Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Truyện ngắn Nguyễn Quang Lập nhìn từ thi pháp thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.27 KB, 106 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy Nguyễn Đăng Điệp, người đã
tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này, người đã cho tôi
nhiều kinh nghiệm, phương pháp nghiên cứu khoa học và tác phong làm việc.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy,
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã động viên, khuyến khích
tôi hoàn thành khóa học và luận văn này.
Hà Nội, ngày 01 tháng 10 năm 2010
Tác giả







2

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy giáo:
PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp cùng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân. Tôi xin
cam đoan các kết quả đạt được của luận văn là hoàn toàn trung thực.
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
Tác giả











3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5

1.Lý do chọn đề tài 5

2.Mục đích nghiên cứu 9

3. Nhiệm vụ nghiên cứu 9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9

5. Phương pháp nghiên cứu 10

6. Đóng góp của luận văn 10

7. Cấu trúc luận văn 11

NỘI DUNG 12

CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG LẬP TRONG SỰ VẬN

ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 12

1.1. Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới – một cái nhìn tổng quát 12

1.1.1 Chuyển mình theo hướng đa dạng hóa 12

1.1.2 Quan niệm mới về hiện thực 15

1.1.3 Quan niệm nghệ thuật mới về con người 18

1.1.4 Đổi mới về thi pháp 23

1.2. Sự xuất hiện của truyện ngắn Nguyễn Quang Lập 26

1.3. Quan niệm của Nguyễn Quang Lập về truyện ngắn 33

CHƯƠNG 2: CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN QUANG LẬP 39

2.1 Cốt truyện 39

2.1.1 Vài nét về cốt truyện 39

2.1.2 Các loại cốt truyện 40

4

2.1.2.1 Cốt truyện giàu tính kịch 40

2.1.2.2 Cốt truyện tâm lý đồng hiện quá khứ - hiện tại 47


2.2 Thế giới nhân vật 50

2.2.1 Khái lược về nhân vật văn học 50

2.2.2 Các loại nhân vật 53

2.2.2.1 Nhân vật bi kịch 53

2.2.2.2 Nhân vật cô đơn 60

2.2.3 Nghệ thuật miêu tả nhân vật 66

2.2.3.1 Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình, diện mạo và tên gọi
nhân vật 66

2.2.3.2 Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật 69

CHƯƠNG 3: TỔ CHỨC TRẦN THUẬT 73

3.1 Điểm nhìn trần thuật 75

3.1.1 Lối trần thuật chủ quan 76

3.1.2 Lối trần thuật khách quan 81

3.2 Ngôn ngữ trần thuật 84

3.3 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập 89


3.3.1 Vài nét về giọng điệu nghệ thuật 90

3.3.2 Các sắc thái giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập 92

3.3.2.1 Giọng trầm buồn 92

3.3.2.2 Giọng mỉa mai chua xót 94

3.3.2.3 Giọng triết lý 96

KẾT LUẬN 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO 101

5

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nguyễn Quang Lập thuộc vào số các nhà văn tiêu biểu của thế hệ hậu
chiến ở Việt Nam. Từng làm công tác văn hoá, xuất bản, biên kịch, làm thơ, viết
văn. Nhưng sáng tác văn học chính là niềm đam mê lớn nhất của ông. Chính
niềm đam mê ấy đã đem lại cho Nguyễn Quang Lập nhiều thành công trong sự
nghiệp sáng tác, đặc biệt thành công trong thể loại kịch và truyện ngắn.
Về truyện ngắn, đến nay Nguyễn Quang Lập được bạn đọc nhớ đến với:
Một giờ trước lúc rạng sáng, Tiếng gọi phía mặt trời lặn, Mười tám truyện ngắn
Nguyễn Quang Lập (tập truyện ngắn, 1989). Đây là những tác phẩm thu hút
được sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình và đông đảo bạn đọc.
Trước hết, khi nhìn nhận, đánh giá khái quát về những sáng tác của
Nguyễn Quang Lập, hầu hết các ý kiến đều cho rằng phía sau những số phận bi
kịch, những nỗi đau tinh thần của con người là ánh sáng của lương tri, là lòng

nhân ái và chất nhân văn cao đẹp.
Tháng 10 năm 1988, trong lời tựa cho cuốn tiểu thuyết Những mảnh đời
đen trắng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa ra những nhận xét tương đối khái quát
và có tính khoa học về sáng tác của Nguyễn Quang Lập, gọi Nguyễn Quang Lập,
người thuốc thang cho vết thương chiến tranh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nêu
ra được những nét riêng, đặc sắc trong những sáng tác của Nguyễn Quang Lập:
“Năm truyện ngắn…tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, tất cả đều nhất quán
trong một thế giới hình tượng và tư tưởng, khiến cho Nguyễn Quang Lập nổi lên
như một cây bút viết về chiến tranh sâu sắc và mới lạ, được công chúng tìm đọc
6

với lòng yêu mến”[69], “Nguyễn Quang Lập viết về chiến tranh, nhưng không để
ca ngợi chiến công, mà để bày tỏ nỗi lo lắng về vết thương. Dưới con mắt của
nhà văn trẻ này, mỗi nhân vật đều mang theo trong bản thân nỗi bất hạnh mà
chiến tranh để lại cho con người: sự mất mát về hạnh phúc, nỗi cô đơn khi trở
lại cuộc sống bằng hào quang của lửa bom, và nhiều trạng thái méo mó về nhân
cách”[69]. Đúng vậy, khi viết về chiến tranh Nguyễn Quang Lập đã không né
tránh những mặt trái của cuộc chiến mà thể hiện khá sâu sắc hiện thực chiến
tranh, bởi chiến tranh không phải chỉ là những cái đẹp đẽ, hào hùng mà chiến
tranh là đau thương, mất mát, chiến tranh với sức mạnh ghê gớm của sự tàn khốc
và huỷ diệt đã nhào nặn, chi phối đến tận cùng số phận của con người. Tuy
nhiên, dưới cái nhìn của mỗi nhà văn hiện thực chiến tranh lại được cảm nhận,
khám phá và phản ánh dưới nhiều góc độ và phương thức khác nhau, Nguyễn
Quang Lập đã tạo ra một góc nhìn mới về hiện thực chiến tranh, viết về “nỗi đau
tinh thần” nhưng “Nguyễn Quang Lập đã không dừng lại trong thái độ của một
người tố cáo chiến tranh, qua cách giãi bày của một người muốn nhìn thẳng sự
thật, người ta vẫn cảm nhận được cái tâm của tác giả: đó là nỗi căm ghét cái ác,
sự đòi hỏi về nhân phẩm và lòng khát khao hoà bình và hạnh phúc cuộc
sống”[69]. Cách viết của Nguyễn Quang Lập là như vậy, “làm tổn thương lương
tâm trong ý đồ làm cho lương tâm trở nên hoàn thiện hơn”[69]. Điều đáng ghi

