, nhóm tín dụng tiết kiệm và
những công việc liên quan đến tổ chức tiếp nhận, quản lý và sử dụng công
trình. Người dân trực tiếp tham gia vào quá trình cụ thể trong việc lập kế
hoạch có sự tham gia cho từng hoạt động thi công, quản lý và duy tu bảo
dưỡng, từ những việc tham gia đó đã tạo cơ hội cho người dân có việc làm,
tăng thu nhập cho người dân.
- Dân kiểm tra: Có nghĩa là thông qua các chương trình, hoạt động có sự
giám sát và đánh giá của người dân, để thực hiện các quy chế dân chủ cơ sở
của Đảng và Nhà nước nói chung và nâng cao sự hiệu quả chất lượng công
trình. Ở những công trình có nhiều bên tham gia, sự kiểm tra, giám sát của
cộng đồng hưởng lợi có tác động tích cực trực tiếp đến chất lượng công trình
và tính minh bạch trong việc sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và của
người dân vào xây dựng, quản lý và vận hành công trình. Việc kiểm tra có thể
được tiến hành ở tất cả các công đoạn của quả trình đầu tư trên các khái cạnh
kỹ thuật cũng như tài chính.
- Dân quản lý: Đó là các thành quả của các hoạt động mà người dân đã
tham gia, các công trình sau khi xây dựng xong cần được quản lý trực tiếp của
một tổ chức do nông dân hưởng lợi lập ra để tránh tình trạng không rõ ràng về
chủ sở hữu công trình. Việc tổ chức của người dân tham gia bảo dưỡng, duy
tu công trình nhằm nâng cao tuổi thọ và phát huy tối đa hiệu quả trong việc sử
dụng công trình.

14
- Dân hưởng lợi: Chính là lợi ích mà các hoạt động mang lại, tuy
nhiên cần chia ra các nhóm hưởng lợi ích trực tiếp và nhóm hưởng lợi ích
gián tiếp [5].
2.1.6.2. Các yêu tố xác định sự tham gia trong PTNT
Theo Vũ Trọng Bình trong cuốn “Kinh nghiệm quốc tế về sự tham gia
của cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới”[19]: Trong phát triển nông
thôn có sự tham gia của nhiều tác nhân khác nhau. Những năm gần đây, khái

niệm Phát triển nông thôn có sự tham gia được sử dụng phổ biến nhất trên thế
giới. Hai tác giả Cohen và Uphoff (1979) cho rằng: “liên quan đến phát triển
nông thôn, sự tham gia bao gồm sự liên quan của người dân vào quá trình ra
quyết định, vào việc thực hiện các chương trình, sự chia sẻ lợi ích có được từ
chương trình phát triển; và /hoặc các cố gắng để đánh giá những chương
trình như vậy”.
Các lĩnh vực tham gia thay đổi tùy theo mục tiêu của người nghiên cứu.
Tuy nhiên, việc ra quyết định luôn được xem là lĩnh vực quyết định nhất cho
bất kỳ mục tiêu nào và không được bỏ qua. Cohen và Uphof (1979) đã đưa ra
khung phân tích để giám sát vai trò của sự tham gia trong các dự án và
chương trình phát triển. Họ thấy có 4 lĩnh vực tham gia: (1) ra quyết định, (2)
thực hiện, (3) hưởng lợi, (4) đánh giá [19]
Trong khi đó, Finsterbusch và Wiclin (1987) nhận thấy dự án có 3 pha
và 5 hình thức tham gia là: (1) lập kế hoạch (nguyên gốc và thiết kế), (2) Thực
hiện (thực hiện và thiết kế lại) và (3) bảo dưỡng. Khung phân tích Cohen và
Uphoff có mục tiêu than gia và khung phân tích Finsterbusch và Wiclin có
mục tiêu dự án, nhưng chúng tương hợp để phù hợp với thực tế. Trong nghiên
cứu sự tham gia của địa phương về các hoạt động phát triển ở nông thôn Thái
Lan, Png Quan (1992) qua sát thấy tham gia bao gồm: đóng góp, hưởng lợi,
liên quan đến ra quyết định và đánh giá. Tham gia hưởng lợi trong đánh giá
dự án là không đáng kể nên điều này có thể bỏ qua trong nghiên cứu của
chúng ta, điều này cũng thấy trong nghiên cứu của Finsterbusch và Wiclin
[19].
Khi áp dụng vào thực tế, sự tham gia dường như thể hiện ở nhiều dạng
khác nhau. Sự tham gia là một khái niệm khó nắm bắt mà sự phân biệt giữa

