Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Ảnh hưởng của sự phát triển đô thị đến môi trường đất các xã, phường phía Đông Nam và Tây Nam thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2008 – 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 72 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




LÊ THỊ MINH

Tên đề tài:

ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ ĐẾN MÔI TRƯỜNG ĐẤT
CÁC XÃ, PHƯỜNG PHÍA ĐÔNG NAM VÀ TÂY NAM THÀNH PHỐ THÁI
NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2008 – 2013




KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học Môi trường
Khoa : Môi Trường
Khoá học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Thế Đặng
Khoa Môi trường – Trường Đại học Nông Lâm






THÁI NGUYÊN - 2014
LỜI CẢM ƠN

Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành”, thực tập tốt nghiệp là thời
gian để mỗi sinh viên sau giai đoạn thực tập tại trường có điều kiện củng cố và vận
dụng các kiến thức đã học vào thực tế. Đây là giai đoạn không thể thiếu với mỗi
sinh viên các trường Đại học nói chung và Đại học Nông Lâm nói riêng.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn GS.TS.
Nguyễn Thế Đặng đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian thực hiện khóa luận tốt
nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa
Quản Lý Tài Nguyên và Khoa Môi Trường, các thầy giáo, cô giáo, cán bộ trong
khoa Quản Lý Tài Nguyên và Khoa Môi Trường - Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên đã truyền đạt cho em các kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong quá trình
học tập và rèn luyện tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo Phòng TN&MT, UBND thành phố
Thái Nguyên, các cán bộ và các anh chị trong phòng TN&MT đã giúp đỡ em trong
quá trình thực tập vừa qua.
Qua đây em xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã quan
tâm, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cũng như
hoàn thành khóa luận này.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 05 năm 2014
Sinh viên


Lê Thị Minh







DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Kí hiệu Ý nghĩa
1 BVMT Bảo vệ môi trường
2 CCN Cụm công nghiệp
3 CN Công nguyên
4 CNH,HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
5 ĐH Đại học
6 ĐTM Đánh giá tác động môi trường
7 GDP Tốc độ tăng trưởng
8 KCN Khu công nghiệp
9 KHKT Khoa học kỹ thuật
10 KLN Kim loại nặng
11 KT - XH Kinh tế - xã hội
12 Nxb Nhà xuất bản
13 P Phường
14 PTĐT Phát triển đô thị
15 QCCP Quy chuẩn cho phép
16 QCVN Quy chuẩn Việt Nam
17 QH Quy hoạch
18 TP Thành phố
19 TN&MT Tài Nguyên và Môi Trường
20 UBND Ủy ban nhân dân




1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là
tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được đối với các ngành sản xuất
nông lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là nền
tảng cho sự sống của con người và nhiều sinh vật khác.
Dưới tác động của cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc về mọi mặt. Nền kinh tế đất nước đang xây dựng theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp là cơ sở để quá trình đô thị hóa được đẩy
mạnh. Theo thống kê tính đến hiện nay Việt Nam có 758 đô thị, trong đó có 2 đô
thị đặc biệt là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh, cả nước có 5 đô thị trực thuộc
trung ương và 10 đô thị loại một. Dân số ở các đô thị theo đó cũng ngày càng tăng.
PTĐT nhanh, công nghiệp phát triển là những tiêu chuẩn để đánh giá sự tăng trưởng
của một đất nước, làm cho đời sống kinh tế đất nước có những khởi sắc. Cùng với sự
phát triển KT-XH của đất nước, vấn đề phát triển đô thị không còn là việc tạo ra cái
bề thế, cái hoành tráng của quần thể đô thị, thỏa mãn nhu cầu không chỉ của nhà
nước, của cả cộng đồng và của cả cá nhân, mà còn giải quyết các tranh chấp và mâu
thuẫn trong sử dụng đất, sức ép lên tài nguyên, ô nhiễm môi trường tự nhiên, vấn đề
giải quyết việc làm, nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội,… Hiện nay, cùng với xu hướng
phát triển của thế giới thì quá trình phát triển đô thị đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ
tới môi trường đất.
Thái Nguyên là một tỉnh ở phía Đông Bắc Việt Nam, tiếp giáp với thủ đô Hà
Nội và là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Thành phố Thái Nguyên
đang trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và hiện đại hoá với tốc độ phát
triển cao và nhanh chóng. Quá trình phát triển đô thị diễn ra trên bình diện rộng, đã
làm biến đổi bộ mặt kinh tế, văn hoá, xã hội và kiến trúc của cả thành phố.
Hoà theo xu thế đó, tốc độ phát triển đô thị đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ

tới môi trường tại tỉnh Thái Nguyên nói chung và thành phố Thái Nguyên nói
riêng. Trong thời kì đổi mới, nền kinh tế của thành phố phát triển khá nhanh, quá
trình phát triển đô thị được đẩy mạnh, đặc biệt Thành phố Thái Nguyên trở thành

2
đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên môi trường tự nhiên đang bị ô
nhiễm đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đối với thành phố và chất lượng cuộc sống
của dân cư.
Để đảm bảo cho Thành phố Thái Nguyên được mở rộng hơn về quy mô
không gian, dân số, cơ sở kinh tế - kỹ thuật, hạ tầng xã hội đạt được sự phát triển
bền vững, cần thiết phải nghiên cứu tác động đến môi trường của quá trình phát
triển đô thị ở thành phố Thái Nguyên. Điều kiện tối ưu quá trình phát triển đô thị
nhằm giữ vững cân bằng và nâng cao chất lượng môi trường sống, bảo đảm sự phát
triển bền vững là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong chiến lược phát triển
của TP.Thái Nguyên. Cho đến nay chưa có một nghiên cứu hệ thống về tác động
của quá trình phát triển đô thị đến môi trường đất ở thành phố Thái Nguyên.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà
khoa học đi trước trong lĩnh vực môi trường đô thị, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài “Ảnh hưởng của sự phát triển đô thị đến môi trường đất các xã, phường
phía Đông Nam và Tây Nam thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2008 – 2013”
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Phân tích, đánh giá những tác động của quá trình phát triển đô thị đến môi
trường đất các xã, phường phía Đông Nam và Tây Nam thành phố Thái Nguyên,
làm căn cứ để đề xuất các giải pháp phát triển đô thị, bảo vệ môi trường đất ở thành
phố Thái Nguyên.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động đến môi trường
của quá trình phát triển đô thị.
- Phân tích hiện trạng và những biến đổi của môi trường đất, ảnh hưởng của