nhận trong bài viết này là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chỉ ra cái “cách”
mà nhà văn Nguyễn Quang Lập xây dựng lên thế giới nhân vật của mình “để
phát hiện ra những nhân vật của mình, Lập đã không nhìn lên bầu trời, mà cúi
xuống lòng mình, đào bới ở đó những điều thấy cần nói với mọi người và quả
nhiên, công chúng đều chăm chú nghe Lập nói”. Và “bằng cái nhìn phân tích
khá sắc bén và mang giọng hài hước dân giã để chế ngự bớt nỗi đau đớn, tác giả
7

đã soi mói tận gan của từng nhân vật của mình để chỉ ra những thương tật chiến
tranh để lại trong tâm hồn, những thương tật mà dù ngoài đời hay trong truyện
người ta vẫn muốn giấu kín”[69].
Đến năm 1990, trong bài Cảm nghĩ về truyện ngắn của Nguyễn Quang
Lập tác giả Phan Thị Diễm Phương đã có một cái nhìn khá bao quát về những
sáng tác của Nguyễn Quang Lập, tác giả nhận thấy khác với một số cây bút cùng
thời khác. Nguyễn Quang Lập không đi vào đề tài sinh hoạt xã hội hiện nay, với
những tệ nạn, những thiếu thốn, những nhu cầu dường như không biết đến sự
thoả mãn, từ đó luôn luôn diễn ra cuộc vật lộn giữa con người và cuộc sống,
truyện của anh cũng không gợi người đọc nghĩ đến nhu cầu chiêm nghiệm đời
sống của người viết, một hướng đi mới có sức hấp dẫn của văn học nước ta trong
những năm gần đây… “Nguyễn Quang Lập có xu hướng muốn thể hiện những
khía cạnh bi kịch trong số phận các nhân vật, muốn đi vào cảm nhận những nỗi
đau tinh thần rất cụ thể và đáng được chia sẻ của con người. Chính từ trên
hướng suy nghĩ và thể hiện này mà anh đã có tiếng nói riêng”[50]. Cũng theo tác
giả, viết về đề tài chiến tranh nhưng nhà văn “không muốn dừng lại với chiến
tranh dưới màu sắc rực rỡ và âm hưởng hào hùng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng mà quên đi số phận, tâm trạng của những con người cụ thể đã đi qua cuộc
chiến tranh ấy”[50].
Tác giả Nguyễn Thanh Sơn trong cuốn Phê bình văn học của tôi (2001)
cũng khẳng định: “Nguyễn Quang Lập là nhà văn có duyên viết về chiến tranh
và những khắc khoải về vẻ đẹp cũng như nỗi đau của chiến tranh là yếu tố tạo

nên sức hút cho truyện ngắn Nguyễn Quang Lập”[52].
8

Tuy nhiên, truyện của Nguyễn Quang Lập không chỉ bó hẹp trong phạm vi
và ý nghĩa đó mà tác giả còn quan tâm đến những khía cạnh khác của đời sống,
đó là “những nỗi khổ đau vì hạnh phúc khó khăn, những thất vọng trong tình
yêu, niềm khát khao đôi lứa… tưởng đã là những truyện xưa cũ, đều được ngòi
bút đầy cảm thông của tác giả thể hiện ra theo những cảnh ngộ riêng đầy xúc
động”[50]. Truyện của Nguyễn Quang Lập, nhờ vậy vừa có khả năng khơi gợi
những nỗi đau nhân tình ở người đọc, lại vừa giúp họ có thêm cơ hội cảm nhận
cái đẹp, cái cao quý ở con người.
Khi đánh giá về những truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập, các ý kiến đều
thống nhất, đó là nhận ra Nguyễn Quang Lập “là một trong những nhà văn đầu
tiên đưa cách nhìn mới về chiến tranh với tất cả những bi thương đau đớn vốn
như nó đã xảy ra vào chuyện”[43]. Nhờ thế mà bức tranh hiện thực chiến tranh
trở nên chân thật, sinh động. Truyện ngắn của ông chủ yếu đi vào những vấn đề
của đời sống tinh thần, vì vậy nhân vật của Nguyễn Quang Lập thường là những
số phận éo le, bi kịch, thậm chí là kì dị, ai cũng mang đầy mình những mất mát
đau khổ nhưng đằng sau nó là sự bao dung nhân ái, là chất nhân văn cao đẹp.
Hơn thế, đọc văn Nguyễn Quang Lập người ta dễ bị thu hút bởi hai bờ
ranh giới của những chuyện bịa như thật và chuyện thật như bịa, là hai ranh giới
của cái hiện thực và mong ước, của cái thiện và cái ác… bởi cái kiểu kể chuyện
thông minh, giọng tưng tửng… tất cả đã tạo nên Nguyễn Quang Lập - một cây
bút viết truyện ngắn có bản sắc.
Truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập mặc dù chưa được đưa vào giảng
dạy ở trường phổ thông nhưng từ khi ra đời đến nay luôn được đông đảo bạn đọc
chú ý. Tuy nhiên, sự chú ý của dư luận cho đến nay cũng chỉ mới dừng lại dưới
9