15
các dạng khác nhau là không dễ dàng. Tuy nhiên, trong bản tóm tắt của các dự
án phát triển của các quốc gia và tổ chức phi chính phủ, Oakley (1987) có gợi
ý rằng ba dạng khác nhau của sự tham gia trong thực tế là: Đóng góp, tổ chức

và trao quyền [19].
*Tham gia đóng góp: Theo cách hiểu này, sự tham gia nhấn mạnh đến sự
tự nguyện hay các dạng khác của sự đóng góp của người dân nông thôn để
quyết định trước các chương trình dự án. Ví dụ như các dự án về y tế, cấp
nước, lâm nghiệp, sơ sở hạ tầng và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên
chủ yếu nhằm vào sự đóng góp của người dân nông thôn ẩn trong sự tham gia
và thực sự là cơ sở để thành công [19].
*Tham gia tổ chức: Đã có các cuộc tranh luận rất lâu về phạm vi của lý
thuyết và thực tế phát triển rằng sự tổ chức là công cụ cơ bản của sự tham gia.
Rất ít người tranh luận về luận điểm này nhưng sẽ không đồng ý về bản chất
và sự phát triển của sự tổ chức. Sự phân biệt giữa nguồn gốc của dạng tổ chức
mà sẽ dùng như là phương tiện cho sự tham gia, hoặc các tổ chức này được
giới thiệu và hình thành bên ngoài như hợp tác xã, hội nông dân, ban y tế…,
hay các tổ chức này xuất hiện và tự cơ cấu mình như là kết quả của quá trình
có sự tham gia. Cán bộ phát triển nhìn nhận có nhu cầu lớn về hỗ trợ hình
thành các tổ chức thành các tổ chức thích hợp của người nông dân, tuy vậy
chỉ khuyến khích để người dân nông thôn tự quyết định bản chất và cấu trúc
của tổ chức [19].
*Tham gia là trao quyền: Khái niệm về sự tham gia như là sự áp dụng
trao quyền cho người dân đã được ủng hộ rộng rãi hơn trong những năm gần
đây. Tuy nhiên, đó là một khái niệm khó định nghĩa và gây ra nhiều cách giải
thích khác nhau. Một số coi trao quyền là sự phát triển các kỹ năng và khả
năng giúp người dân nông thôn quản lý tốt hơn, có tiếng nói và đàm phán với
hệ thống tổ chức, dịch vụ phát triển hiện có, một số khác lại coi đó là cơ bản
và cần thiết liên quan đến cho phép người dân quyết định và thực hiện những
việc mà họ cho rằng cần thiết cho sự phát triển của mình [19].
2.1.6.3. Các hình thức tham gia
- Có quyền được biết một cách tường tận, rõ ràng những gì có liên quan
mật thiết và trực tiếp đến đời sống của họ.


16
- Được tham dự các buổi họp, tự do phát biểu, trình bày ý kiến, quan
điểm và thảo luận các vấn đề của cộng đồng.
- Được cùng quyết định, lựa chọn các giải pháp hay xác định các vấn đề
ưu tiên của cộng đồng.
- Có trách nhiệm cùng mọi người đóng góp công sức, tiền của để thực
hiện các hoạt đông mang tính lợi ích chung.
- Người dân tự lập kế hoạch dự án và quản lý điều hành, kiểm tra, giám
sát, đánh giá các chương trình dự án phát triển cộng đồng. [5]
2.1.6.4. Mức độ tham gia
- Không có sự tham gia
- Tham gia ít
- Tham gia thực sự
Các mực độ tham gia này có thể minh họa phương thức “Nhà nước và
nhân dân cùng làm” với các bước: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân quản lý và dân hưởng lợi[7].
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về tăng cường sự tham
gia của người dân trong phát triển nông thôn.
2.2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Nền nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của nền kinh tế
toàn cầu đang tăng lên như vũ bão. Vì vậy việc học tập những kinh nghiệm
phát triển nông nghiệp nông thôn các nước là một yếu tố quan trọng tác động
đến sự phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
a, Xây dựng Nông thôn mới ở Trung Quốc
Trung Quốc xuất phát từ một nước nông nghiệp, đại bộ phận người lao
động sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nên cải cách kinh tế ở nông thôn là
một khâu đột phá quan trọng trong cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc.
Ngay trong năm 1978, Trung Quốc đã quyết định xóa bỏ chế độ phân
phối bình quân ở nông thôn, thực hiện nguyên tắc “làm hết năng lực, phân

phối theo lao động”, tăng cường quản lý định mức, trả thù lao cho người lao
động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động.
Từ năm 1980, Trung Quốc đã bắt đầu thí điểm khoán sản lượng đến hộ

×