PTĐT đến môi trường đất ở các phường, xã phía Đông Nam và Tây Nam thành phố
Thái Nguyên.
- Đề xuất các giải pháp quản lý, giám sát quá trình phát triển đô thị và giảm
thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường đất ở thành phố Thái Nguyên.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm sáng tỏ được những đặc điểm của quá
trình phát triển đô thị, hiện trạng và những biến đổi của môi trường đất. Từ đó góp

3
phần hoàn thiện về phương pháp luận cũng như phương pháp nghiên cứu về quá
trình phát triển đô thị trong xu thế phát triển bền vững.
Đề tài đánh giá được những tác động tiêu cực đến môi trường đất của quá
trình phát triển đô thị ở các xã, phường phía Đông Nam và Tây Nam, thành phố
Thái Nguyên và đề xuất các giải pháp kiểm soát quá trình phát triển đô thị, BVMT
nhằm mục đích phát triển đô thị thành phố Thái Nguyên theo hướng bền vững. Đây
sẽ là những thông tin hữu ích đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản
lý đô thị nhằm kiểm soát và có những giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường đất,
phát triển đô thị theo hướng bền vững.





4
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Những vấn đề cơ bản về đô thị và quá trình phát triển đô thị
2.1.1. Khái quát về đô thị, đô thị hóa và đất đô thị
2.1.1.1. Đô thị và điểm dân cư đô thị

 Khái niệm đô thị
Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt
động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp. [5]
Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu lao động phi nông nghiệp, sống và
làm việc theo kiểu thành thị. [7]
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ, chủ yếu là lao động nông
nghiệp, cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành
có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của một vùng trong
tỉnh hoặc trong huyện (Thông tư 31/TTLD, ngày 20/11/1990 của liên Bộ Xây dựng
và ban tổ chức cán bộ chính phủ).
Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông
nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm chuyên ngành hay trung tâm tổng
hợp; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của một miền, của
một tỉnh, của một huyện hoặc của một vùng trong tỉnh, trong huyện.[2]
 Khái niệm điểm dân cư đô thị
Điểm dân cư đô thị là điểm dân cư tập trung phần lớn những người dân phi
nông nghiệp, họ sống và làm việc theo kiểu thành thị.
Mỗi nước có một quy định riêng về điểm dân cư đô thị.Việc xác định quy
mô tối thiểu của đô thị phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, xã hội của mỗi nước và tỷ
lệ phần trăm dân phi nông nghiệp của đô thị.[5]
 Quy định về đô thị
Ở nước ta theo quy định của Chính phủ, các điểm dân cư được gọi là điểm
dân cư đô thị khi thỏa mãn 5 yêu cầu sau đây:
1. Là trung tâm vùng lãnh thổ hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ nhất định.
2. Quy mô dân số nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn).

5
3. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp lớn hơn hoặc bằng 65% trong tổng số lao
động, là nơi có sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ thương mại hàng hóa phát triển.

4. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị.
5. Mật độ dân cư được xác định tùy theo từng loại đô thị phù hợp với đặc
điểm của từng vùng.
 Một số đặc điểm của điểm dân cư đô thị
a) Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp ở điểm dân cư đô thị chỉ tính trong phạm vi nội thị
Lao động phi nông nghiệp bao gồm những lao động làm việc trong các lĩnh vực:
- Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
- Lao động xây dựng cơ bản.
- Lao động phục vụ: giao thông vận tải, bưu điện, tín dụng, ngân hàng,
thương mại, dịch vụ công, du lịch.
- Lao động trong các cơ quan hành chính, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế,
nghiên cứu khoa học, …
- Những lao động khác ngoài nông nghiệp.
b) Cơ sở hạ tầng đô thị
Cơ sở hạ tầng đô thị là yếu tố phản ánh mức độ phát triển và tiện nghi sinh
hoạt của người dân theo lối sống đô thị. Cơ sở hạ tầng đô thị gồm:
- Hạ tầng kỹ thuật: Giao thông, điện nước, cống rãnh thoát nước, năng
lượng và thông tin, vệ sinh môi trường, …
- Hạ tầng xã hội: nhà ở tiện nghi, các công trình dịch vụ công cộng, văn hóa, xã
hội, giáo dục đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, cây xanh, vui chơi giải trí, …
c) Mật độ dân cư đô thị
Mật độ dân cư là chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung dân cư của đô thị, nó
được xác định trên cơ sở quy mô dân số đô thị tính trên diện tích đất đai nội thị
(người/km2 hoặc người/ha).
Theo tiêu chuẩn đô thị, các đô thị nước ta chưa đạt đầy đủ các yêu cầu,
nhưng chúng đều giữ vai trò là một trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên
nghành của một vùng lãnh thổ nhất định. Mặt khác tính chất và lối sống ở các đô
thị còn chịu ảnh hưởng nhiều của lối sống nông thôn.
 Phân loại đô thị
Tại Điều 4 Nghị định 42/2009/NĐ-CP về việc phân loại đô thị quy định:


6
Đô thị được phân thành 6 loại như sau: loại đặc biệt, loại I, loại II, loại III,
loại IV và loại V được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định công nhận.
1. Đô thị loại đặc biệt là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội
thành, huyện ngoại thành và các đô thị trực thuộc.
2. Đô thị loại I, loại II là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội
thành, huyện ngoại thành và có thể có các đô thị trực thuộc; đô thị loại I, loại II là
thành phố thuộc tỉnh có các phường nội thành và các xã ngoại thành.
3. Đô thị loại III là thành phố hoặc thị xã thuộc tỉnh có các phường nội
thành, nội thị và các xã ngoại thành, ngoại thị.
4. Đô thị loại IV là thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thị và các xã ngoại thị.
5. Đô thị loại IV, đô thị loại V là thị trấn thuộc huyện có các khu phố xây
dựng tập trung và có thể có các điểm dân cư nông thôn.
Các đô thị ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì quy mô dân
số và mật độ dân số có thể thấp hơn, nhưng tối thiểu phải đạt 50% tiêu chuẩn quy
định, các tiêu chuẩn khác phải bảo đảm tối thiểu 70% mức tiêu chuẩn quy định so
với các loại đô thị tương đương.
 Quản lý đô thị
Quản lý đô thị là các hoạt động nhằm huy động mọi nguồn lực vào công tác
quy hoạch, hoạch định các chương trình phát triển và duy trì các hoạt động đó để
đạt được các mục tiêu phát triển.
Quản lý đô thị là một môn khoa học tổng hợp được xây dựng trên cơ sở của
nhiều khoa học chuyên ngành, bao gồm hệ thống chính sách, cơ chế, biện pháp và
phương tiện được chính quyền nhà nước các cấp sử dụng để tạo điều kiện quản lý
và kiểm soát quá trình tăng trưởng đô thị.
Quá trình hình thành và phát triển các đô thị đòi hỏi phải tăng cường vai trò
quản lý nhà nước đối với đô thị, bởi lẽ trong xã hội đô thị luôn xuất hiện các vấn đề
về nhu cầu ăn, ở, đi lại, làm việc, học tập, chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi, vui chơi
giải trí, …

Thực chất của quản lý nhà nước trên các lĩnh vực ở đô thị là sự can thiệp
bằng quyền lực của chính quyền vào các quá trình phát triển kinh tế xã hội ở đô thị,
với mục đích làm cho các đô thị trở thành những trung tâm hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và giao lưu quốc tế của mỗi vùng lãnh thổ.

7
Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, đô thị đóng vai trò chủ đạo cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, cần phải đặt ra nhiệm vụ cao hơn về nhu cầu quản
lý đô thị trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình xây
dựng một nhà nước dân chủ và xã hội công bằng.
2.1.1.2. Đô thị hóa
 Khái niệm về đô thị hóa
- Khái niệm đô thị hóa được đặt trong bối cảnh kinh tế xã hội của nước ta
hiện nay:
+ Theo nghĩa rộng: Đô thị hóa được hiểu như một quá trình phát triển toàn
diện kinh tế và xã hội, liên hệ mật thiết với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các
hệ thống xã hội và tổ chức môi trường sống của cộng đồng.
+ Theo nghĩa hẹp: Đô thị hóa là quá trình chuyển cư từ lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp với tất cả các hệ quả của nó như sự
tăng trưởng dân số đô thị, sự nâng cao mức độ trang bị kỹ thuật của thành phố, sự
xuất hiện của các thành phố mới,…
+ Quá trình đô thị hóa mang tính phức tạp, địa phương, địa điểm, bối cảnh,…
+ Đô thị hóa và phát triển có mối quan hệ biện chứng rõ rệt. Đô thị hóa
mang tính quy luật tất yếu, là động lực của phát triển, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
lao động, nâng cao chất lượng lao động và phát triển kinh tế. Ngược lại, đô thị hóa
cũng chính là hệ quả của sự phát triển, bản thân nó lại tạo ra sức ép cho phát triển
trên mọi mặt kinh tế, xã hội và môi trường
 Sự phát triển của đô thị hóa
Quá trình đô thị hóa diễn ra song song với động thái phát triển không gian
kinh tế xã hội. Trình độ đô thị hóa phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất, của nền văn hóa và phương thức tổ chức cuộc sống xã hội.
Quá trình đô thị hóa thực chất cũng là một quá trình phát triển kinh tế xã hội,
hơn nữa nó còn là quá trình phát triển văn hóa và không gian kiến trúc. Nó gắn liền
với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của các ngành nghề mới. Quá
trình đô thị hóa có thể theo 2 xu hướng.
a) Đô thị hóa tập trung
Là toàn bộ công nghiệp và dịch vụ công cộng tập trung vào các thành phố
lớn, hình thành và phát triển các đô thị lớn, khác biệt nhiều với nông thôn.