dạng giới thiệu, nhận xét sơ bộ hay bộc bạch ấn tượng về những truyện ngắn, tập

truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu
cả về phương diện nội dung lẫn hình thức. Vì thế, đây chính là lý do thôi thúc
chúng tôi chọn truyện ngắn Nguyễn Quang Lập làm đề tài nghiên cứu.
2.Mục đích nghiên cứu
2.1. Dưới góc nhìn thi pháp học, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu hơn, có hệ
thống hơn những nét đặc sắc trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập và từ đó có
cái nhìn sâu sắc, cụ thể hơn về thể tài truyện ngắn, một thể tài đã chiếm lĩnh
được vị trí quan trọng trong đời sống văn học Việt Nam hiện nay.
2.2. Qua việc phân tích, đánh giá những đóng góp của Nguyễn Quang
Lập, chúng tôi muốn đưa ra những nhận xét ban đầu về sự vận động của ngòi bút
Nguyễn Quang Lập và sự vận động thể loại truyện ngắn Việt Nam trong mấy
chục năm qua.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng tới nhiệm vụ là đưa ra được những nhận định, kết luận
mang tính khái quát về những nét đặc sắc trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập từ góc nhìn thi pháp thể loại
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chủ yếu khảo sát dựa vào Mười tám truyện ngắn và kịch bản
Đời cát. Tuy nhiên, để làm nổi bật hơn đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Quang
10
Lập chúng tôi sẽ tiến hành so sánh với các nhà văn khác cùng thời, trước và sau
Nguyễn Quang Lập.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1 Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống giúp cho việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn
Quang Lập hiện lên trong tính chỉnh thể chứ không phải là những tác phẩm đơn lẻ.
Việc sử dụng phương pháp hệ thống còn giúp ta nhìn thấy sự vận động

của truyện ngắn Nguyễn Quang Lập và sự vận động của truyện ngắn Việt Nam
trong những năm qua.
5.2 Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp này nhằm làm rõ những nét đặc trưng khác biệt của truyện
ngắn Nguyễn Quang Lập so với các tác giả truyện ngắn khác, giữa văn học thời
kỳ đổi mới và văn học trước đó.
5.3 Phương pháp phân tích, tổng hợp
Để cho vấn đề được sáng rõ, có tính thuyết phục và thấy được một cách cụ
thể, sâu sắc, toàn diện những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn qua thế giới của họ
chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sáng tác của nhà văn Nguyễn
Quang Lập từ góc nhìn thi pháp thể loại. Thông qua quá trình nghiên cứu chúng
11
tôi muốn ghi nhận sự đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn học
Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của luận văn
7. Cấu trúc luận văn
Nội dung
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Quang Lập trong sự vận động của truyện
ngắn Việt Nam sau năm 1975
Chương 2: Cốt truyện và nhân vật
Chương 3: Tổ chức trần thuật

Kết luận
Tài liệu tham khảo



12
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG LẬP TRONG
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU NĂM
1975
1.1. Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới – một cái nhìn tổng quát
1.1.1 Chuyển mình theo hướng đa dạng hóa
Lịch sử nước ta sang trang từ năm 1975 nhưng văn học không sang trang
trùng khít cùng lịch sử. Nhiều nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất với ý kiến:
Văn học Việt Nam những năm 1975- 1980 vẫn tiếp tục vận động, phát triển theo
quán tính cũ. Nghĩa là các nhà văn vẫn sáng tác theo khuynh hướng thẩm mỹ, tư
duy, thi pháp cũ… Nhưng cuộc sống hôm nay đã có nhiều thay đổi, nhu cầu, thị
hiếu thẩm mỹ của độc giả cũng không còn như trước mà văn học lại không hề
thay đổi. Chính vì vậy nó trở nên xa lạ với cuộc sống, người đọc thờ ơ quay lưng
lại với các sáng tác đương đại, họ tìm về với văn học quá khứ hoặc tìm đến với
các tác phẩm văn học nước ngoài.
Tình trạng văn học nước ta thời kỳ này rất đáng buồn. Nói như nhà văn
Nguyên Ngọc: “Tình trạng văn học nước ta những năm 1970 - 1980 đúng là tình
trạng khôi hài…” [44]. Tuy nhiên tình hình văn học cũng không đến nỗi quá bi
quan. Bởi trong thực tế đã xuất hiện một số tác phẩm với những dấu hiệu đổi
mới đầu tiên mở màn cho công cuộc đổi mới về sau: Hai người trở lại trung
đoàn (Thái Bá Lợi), Bức tranh (Nguyễn Minh Châu), Cha và con và…(Nguyễn
Khải)… Những tác phẩm này đã có những đổi mới quan trọng trong quan niệm
13
về con người, không còn kiểu nhân vật phân tuyến rạch ròi tốt xấu mà đã xuất

hiện những nhân vật, những con người lưỡng diện, con người của sự phức hợp,
lẫn lộn giữa cái tốt và xấu, giữa cái cao cả và cái thấp hèn. Ở truyện ngắn Bức
tranh đã có một kiểu nhân vật mới, có thể nói chưa từng có mặt hoặc rất hiếm
hoi trong văn xuôi giai đoạn trước, đó là nhân vật tự nhận thức, nhân vật ý thức
(họa sĩ). Cách tiếp cận, thể hiện nhân vật cũng có nhiều thay đổi. Thay cho cái
nhìn sử thi, các nhà văn hôm nay nhìn nhận, thể hiện nhân vật qua cái nhìn thế
sự, đời tư, cá nhân, cá thể. Ngoài ra còn phải kể đến một số phương diện đổi mới
khác về nghệ thuật như: cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu… Nói tóm lại, đây là
những dấu hiệu đầu tiên đầy ý nghĩa đối với sự đổi mới và phát triển văn học.
Vào khoảng đầu những năm 80, đổi mới văn xuôi diễn ra sôi nổi hơn với
sự xuất hiện và thành công trở lại của thể loại phóng sự, một thể loại đặc biệt có
khả năng bám sát đời sống, tức thì phanh phui những sự thực ngổn ngang của
đời sống xã hội. Sự phục hồi và phát triển nở rộ của thể loại này chứng tỏ văn
học nước ta đã khám phá ra một miền hiện thực mới, hiện thực bề bộn, đa đoan,
đa sự của cuộc sống hôm nay. Nhưng điều quan trọng hơn là nhờ sự nở rộ của
thể loại phóng sự mà tiểu thuyết phóng sự cũng được phục hồi và phát triển. Tiêu
biểu như: Đứng trước biển, Cù lao chàm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Hạt mùa sau
(Nguyễn Thị Ngọc Tú)… Những tác phẩm này giống như những thiên phóng sự
dài, đầy ắp sự kiện và được viết một cách hối hả, hăm hở, kể tả là chính nên chưa
thực sự có được những kết tinh văn học. Tuy nhiên, chúng vẫn hấp dẫn người
đọc bởi khối lượng thông tin, chất lượng và giá trị hiện thực của những thông tin
ấy. Ở đây cũng có nhiều dấu hiệu đổi mới về tư duy nghệ thuật, về thi pháp sáng
tác. Trước hết là những thay đổi trong chất liệu sáng tác. Không còn kiểu chất
liệu cũ, những sự kiện, biến cố quan trọng trong đời sống sản xuất và chiến đấu,
14
mà là cuộc sống đời thường, cuộc sống mưu sinh hôm nay với bộn bề những khó
khăn, thử thách. Cũng không còn cái nhìn đơn giản, dễ dãi về hiện thực và con
người. Hiện thực đã có sự mở rộng về dung lượng, có sự bổ sung của những
miền hiện thực mới, những mảng tối, những mặt tiêu cực, phản diện. Nhân vật
cũng được nhìn từ nhiều chiều, mỗi nhân vật là một nhân cách với những cá tính

sinh động, không còn cái nhìn cực đoan, phân tuyến như trong thời kỳ kháng chiến.
Cùng thời gian này còn có sự xuất hiện của một loạt các tiểu thuyết,
truyện ngắn với những dấu hiệu đổi mới khá rõ rệt: Những bông bần ly (Tập
truyện ngắn – Dương Thu Hương, 1981), Thời xa vắng (Tiểu thuyết – Lê Lựu,
1984), Mùa lá rụng trong vườn (Tiểu thuyết – Ma Văn Kháng, 1985)… Tuy
nhiên phải đến năm 1986 khi có sự gặp gỡ giữa nhu cầu đổi mới của tự thân văn
học và khả năng khơi đúng mạch đổi mới của Đảng thì sự đổi mới của văn xuôi
mới có những bước đi mạnh mẽ, táo bạo và gặt hái được nhiều thành công, từ đó
tạo nên một gương mặt mới cho giai đoạn văn học mới.
Cũng phải nói rằng trong công cuộc đổi mới văn học, truyện ngắn là thể
loại đi tiên phong và đạt được nhiều thành tựu hơn cả. Do dung lượng ngắn gọn,
truyện ngắn đặc biệt thích hợp với loại hình báo chí. Trong thời đại bùng nổ của
báo chí, phụ san, tạp san như hiện nay nó càng có điều kiện phát triển. Cũng nhờ
đặc điểm này nên truyện ngắn luôn có mặt kịp thời trước mọi biến chuyển của
cuộc sống. Mà trong gần 80 mươi năm qua, đời sống đất nước ta đã trải qua
nhiều biến đổi mạnh mẽ sâu sắc. Truyện ngắn là thể loại rất thích hợp để nhà văn
nhanh chóng tìm hiểu, khám phá và phát biểu ý kiến trước những vấn đề nóng
bỏng đang dặt ra trong xã hội. Truyện ngắn đã vượt qua sự kể lể dài dòng “nhanh
chóng dồn nén lại, đúc đến đặc sệt và nhọn hoắt ngay hiện thực”. Nhờ những lý
do trên mà có thể nói truyện ngắn thời kỳ này tỏ ra hiệu quả trong việc biểu đạt
15
những trạng thái chuyển đổi đời sống. Nó sớm đạt đến tính xã hội cao, đi thẳng
vào những vấn đề số phận con người, những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc trong đời
sống nhân sinh thế sự. Nói chung, truyện ngắn sau 1975 đã đạt được những
thành tựu xuất sắc cả về số lượng và chất lượng tác phẩm. Dưới đây chúng ta sẽ
tìm hiểu một số phương diện đổi mới cơ bản của thể loại truyện ngắn trong sự
thay đổi của văn xuôi sau 1975.
1.1.2 Quan niệm mới về hiện thực
Hiện thực đa dạng và phức tạp của cuộc sống luôn là đối tượng phản ánh
của văn học. Nhưng mỗi nền văn học lại có một quan niệm riêng về hiện thực.