8
b) Đô thị hóa phân tán
Là hình thái mạng lưới điểm dân cư có tầng bậc phát triển cân đối công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ công cộng, bảo đảm cân bằng sinh thái, tạo điều
kiện làm việc, sinh hoạt và nghỉ ngơi tốt cho dân cư đô thị và nông thôn. Hình
thành và phát triển mạng lưới đô thị vừa và nhỏ trên các vùng, có vai trò thúc đẩy
phát triển nông thôn, giảm khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn.
Quá trình đô thị hóa có thể được chia thành 3 thời kỳ:
1) Thời kỳ tiền công nghiệp (trước thế kỷ XVIII)
- Đô thị hóa phát triển mang đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp.
- Các đô thị phân tán, quy mô nhỏ phát triển theo dạng tập trung, cơ cấu đơn
giản. Tính chất đô thị chủ yếu là hành chính, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Đô thị thời kỳ này phát triển chậm, bố cục thành phố lộn xộn, phát triển tự
phát, thiếu quy hoạch, môi trường đô thị không hợp lý.
2 ) Thời kỳ công nghiệp (đến nửa thế kỷ XX)
Cuộc cách mạng công nghiệp làm cho nền văn minh đô thị phát triển nhanh
chóng. Sự tập trung sản xuất và dân cư tạo nên những đô thị lớn và cực lớn, các xí
nghiệp công nghiệp phát triển mạnh, các khu nhà ở mọc lên rất nhanh bên cạnh các
khu vực sản xuất. Cơ cấu đô thị phức tạp hơn, thành phố mang nhiều chức năng khác
nhau như: thủ đô, thành phố cảng, thành phố công nghiệp, thành phố du lịch, …
Đặc trưng của thời kỳ này là sự phát triển thiếu kiểm soát của các thành phố.

3) Thời kỳ hậu công nghiệp
Cơ cấu sản xuất và phương thức sinh hoạt ở các đô thị đã có nhiều thay đổi nhờ
sự phát triển của công nghệ tin học. Không gian đô thị có cơ cấu tổ chức phức tạp, quy
mô lớn. Hệ thống tổ chức dân cư đô thị phát triển theo kiểu cụm, chum và chuỗi.
2.1.1.3. Đất đô thị
 Khái niệm về đất đô thị
Đất đô thị được định nghĩa tại Điều 55 Luật Đất đai 1993 là đất nội thành,
nội thị và thị trấn.
Nghị định 88/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ quy định thêm: đất ngoại
thành, ngoại thị nếu được quy hoạch và sử dụng vào mục đích xây dựng đô thị thì
cũng được quản lý và sử dụng như đất đô thị.

9
Đất là nền tảng để phát triển đô thị, ở đó con người sinh sống, làm việc và sử
dụng các dịch vụ. Vì vậy, đất đô thị là đất để quy hoạch phát triển đô thị. Nhu cầu
đất đô thị rất khác nhau giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, cũng
như giữa các thành phố và thị trấn trong một quốc gia.
 Nguyên tắc sử dụng đất
Tại Điều 11 Luật Đất đai 2003 quy định việc sử dụng đất phải bảo đảm các
nguyên tắc sau đây:
- Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi
ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh;
- Người sử dụng đất thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn
sử dụng đất theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan (Luật đất đai 2003).
2.1.2. Những vấn đề về môi trường đô thị
2.1.2.1. Khái niệm về môi trường đô thị
Môi trường đô thị là một bộ phận trong toàn bộ môi trường nói chung. Tất
cả các yếu tố môi trường xét trong không gian đô thị đều thuộc phạm vi môi trường
đô thị.

Môi trường đô thị bao gồm môi trường thiên nhiên bên ngoài bao quanh đô
thị (nước, không khí, đất, động thực vật, …) tất cả những gì tạo nên cấu trúc vật thể
đô thị, bắt đầu từ khoảng không gian bên trong đến khu đất rộng lớn khu dân cư,
khu công nghiệp, khu vui chơi giải trí, … của đô thị. Ngoài ra, môi trường đô thị
còn bao gồm cả những yếu tố nhân văn đa dạng phát sinh do hoạt động của con
người như tiếng ồn, điện từ trường, rung động, … Môi trường đô thị được tổ chức
và phát triển theo hệ thống quy luật phức tạp gồm các phân hệ xã hội và phân hệ
các thành phần vật thể của đô thị. Giữa hai phức hệ này có mối liên hệ chặt chẽ tác
động lẫn nhau, trong đó phân hệ xã hội chính là môi trường xã hội, đặc trưng bởi
dân cư đô thị và mối quan hệ của nó như chế độ xã hội, dân số, phân bố dân cư lao
động, công ăn việc làm, thu nhập, văn hóa giáo dục, y tế, kinh tế, quan hệ xã hội và
tệ nạn xã hội.
Theo định nghĩa trên môi trường đô thị bao gồm môi trường tự nhiên trong
và xung quanh đô thị và môi trường nhân tạo trong đô thị, nó được tổ chức theo hệ
thống tầng bậc từ quy mô căn hộ gia đình đến quy mô lớn hơn trong cấu trúc đô thị

10

và có ảnh hưởng đến quy mô toàn cầu. Môi trường đô thị bao gồm các chức năng
hoạt động của thành phần: môi trường khu ở, môi trường khu công nghiệp; môi
trường giao thông đô thị; hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị (cấp thoát nước, rác thải,
cây xanh, …); khu ở người nghèo, …
Môi trường đô thị có ảnh hưởng quan trọng tới sự hoạt động, tồn tại và phát
triển của đô thị trong đó con người là hạt nhân trung tâm, vừa là đối tượng nghiên
cứu vừa là người nghiên cứu nhằm giải quyết hợp lý các mối quan hệ phức tạp đó.
Chính vì vậy mà ông phó chủ tịch phụ trách phát triển môi trường đô thị bền vững
của ngân hàng thế giới tại hội nghị ngân hàng thế giới lần thứ hai bàn về môi
trường đô thị đã khẳng định: “Chương trình nghị sự về môi trường đô thị là vấn đề
con người, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, cách sống của con người mà đặc biệt
là những người nghèo và con em họ, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả

các hoạt động kinh tế văn hóa của xã hội loài người”. Đó là những vấn đề cơ bản
của đô thị. Các thành phần trong môi trường đô thị gồm thành phần môi trường tự
nhiên và thành phần môi trường nhân tạo.[3]
2.1.2.2. Môi trường của đô thị
 Môi trường tự nhiên của đô thị
Môi trường tự nhiên của đô thị gồm tất cả các thành phần của thiên nhiên
tồn tại bao quanh đô thị và xen cài trong đô thị như: địa hình, động - thực vật, khí
hậu, không khí, đất, nước, … Môi trường thiên nhiên của đô thị nằm trong hệ sinh
thái đô thị, trong đó các thành phần thiên nhiên luôn luôn liên hệ với nhau thông
qua chu trình vật chất và năng lượng. Dưới tác động của con người và các hoạt
động xây dựng, môi trường tự nhiên trong đó đô thị bị ô nhiễm, có sự thay đổi về
tính chất, số lượng, thành phần, … so với môi trường tự nhiên nguyên sơ. Vì vậy
con người phải có trách nhiệm gìn giữ, bảo vệ thiên nhiên và có thái độ đúng mực
với thiên nhiên. Đối với công tác quy hoạch xây dựng đô thị thì đây là nguyên tắc
quan trọng để bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường đô thị. Theo các nghiên cứu
của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), chương trình môi trường của Liên hợp quốc
(UNEP), hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED), hội
nghị của Ngân hàng thế giới đều cho rằng môi trường tự nhiên của đô thị ngày càng
bị ô nhiễm và suy thoái bởi những tác động của con người, của đô thị hóa, công
nghiệp hóa và sự phát triển văn hóa xã hội, khoa học kỹ thuật. Nạn ô nhiễm không

11

khí, đất, nước và suy thoái cảnh quan đô thị, tài nguyên thiên nhiên rất nghiêm
trọng là mối đe dọa đến sức khỏe, cuộc sống của con người và các loài sinh vật
khác. [Phạm Ngọc Đăng, Toward]
*) Không khí trong đô thị
Trong đô thị môi trường không khí bao quanh con người và đô thị là không
khí đã bị ô nhiễm bởi các chất độc hại do hoạt động sản xuất (công nghiệp –
thương nghiệp – dịch vụ), tiêu thụ tài nguyên, các hoạt động sinh hoạt, đi lại, làm

việc, vui chơi giải trí, nghỉ ngơi và các hoạt động khác gây ra. Các hoạt động của
con người rất đa dạng và thường xuyên đã thải ra môi trường nhiều khí độc hại
nguy hiểm, điển hình là khí Cacbon oxyt (CO), Sunphur oxyt (SOx) mà chủ yếu là
SO2, nito oxyt (NOx) chủ yếu là NO và NO2, hidrocacbon (HC) và các loại bụi.
Ngoài 5 chất độc hại chính còn nhiều chất khác như hidro-clorua (HCl), Chì (Pb),
Thủy ngân (Hg), Hidro Sunphur (H2S), Ozon (O3), Amôniăc (NH3), Thuốc trừ sâu
bọ, khói bụi và các loại vi khuẩn gây bệnh, … ảnh hưởng đến sức khỏe của dân cư
đô thị.[3]
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy rằng do hoạt động của con người
trong các đô thị đã tăng thêm ô nhiễm không khí, tăng khí thải Cacbonic và nhiều
chất khí độc hại khác vào khí quyển làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khí hậu toàn
cầu, phá hoại tầng ozon. Vì vậy, trong chiến lược bảo vệ toàn cầu được công bố
năm 1980 đã nhấn mạnh: “Bầu khí quyển đã bị tác động mạnh, đang đe dọa sự biến
đổi chế độ khí hậu”. Từ giữa thế kỷ XVIII đến nay các hoạt động của con người đã
làm tăng gấp đôi nồng độ khí metal, làm tăng 24% khí Cacbonic và tầng ozon đang
bị suy thoái nặng. Nếu cứ tiếp tục theo hướng gia tăng ô nhiễm không khí thì khí
hậu sẽ biến đổi, mưa sẽ thay đổi, mực nước biển dâng lên, nạn hạn hán bão lụt xảy
ra thường xuyên và ác liệt hơn, đặc biệt là sự tăng nhiệt độ của trái đất, mưa axit và
suy giảm tầng ozon.[8]
*) Nước trong đô thị
Nước là tài nguyên thiên nhiên, là nhân tố không thể thiếu được trong cuộc sống
hàng ngày do vậy nước được coi là tài nguyên đặc biệt. Trong đô thị nơi tập trung dân
cư đông đúc nước càng có ý nghĩa quan trọng không chỉ bởi khả năng cấp nước mà cả
về chất lượng nước (nước cấp, nước thải) để phục vụ cho con người.

12

- Về nguồn nước: Hiện nay tổng lượng nước trên trái đất là 1.500 triệu km3,
trong đó nước ngọt chiếm 20% nhưng chỉ một phần nhỏ lượng nước đó (0,003%)
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn sự sống trên hành tinh [Impact of].