Bởi văn học bao giờ cũng thể hiện mối quan hệ giữa hiện thực khách quan và ý
thức chủ quan, bao giờ cũng là kết quả của sự nhào nặn những chất liệu cuộc
sống qua cái nhìn riêng biệt của nhà văn.
Nền văn học chân chính nào cũng gắn liền với thời đại của mình, với đông
đảo công chúng của thời đại ấy. Văn học 1945 - 1975 cũng vậy, nó nhận rõ sứ
mệnh lịch sử của bản thân trong sự nghiệp xây dựng giải phóng đất nước, nên tự
nguyện trở thành vũ khí đấu tranh đắc lực cho công nông binh, phục vụ cho các
nhiệm vụ cách mạng. Chính vì vậy “Thước đo giá trị của một nền văn học là nó
phục vụ được bao nhiêu cho sự nghiệp cách mạng”[32]. Từ định hướng giá trị
như trên, truyện ngắn trong những năm chiến tranh đề cao nhiệm vụ cổ vũ chiến
đấu, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, thể hiện niềm tin vào thắng lợi, đề cao ý thức
cộng đồng, lí tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cũng bởi vậy hiện
thực được phản ánh thường là những biến cố lớn lao, những sự kiện quan trọng
trong sản xuất hoặc trong chiến đấu. Ít đề cập đến những vấn đề đời tư, cá nhân
và nếu có cũng sơ lược hoặc chỉ để làm nổi bật ý nghĩa của cuộc cách mạng,
16
kháng chiến: Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Mùa lạc – Nguyễn Khải, Những đứa
con trong gia đình – Nguyễn Thi, Vì mục đích động viên, cổ vũ cho các nhiệm
vụ cách mạng, thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin vào chiến thắng, truyện thời
kì 1945 – 1975 nhiều khi đã không tránh khỏi cái nhìn đơn giản, một chiều, cái
nhìn lí tưởng hóa, lãng mạn hóa về hiện thực. Hiện thực chiến tranh khốc liệt
nhiều khi được miêu tả rất đẹp, rất nên thơ (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn
Minh Châu), sự đông đúc, vui vẻ, náo nhiệt như ngày hội (Ráng đỏ - Đỗ Chu,
Bên đường chiến tranh - Cao Duy Thỉnh).
Sau 1975, hưởng ứng chủ trương của Đảng “Đổi mới tư duy, nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”, văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng
đã có những chuyển biến rõ rệt về quan niệm hiện thực.
Truyện ngắn hôm nay đã có sự mở rộng dung lượng hiện thực, có sự bổ
sung của những miền hiện thực mới mà trước đây chưa có hoặc rất ít, rất sơ lược.
Đó là mặt trái của cuộc sống sản xuất và chiến đấu, những khó khăn, những thất

bại, những sai lầm thiếu sót và cả những sự tha hóa, những sự phản bội hèn nhát,
những mâu thuẫn trong đội ngũ cán bộ cách mạng: Hồn trinh nữ - Võ Thị Hảo,
Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam – Nguyễn Minh Châu Đó là sự chuyển đổi từ
một hiện thực giới hạn trong các biến cố, các sự kiện chính trị, lịch sử đến một
miền hiện thực rộng lớn hơn của đời sống nhân sinh thế sự. Với rất nhiều những
khổ đau, mất mát, bất hạnh bi kịch, những nhức nhối trong đạo đức xã hội, thế
thái nhân tình, những vấn đề không dễ gì tìm thấy trong văn học sử thi ba mươi
năm chiến tranh: Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp, Thiếu phụ chưa chồng -
Nguyễn Thị Thu Huệ
17
Từ những chủ trương đúng đắn của Đảng, đặc biệt là sự dân chủ hóa trong
đời sống sáng tác mà hiện thực trong văn xuôi hôm nay được nhìn từ nhiều
chiều, được phản ánh toàn diện không chỉ bằng kinh nghiệm của cả cộng đồng
mà còn bằng kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Trước kia, hiện thực được phản ánh
duy nhất trên lập trường tư tưởng của Đảng nên chúng thường giống nhau, cách
xử lý cũng giống nhau. Và như vậy nhà văn đã đánh mất cá tính và phong cách
sáng tác. Bước vào thời kì đổi mới mỗi nhà văn có quyền trình bày những ý kiến
riêng và bằng những cách thể hiện, phản ánh khác nhau về hiện thực. Văn học
một thời kháng chiến đã có quan niệm cứng nhắc về hiện thực, nhiều lúc người
ta đã cực đoan đến mức đối chiếu hiện thực trong tác phẩm với hiện thực đời
sống và đòi hỏi hiện thực văn học phải chính xác, phải giống như sự sao chụp
đời sống. Văn xuôi sau 1975 nói chung và truyện ngắn nói riêng đã có một quan
niệm khác hẳn về hiện thực. Hiện thực trong tác phẩm không nhất thiết phải có
thật. Có khi đó là những điều hoàn toàn bịa đặt, những chuyện hoang đường ma
quái, những truyện đầy màu sắc huyền thoại: Thiên sứ - Phạm Thị Hoài, Bến
trần gian – Lưu Sơn Minh, Tim vỡ - Võ Thị Hảo, Con gái thủy thần, Vàng lửa,
Kiếm sắc, Phẩm tiết – Nguyễn Huy Thiệp, Ở những tác phẩm này, mục đích
của nhà văn không phải là tái hiện hay mô tả hiện thực mà là suy ngẫm về hiện
thực. Hơn nữa những tác phẩm ấy xét đến cùng vẫn phản ánh cuộc sống hôm nay
thậm chí còn có khả năng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn những tác phẩm trực

tiếp mô tả đời sống. Như vậy, hiện thực đã không phải là tiêu chí đánh giá một
tác phẩm văn học mà nhiều khi chỉ là phương tiện để nhà văn trình bày những tư
tưởng, những chiêm nghiệm về đời sống.
Từ quan điểm như vậy về hiện thực, từ mối quan hệ khá tự do của nhà văn
với hiện thực được lựa chọn, từ điểm nhìn mang kinh nghiệm cá nhân, truyện
18
ngắn hôm nay có thể dung nạp nhiều thủ pháp biểu hiện hiện thực khác nhau. Đó
có thể là những yếu tố kì ảo, huyền thoại thậm chí cả những cái phi lý (Bến trần
gian – Lưu Sơn Minh, Phiên chợ Giát – Nguyễn Minh Châu, Hồn trinh nữ - Võ
Thị Hảo,…). Các yếu tố huyền thoại góp phần làm cho hiện thực đa dạng và
chân thực hơn.
Cùng với việc mở rộng phạm vi phản ánh, truyện ngắn ngày càng đi tới
một quan niệm biện chứng và toàn vẹn về hiện thực. Hiện thực không còn giản
đơn, xuôi chiều và có thể biết trước mà chứa đầy những yếu tố ngẫu nhiên, yếu
tố phi lý, tốt đẹp và xấu xa. Chúng tác động sâu sắc đến cuộc sống con người.
Không phải lúc nào con người cũng chiến thắng cũng vượt lên hoàn cảnh mà
ngược lại.
1.1.3 Quan niệm nghệ thuật mới về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người là “Sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy
con người đã được hóa thân thành những nguyên tắc, phương tiện biện pháp thể
hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình
tượng nghệ thuật trong đó”[59]. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cũng khẳng định
rằng “Một nền nghệ thuật mới bao giờ cũng ra đời cùng với con người mới”.
Phát hiện lớn nhất trong văn xuôi 1945 – 1975 có thể nói chính là quan niệm con
người quần chúng, con người tập thể. Sau năm 1975, với sự thức tỉnh và trỗi dậy
của con người cá nhân, quan niệm con người cá nhân, cá thể trở lại trong văn học
nhưng phát triển trên một tầm cao mới so với văn học giai đoạn 1930 – 1945.
Truyện ngắn thời kỳ kháng chiến chủ yếu quan tâm đến con người công
dân, con người chính trị, rất ít để ý đến đời sống riêng tư của mỗi cá nhân mà
nếu có chỉ là phương diện thái độ của cá nhân đối với sự nghiệp chung, đối với

19
đồng bào, đồng chí (Mùa lạc – Nguyễn Khải, Anh Keng – Nguyễn Kiên, Mảnh
trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu,…). Sau năm 1975, đã có sự đổi mới rõ
rệt về quan niệm con người. Con người trong truyện ngắn hôm nay chủ yếu là
con người cá nhân, cá thể, con người hiện thực đời thường đầy bí ẩn phức tạp.
Không còn những quan niệm giản đơn, phân tuyến về con người, không còn kiểu
con người hoàn toàn tốt đẹp hay hoàn toàn xấu xa. Con người trong truyện ngắn
hôm nay là con người hiện thực nên có thể chứa đựng trong mình tất cả sự cao
thượng lẫn sự thấp hèn, ánh sáng lẫn bóng tối, thần thánh lẫn ma quỷ… Nhân vật
trong truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu cũng đã tự nhận xét về
mình như vậy: “Trong tôi đang sống lẫn lộn người tốt, kẻ xấu, rồng phượng lẫn
rắn rít, thiên thần và ác quỷ”[4].
Thanh Thảo trong Khối vuông rubíc cho rằng: “Người ta đã nhìn trái đất
từ nhiều hướng và trái đất chưa bao giờ được khám phá hết. Người ta đã thăm
dò con người bằn nhiều cách mà con người vẫn là một bí mật” [56].
Truyện ngắn 1945 – 1975 đã xây dựng được nhiều nhân vật điển hình khá
sâu sắc và sinh động tuy nhiên đó mới chỉ là những điển hình xã hội, điển hình
giai cấp, nhân vật còn thiếu những nét cá tính riêng độc đáo. Sự vận động của số
phận, tính cách nhân vật cũng khá đơn giản, xuôi chiều và thường theo hướng có
hậu. Mà thực tế thì sự biến đổi của tư tưởng, tính cách, số phận nhân vật là hết
sức phức tạp, đa dạng, muôn hình muôn vẻ, rất khó giải thích và nhiều khi còn
không thể lí giải. Con người trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới được phản ánh
trung thực hơn, sống động hơn nên nó không chỉ phức tạp, lưỡng diện mà còn
đầy bí ẩn. Lắm khi người đọc hay chính nhà văn – người sáng tạo ra nhân vật
cũng không thể tưởng tượng hay dự kiến trước được hành động của nó. Người
lính trong truyện ngắn Một quãng đời và cả cuộc đời (Phạm Duy Tương) cũng
20
không hiểu tại sao đang căm giận, thù ghét người vợ phản bội, tại sao đã li hôn
mà bỗng nhiên anh lại tha thứ, lại bỏ qua tất cả “Sau này nhiều người hỏi lúc ấy
lòng tôi xảy ra điều gì? Sự mềm yếu hay dằn vặt, luyến tiếc hay run sợ, anh hùng

hay hèn nhát, nghĩ đến mẹ hay nghĩ đến con, thương cô ta hay thương mình?
Không có điều gì xảy ra nhưng cũng có thể xảy ra tất cả những điều đó. Tâm
linh hay cái gì đó na ná như thế đã thôi thúc tôi quay xe trở lại” [70].
Truyện ngắn 1945 – 1975 do quán xuyến bởi quan niệm con người tập thể,
con người quần chúng nên nhân vật thường được thể hiện trong các sự kiện, biến
cố lịch sử hơn là những quan hệ, biến cố đời tư. Truyện ngắn sau 1975 lại hoàn
toàn ngược lại, do quan niệm con người cá nhân, con người cá thể nên nhân vật
thường được thể hiện qua các quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua
miền ý thức, vô thức đầy bí ẩn phức tạp. Cùng với hướng khám phá, thể hiện
mới mẻ về con người như vậy, truyện ngắn hôm nay đã hình thành một số kiểu
con người mới: con người tự nhiên, con người tâm linh, con người tự nhận thức.
Xuất phát từ con người cá nhân, con người hiện thực đời thường, các cây
bút truyện ngắn đã thể hiện khá sâu sắc và thành công con người tự nhiên, con
người sinh học. Điều đó thể hiện nhu cầu về một hạnh phúc đời thường, một tình
yêu tự nhiên trần thế với những cảm xúc nhục thể.
Quan niệm con người tự nhiên chính là một biểu hiện của con người cá thể
là nét mới của truyện ngắn sau 1975. Trước đây việc nhận thức và phản ánh con
người tự nhiên rất hạn chế thậm chí bị cấm kị. Nhìn lại quá trình phát triển của
văn học dân tộc chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó. Con người tự nhiên
mới chỉ xuất hiện ở hình tượng thị Mầu, vài nét ở Hồ Xuân Hương, Nguyễn
21
Du… và trỗi dậy mạnh mẽ hơn ở Vũ Trọng Phụng, nhưng để trở thành một quan
niệm nghệ thuật thì phải đến văn học sau năm 1975.
Xây dựng con người tự nhiên, phần lớn các nhà văn đều khai thác nhu cầu
hạnh phúc đời thường về một tình yêu trần thế (Dải lụa – Dương Duy Ngữ;
Truyền thuyết Quán Tiên – Xuân Thiều, Họ đã trở thành đàn ông – Phạm Ngọc
Tiến) hoặc phản ánh một số biểu hiện của bản năng tính dục như: hành động
chiếm đoạt, giao hoan, ngoại tình, những chi tiết này thường gắn với cảm hứng
phê phán sự sa đọa, sự tha hóa, loạn luân, sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo
đức, nhân cách con người (Những người thợ xẻ, Không có vua – Nguyễn Huy