Ở nước ta tài nguyên nước (cả nước mặt và nước ngầm) rất phong phú nhưng
phân bố không đều. Hệ thống sông ngòi dày đặc với khoảng 2360 con sông, lượng
mưa trung bình hàng năm là 1960mm, sinh ra dòng chảy lên đến 324m
3
/năm [Phạm
Ngọc Đăng]. Nguồn nước ngầm tương đối tốt về chất lượng và trữ lượng. Riêng ở
Hà Nội trữ lượng nước ngầm đủ đáp ứng cho nhu vầu tiêu dùng cả hiện tại và tương
lai. Nghiên cứu quy hoạch cấp nước cho Hà Nội đến năm 2010 khẳng định là “Đến
năm 2010, xét về góc độ địa chất thủy văn Hà Nội hoàn toàn đáp ứng và thỏa mãn
nhu cầu dùng nước khoảng 700.000m3/ngày-đêm”. Nguồn nước tự nhiên tuy dồi dào
nhưng phân bố không đều giữa các vùng và giữa các mùa trong năm. Ví dụ: Trong
khi miền trung hạn khô tháng 5, 6, 7, 8 thì miền Bắc lại mưa nhiều ngập lụt, cũng
vùng đó có thời kỳ ngập lụt có thời kỳ khô hạn, đó cũng là khó khăn trong việc duy
trì nguồn nước để đảm bảo cung cấp nước đầy đủ cho các đô thị.
Về bảo vệ nguồn nước: Trong quá trình đô thị hóa, với yêu cầu CNH, HĐH
đất nước thì nhu cầu dùng nước rất lớn. Theo tính toán sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng
nước cho các đô thị ở Việt Nam gần 7 triệu m
3
/ngày-đêm (năm 2005).
Do mục tiêu hàng đầu là bảo vệ nguồn nước không bị cạn kiệt và không bị ô
nhiễm. Muốn đảm bảo được nhu cầu đó cần phải thực hiện việc sử dụng nước hợp
lý, tiết kiệm, phải xử lý nước thải trước khi thải ra sông hồ và cần phải dùng nước
tuần hoàn đồng thời cần phải thiết lập vành đai bảo vệ nguồn nước mặt và nguồn
nước ngầm cung cấp nước cho đô thị.
- Về ô nhiễm nguồn nước:
Trong đô thị dân cư tập trung đông đúc với tất cả mọi hoạt động (công
nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, vui chơi giải trí, …) đã thải ra một lượng nước
đáng kể bao gồm nước thải sản xuất, sinh hoạt, nước tưới rửa đường cây cối, …
nếu không tập trung và xử lý tốt thì chính những loại nước này sẽ gây ra ô nhiễm
môi trường nước (vì trong nước thải đô thị có nhiều cặn lắng lơ lửng, chất hữu cơ

và chất độc hại, dầu mỡ và các vi trùng gây bệnh). Các chất bẩn trong nước thải
được chia làm 2 nhóm: Nhóm các chất bẩn bền vững và không bền vững.

13

Các chất bẩn bền vững khó phân hủy sẽ tích tụ trong nước sông sau mỗi lần
xả nước thải, đồng thời tích tụ trong động vật bậc cao, gây nguy hại cho sức khỏe
của con người (nếu họ ăn phải các động vật đó). Nếu chất bền vững không tham gia
vào chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái thủy vực hoặc không lắng xuống bùn đất thì
khối lượng của nó tăng dần và bằng tổng số lượng trong nước sông ban đầu. Đối
với các chất bẩn không bền vững, nồng độ của chúng giảm dần theo chiều dài sông
và tăng đột ngột sau mỗi lần xả nước thải. Nước thải đô thị còn tác động đến hệ
sinh thái thủy vực nước ngọt tức là làm thay đổi chế độ ôxy trong đó. Quá trình này
tiêu thụ một lượng ôxy rất lớn nên lượng ôxy hòa tan trong sông hồ giảm đột ngột,
đồng thời với quá trình tiêu thụ oxy là sự hòa tan oxy từ khí quyển qua ranh giới
nước – khí. Sau một thời gian nhất định lượng oxy hòa tan trong nước tăng lên.
Khu vực có hàm lượng oxy hòa tan thấp nhất thường là nơi nguồn nước bị ô nhiễm
nặng nhất. Trong môi trường nước thải nhiều chất hữu cơ, các loại vi khuẩn luôn
tồn tại. Khi vào nguồn nước chúng có thể bị tiêu diệt hoặc tiếp tục phát triển do đã
thích nghi [Cải thiện điều kiện ở].
*) Đất trong đô thị
Con người và nhiều loại sinh vật tồn tại, phát triển trên và trong đất. Đất
cung cấp cho con người những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống (lương thực, thực
phẩm, …); Đất là nơi xây dựng các công trình, các đô thị, … Do đó đất là tài
nguyên quý giá của loài người. Sự hình thành đất là quá trình phức tạp do kết quả
hoạt động tổng hợp các yếu tố: động – thực vật, đá, khí hậu, địa hình, thời gian và
con người, trong đó tác động của con người là lớn nhất. Con người có thể làm cho
đất khô cằn, bị ô nhiễm hoặc ngược lại có thể làm cho đất ổn định và màu mỡ. Điều
đó tùy thuộc vào thái độ và hành vi của con người.
Trong quá trình đô thị hóa và phát triển kinh tế, con người đã chiếm dụng đất

canh tác để xây dựng nhà cửa, đường xá,… cho đô thị. Đất được dùng vào mục đích
xây dựng tăng lên nhiều. Quỹ đất xây dựng đã gây xói mòn phá hoại đất do hoạt động
công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, sinh hoạt đã đưa vào đất một lượng phế thải,
rác thải, nước thải, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,… gây ô nhiễm đất.
Lượng phân hóa học, thuốc trừ sâu dùng trong nông nghiệp đã ảnh hưởng
đến đất. Từ đất mới ảnh hưởng đến rau xanh con người ăn rau xanh sẽ ảnh hưởng
đến sức khỏe.

14

Rác thải, phế thải công nghiệp, chất thải rắn từ sinh hoạt, bệnh viện, thương
nghiệp – dịch vụ, … không qua phân loại đã chuyển thẳng đến bãi chôn lấp rác
không đảm bảo điều kiện vệ sinh của thành phố là nguồn độc hại gây ô nhiễm
nước, đất. Nguy hại nhất là rác chỉ thu gom vận chuyển 70%, số còn lại đổ đống
ven sông, nơi đất trống, chỗ công cộng đã ngấm xuống đất làm ô nhiễm đất. Hiện
nay ở hầu hết các thành phố đều chưa có bãi chứa rác hợp vệ sinh. Trong quy
hoạch chung chưa xác định được ngay vị trí bãi rác của thành phố. Do đó khi một
bãi rác sắp đầy phải lo làm thủ tục xin đất, đền bù đất,… Trong rác, phân và chất
thải sinh hoạt đô thị có hàm lượng chất hữu cơ cao, độ ẩm cao, là môi trường thuận
tiện cho các loại vi khuẩn gây bệnh phát triển. Trong rác có nhiều thành phần độc
hại và những chất vô cơ khó phân hủy (sợi nhân tạo, thủy tinh, sành sứ vụn, …);
các kim loại phế thải công nghiệp sẽ “âm thầm” ngấm vào trong đất trong thời gian
dài và gây tác hại khôn lường, làm thay đổi tính chất cơ lý và thành phần đất cho
bản thân vùng đất đó và các vùng xung quanh. Từ các nghiên cứu người ta nhận
thấy rằng:
- Khả năng di chuyển các chất độc hại trong đất xa hơn nhiều so với phạm vi
trực tiếp bị ô nhiễm.
Khả năng tích tụ tồn lưu chất độc trong đất lâu hơn nhiều so với bầu không
khí và nước.
Ngoài ra, trên phạm vi đô thị do san lấp đất xây dựng công trình đường xá

đã phá hủy thảm thực vật (lớp hữu cơ trên cùng), phá hoại điều kiện cân bằng tự
nhiên của đất, thay đổi địa hình, cản trở dòng chảy,… gây hiện tượng sạt lở mái
dốc, làm suy yếu lớp đất nền và ảnh hưởng đến cảnh quan khu vực.
Đất đai trong đô thị trực tiếp sử dụng để bố trí các khu chức năng của đô thị
(sản xuất, sinh hoạt, nghỉ ngơi, hạ tầng kỹ thuật) do đó phải đảm bảo bảo điều kiện
vệ sinh để giữ an toàn sức khỏe cho dân cư đô thị, đồng thời phải sử dụng có hiệu
quả loại tài nguyên này, hạn chế sử dụng đất nông nghiệp, để đảm bảo an toàn
lương thực quốc gia. Muốn sử dụng đất có hiệu quả phải đánh giá đất đai, đánh giá
khả năng, chất lượng đất. Bảo vệ đất chính là bảo vệ cuộc sống của con người.[5]
 Môi trường nhân tạo trong đô thị
Môi trường nhân tạo trong đô thị là tất cả những gì con người tạo ra trong đồ
thị. Nó gồm các thành phần vật chất và phi vật chất.

15

- Các thành phần vật chất gồm các công trình xây dựng theo các chức năng
đô thị (như không gian sinh hoạt, sản xuất, nghỉ ngơi – giải trí, cơ sở hạ tầng kỹ
thuật) và không gian đặc biệt như di tích, danh lam thắng cảnh.
- Các thành phần phi vật chất bao gồm cách ứng xử, công ăn việc làm và ý
thức. Ngoài ra, nó bao gồm kết quả tư duy do hoạt động của con người đưa lại
những tư duy đó lại bị ảnh hưởng do tiếng ồn, rung động, từ trường, …[2]
 Mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo
Hai môi trường này có mối quan hệ mật thiết và tương hỗ với nhau. Môi
trường tự nhiên là nền tảng không thể thiếu được cho sự sinh tồn của loài người.
Môi trường tự nhiên cung cấp tài nguyên thiên nhiên (năng lượng, vật chất: đất,
nước, không khí, …) để đảm bảo cho sự sống còn và phát triển của nhân loại ở tất
cả các giai đoạn của lịch sử. Để tồn tại và thỏa mãn các yêu cầu hoạt động phát
triển của mình con người phải luôn tác động vào thiên nhiên: khai thác thiên nhiên,
làm thay đổi môi trường thiên nhiên, …
Con người là một thực thể sinh vật nhưng con người hơn mọi vật khác là có

ý thức và có khả năng sáng tạo ra thế giới vật chất xung quanh mình nhưng những
sáng tạo đó phải có bàn tay, khối óc và phải có sự điều tiết chung của tri thức con
người. Trong xây dựng đô thị cũng vậy, muốn có sự hòa nhập giữa môi trường tự
nhiên và môi trường nhân tạo trong một cơ thể đô thị thống nhất thì nhất thiết phải
có trí tuệ con người. Như vậy, trong mối quan hệ này, con người tuy là yếu tố trung
gian nhưng đóng vai trò quan trọng có tính chất quyết định trong việc điều chỉnh để
giữ vững sự tương xứng, hòa đồng giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân
tạo, giữ vững cân bằng sinh thái. Sở dĩ con người đóng vai trò quyết định vì con
người vừa là kẻ bị tác động, vừa là kẻ gây ra tác động trong mối quan hệ này.
2.1.3. Lược khảo quá trình phát triển đô thị trên thế giới
2.1.3.1. Thời kỳ cổ đại
Đó là thời tiền sử được tính từ 5000 năm đến 1000 năm trước Công nguyên
và giai đoạn cổ đại tính đến năm 500 sau Công nguyên.
Các đô thị phát triển thời kỳ này gồm: vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, vùng Tiểu
Á, Trung Á, Ấn Độ và Trung Quốc.
i) Về quan điểm định cư