Thiệp, Thiếu phụ chưa chồng – Nguyễn Thị Thu Huệ, Thung lũng hoa vàng –
Huỳnh Thạch Thảo…).
Nhìn chung, đưa ra những khía cạnh của con người tự nhiên các tác giả
đều nhằm thể hiện những khát vọng nhu cầu hết sức nhân bản hoặc để nêu bật sự
sụp đổ trong đạo đức, nhân cách để kêu gọi, thức tỉnh con người.
Với sự tôn trọng con người cá nhân, cá thể, truyện ngắn sau 1975 bắt đầu
quan tâm đến con người tâm linh. Con người của tâm linh “là sản phẩm của trực
giác”, đã xuất hiện khá lâu trong văn học truyền thống (Việt điện u linh, Truyền
kì mạn lục, Truyện Kiều). Trong văn học hiện đại, ở một số sáng tác của Nguyễn
Tuân, Thạch Lam cũng đã lấp ló con người tâm linh nhưng khái niệm này nói
chung còn xa lạ. Văn xuôi giai đoạn 1945 – 1975 do một số lí do đặc biệt mà con
người tâm linh không xuất hiện, những tác phẩm có chứa những yếu tố vô thức.
huyền bí, kì ảo bị coi là duy tâm thậm chí là lên án, phê phán gay gắt. Từ sau
năm 1975, con người tâm linh mới trở lại trong văn học và trở thành một quan
niệm nghệ thuật. Đã có nhiều ý kiến khẳng định vai trò của văn xuôi hôm nay là
22
đi vào cõi tâm linh, vô thức của con người. Nhà văn Bùi Hiển cho rằng: “Văn
học với chức năng của nó là khám phá bản thể con người, lẽ tất nhiên nó rất
khao khát soi tìm vào những miền u uẩn, ảo của nội tâm, vào những động cơ
thầm kín đến mức tối tăm của những ứng xử ý thức…các hiện tượng mà người ta
gọi là siêu tâm lý” (Báo Văn nghệ số 8 – 1969).
Để thể hiện con người tâm linh, các nhà văn thường sử dụng các yếu tố
thiêng liêng, thần bí như những giấc mơ điềm báo, mộng mị, những chuyện bói
toán, tử vi…(Phiên chợ Giát – Nguyễn Minh Châu, Bến trần gian – Lưu Sơn
Minh, Giọt máu, Chảy đi sông ơi – Nguyễn Huy Thiệp…).
Con người tâm linh là một phương diện không thể phủ nhận trong thực tế.
Tuy nhiên để giải thích một cách chặt chẽ, thấu triệt là không đơn giản. Trong
khi các ngành khoa học khác có khuynh hướng phủ nhận phương diện thần bí
này, thì văn học với khả năng thẩm mĩ riêng lại tỏ ra khá thành công. Việc phản
ánh con người từ thế giới tâm linh, tiềm thức, vô thức khiến con người được nhìn

nhận một cách toàn diện, sâu sắc, chân thực, sống động và hiện thực hơn trong
tác phẩm.
Một phương diện khác của con người cá nhân, cá thể là con người tự nhận
thức. “Con người tự nhận thức là con người được nhìn từ bên trong, là con
người trầm tư, nghiền ngẫm, nhận diện chính mình” [28]. Con người tự nhận
thức có năng lực phản ánh, tự ý thức về mình (nhân vật họa sĩ- Bức tranh-
Nguyễn Minh Châu, Vị đại tá- Chị Dâu- Hoàng Tuấn, Vân- Thảm cỏ trên trời-
Ngô Thị Kim Cúc, ). Nhân vật tự nhận thức gắn liền với sự thức tỉnh ngày càng
cao về giá trị con người, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trong quan niệm con
người. Bởi “sự vận động, phát triển của văn học là từ chỗ mô tả quá trình nhận
23
thức của nhà văn đến quá trình tự nhận thức của nhân vật. Nhân vật từ chỗ nhận
thức thế giới xung quanh, đánh giá, phán xét người khác đến chỗ tự phân tích,
khám phá chính bản thân mình”[28].
Con người trong văn xuôi ba mươi năm chiến tranh, được thể hiện bằng
các hoạt động có tính chất hướng ngoại là chính, ít có những trang miêu tả thế
giới nội tâm hay sự tự nhận thức, ý thức của nhân vật. Truyện ngắn thời kì đổi
mới đã khắc phục nhược điểm đó bằng một quan niệm đầy đủ, toàn diện, hiện
thực và sống động về con người- con người cá nhân, cá thể. Đó là sự kết hợp hài
hòa giữa chất sinh vật và chất xã hội, giữa tính cá nhân và tính cộng đồng, giữa
những phẩm chất truyền thống và những tính cách hiện đại.
1.1.4 Đổi mới về thi pháp
Theo triết học Mác, giữa nội dung và hình thức luôn có mối quan hệ chặt
chẽ. Nội dung luôn quyết định hình thức, hình thức cũng có tác động trở lại với
nội dung. Khi nội dung thay đổi, hình thức cũng thay đổi cho phù hợp. Ở văn
học cũng vậy. Cùng với sự biến đổi về nội dung sáng tác, về tư duy nghệ thuật,
truyện ngắn sau 1975 cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ về hình thức nghệ thuật.
Dưới đây người viết xin trình bày một số phương diện đổi mới nổi bật như đổi
mới về điểm nhìn trần thuật, đổi mới về giọng điệu, ngôn ngữ, cốt truyện và kết
cấu tác phẩm.

Ở truyện ngắn 1945-1975, điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm thường là
duy nhất, đó là điểm nhìn trần thuật của tác giả. Nhà văn sáng tác trên cơ sở lập
trường, tư tưởng của Đảng nên tư tưởng, điểm nhìn của họ là luôn luôn và duy
nhất đúng. Cũng chính vì vậy mà nhà văn luôn là người độc quyền phán truyền
chân lí, người đọc chỉ thụ động tiếp nhận. Tác phẩm cũng có nhiều nhân vật, có
24
các ý kiến khác nhau nhưng cuối cùng cũng chỉ để khẳng định điểm nhìn của nhà
văn. Sau năm 1975, cùng với sự thay đổi trong quan niệm hiện thực, quan niệm
con người, quan hệ giữa nhà văn và công chúng cũng thay đổi. Các tác phẩm văn
xuôi không còn tính độc thoại mà chuyển dần sang tính đa thanh các nhân vật
không phải là sự hóa thân khác nhau của tác giả mà là những nhân cách có lập
trường, tư tưởng, có quan niệm ý kiến riêng, chúng bình đẳng với nhau và bình
đẳng trong quan hệ với nhà văn. Trong truyện ngắn hôm nay, có nhiều điểm nhìn
trần thuật: điểm nhìn của nhà văn, điểm nhìn nhân vật, mỗi người đọc cũng lại có
một điểm nhìn riêng. Tuy nhiên như nhận xét của tiến sĩ Nguyễn Thị Bình: “Sự
đối thoại trong các tác phẩm văn học hôm nay chủ yếu mới ở trên bình diện
quan niệm tư tưởng, còn việc tổ chức một cuộc đối thoại có sự tham gia của
nhiều ý thức độc lập thông qua hình tượng nhân vật thì chưa nhiều”[3].
Cảm hứng chủ đạo trong văn học kháng chiến là cảm hứng sử thi nên
ngôn ngữ văn học giai đoạn này thường là ngôn ngữ mực thước, trang trọng, đẹp
đẽ. Sau 1975 với cảm hứng thế sự, đời tư, toàn bộ hiện thực đời sống ngổn
ngang, bừa bộn, lẫn lộn cái tốt, cái xấu, cái cao đẹp, cái thấp hèn, cái thiện, cái
ác,…ùa vào văn học. Biểu hiện phản ánh một hiện thực như vậy ngôn ngữ buộc
phải thay đổi. Trong truyện ngắn thời kì đổi mới bên cạnh kiểu ngôn ngữ cũ,
xuất hiện kiểu ngôn ngữ giản dị, đời thường thậm chí có lúc cộc lốc, gai góc,
sống sượng…
Truyện ngắn 1945-1975 do yêu cầu đại chúng phải đơn giản, dễ hiểu, nên
kiểu ngôn ngữ đa nghĩa, giầu hình ảnh, biểu tượng không nhiều… Truyện ngắn
sau 1975 lại có chiều hướng ngược lại. Do trình độ của công chúng được nâng
cao, do văn học đã có điều kiện trở lại với chính mình nên ngôn ngữ ngày càng

giàu hình ảnh, giàu biểu tượng ý nghĩa.
25
Do cảm hứng sáng tác chủ đạo là cảm hứng hứng sử thi nên truyện ngắn
1945 - 1975 có giọng điệu chính là giọng ngợi ca, với các biến thể của nó là:
giọng hào sảng, giọng vui tươi, tự hào, tin yêu thán phục. Sau năm 1975, với sự
đa dạng trong cảm hứng sáng tác, sự đa dạng trong hiện thực phản ánh mà giọng
điệu cũng có nhiều biến đổi. Bên cạnh những giọng điệu cũ đã xuất hiện nhiều
giọng điệu mới: giọng buồn, chua xót, tiếc nuối, giọng châm biếm, sâu cay, chua
chát, giọng triết lý, giọng lạnh lùng đầy từng trải, lọc lõi…
Về phương diện cốt truyện, truyện ngắn sau 1975 cũng có nhiều đổi mới
quan trọng. Nếu truyện ngắn 1945-1975 phổ biến kiểu cốt truyện truyền thống
(nặng về tình tiết, biến cố, sự kiện; sức hấp dẫn của truyện phụ thuộc vào sự phát
triển của cốt truyện, sự phát triển của các biến cố…) thì truyện ngắn sau 1975 lại
phổ biến kiểu cốt truyện tâm trạng, kiểu truyện không có cốt truyện. Thực ra
kiểu cốt truyện truyền thống vẫn còn nhưng nó cũng có nhiều biến đổi như nới
rộng cốt truyện, giảm dần tình tiết, biến cố để tăng phần cảm xúc, tâm trạng nhân vật.
Cốt truyện trong sáng tác văn học 1945-1975 thường phải đầy đủ năm thành
phần (trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, kết thúc). Truyện ngắn hôm nay không
đòi hỏi phải đầy đủ như vậy, thậm chí còn có thể đảo lộn các thành phần cốt truyện.
Các kiểu kết thúc cũng rất đa dạng, phong phú: có kiểu kết thúc ngỏ, kiểu kết thúc
có nhiều đoạn kết, kiểu kết thúc sử dụng yếu tố kì ảo, huyền thoại…
Trên đây là một số phương diện đổi mới nổi bật về tư duy nghệ thuật, về
thi pháp sáng tác trong truyện ngắn sau 1975. Truyện ngắn sau 1975 như đã nói
là thể loại vượt trội so với các thể loại văn xuôi khác. Nên tìm hiểu về nó, tìm
hiểu về sự đổi mới của truyện ngắn sẽ giúp chúng ta nhìn nhận rõ nhất những
thành tựu đổi mới của văn xuôi nói chung.

×