16

Mỗi điểm dân cư là một bộ lạc, xây dựng dọc ven sông, nguồn nước được
coi là yếu tố cơ bản của sự tồn tại:
+ Kinh tế: Các cơ sở sản xuất nông nghiệp và thương mại được coi là động
lực chính của sự phát triển.
+ Xã hội: Nền tảng của dân tộc và tôn giáo được lấy làm tôn chỉ cho các
hoạt động trung tâm về chính trị.
+ An ninh quốc phòng: xây dựng các điểm dân cư tập trung ở những nơi dễ
dàng quan sát kẻ địch tấn công. [7]
ii) Về cấu trúc đô thị
*) Đô thị cổ Ai Cập
Người Ai Cập cổ đại sống tập trung dọc theo sông Nin. Các vua chúa đề cao cuộc

sống sau khi chết nên tập trung xây dựng các lăng mộ, điển hình là các Kim tự tháp.
Đô thị cổ Ai Cập ở hạ lưu sông Nin thường là hình chữ nhật, xây dựng vào
khoảng 3500 năm trước Công nguyên. [3]
*) Hy Lạp cổ đại
Là nơi tập trung nhiều kiến trúc quy hoạch cổ đại. Nhiều nhân vật nổi tiếng
đã tạo nên những giá trị đặc biệt cho quy hoạch và kiến trúc đô thị cổ Hy Lạp. Đặc
trưng của quy hoạch Hy Lạp cổ đại là thành phố bàn cờ của Hyppodamus (500 năm
trước Công nguyên).
Các nhân vật nổi tiếng trong kiến trúc quy hoạch Hy Lạp cổ đại: Plato, Aristotle,
…[3]
*) La Mã cổ đại
Đế quốc La Mã hình thành từ thế kỷ III trước Công nguyên và hưng thịnh
nhất vào khoảng thể kỷ II và thế kỷ nhất cho đến năm 30 trước Công nguyên.
Quy hoạch và kiến trúc La Mã cổ đại đã tiếp thu được những thành tựu của
nền văn hóa trước đó và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh Hy Lạp.
Thành phố cổ La Mã phản ánh tính chất xã hội của chế độ cộng hòa đế quốc
La Mã với những đô thị mang tính phòng thủ.[3]
*) Văn minh Lưỡng Hà (4300 năm trước Công nguyên)
Thành phố lớn nhất là Babilon xây dựng vào khoảng năm 602 – 562 trước
công nguyên và trở thành một trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại mang nhiều truyền
thuyết. Nền văn minh Lưỡng Hà đã tạo điều kiện cho sự phát triển của nhiều thành
phố.[3]

17

*) Nền văn minh Trung Hoa
Ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Mencius đã đề xuất hệ
thống quy hoạch sử dụng đất theo bố cục 9 ô vuông. Mỗi ô có một chức năng riêng,
mỗi cạnh dài khoảng 1000 bước.
Cách bố trí theo kiểu phân lô này cũng được ứng dụng cho Bắc Kinh về sau.

Bắc Kinh hình thành từ 2400 năm trước CN và trở thành thủ đô Trung Quốc năm
878 sau CN.
Đô thị thường được bao bọc bởi tường thành cau xây gạch bên ngoài hào sâu
mang đặc trưng là thành lũy quân sự. Cấu trúc thường có 3 vòng tường thành giới
hạn từng khi vực cho 3 tầng trong xã hội phong kiến Trung Quốc.
Hình dạng đô thị:
- Mặt bằng tổ chức theo hình vuông trục chính theo hướng Nam – Bắc và đô
thị thường được xây dựng trên các vùng đất có địa hình bằng phẳng.
- Nguyên tắc bố trí các khu vực trong đô thị theo triết lý Nho giáo thể hiện
mối tương quan trong xã hội phong kiến. Trong đó, yếu tố chủ thể được đặt ở vị trí
quan trọng nhất nhằm thể hiện quyền lực của thiên tử.
- Quy mô đô thị lớn, dân cư được tổ chức thành từng đơn vị có quản lý bởi
hệ thống hành chính rõ rệt.
- Cây xanh được quan tâm tổ chức thành quần thể đẹp phục vụ cho tầng lớp
thống trị.[5]
*) Các vùng khác
Trung Quốc (thế kỷ III trước công nguyên): đề xuất quy hoạch sử dụng đất đô
thị theo hệ thống 9 ô vuông. Cách bố trí này được ứng dụng cho Bắc Kinh về sau.
Ấn Độ cũng có những thành phố được hình thành từ 3000 năm trước công
nguyên. Thành phố cũng được xây dựng theo kiểu phân lô.
Nhiều nơi khác cũng xuất hiện các điểm dân cư đô thị nhưng không để lại
những tính chất điển hình. [3]
2.1.3.2. Thời kỳ trung đại
Đô thị xuất hiện chủ yếu vào đầu công nguyên thuộc chế độ phong kiến.
Quy mô thành phố nhỏ, không lớn hơn 5000 đến 10.000 người, hầu hết có thành
quách bao ngoài.
Thế kỷ III, đô thị phát triển hơn do sự xuất hiện của thủ công nghiệp, hình
thành nhiều đô thị cảng và đô thị nằm trên đầu mối giao thông.

18


Thế kỷ XV, XVI nền văn hóa Phục Hưng phát triển mạnh kéo theo sự phát
triển của các đô thị ở châu Âu, đặc biệt là Ý, Pháp, …
Châu Á với chế độ phong kiến kéo dài ảnh hưởng đến tính chất các đô thị
phong kiến. Tiêu biểu là Trung Quốc, thành phố có quy mô lớn trở thành chỗ ở và
thể hiện uy quyền của các vua chúa phong kiến, là trung tâm chính trị văn hóa của
giai cấp thống trị. Các đô thị này thường được xây dựng theo kiểu thành quách.
Nói chung đô thị thời kỳ này phát triển chậm, bố cục thành phố lộn xộn,
phát triển tự phát, thiếu quy hoạch và môi trường đô thị không hợp lý. [3]
2.1.3.3. Thời kỳ cận đại
Giữa thế kỷ XVII, công nghiệp phát triển thu hút nguồn nhân lực lớn, các
khu nhà ở mọc lên nhanh chóng bên cạnh các khu vực sản xuất. Các nước công
nghiệp phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, dân số đô thị tăng lên nhanh chóng.
Các thành phố phát triển và phân bố không đồng đều do ảnh hưởng của sự
phát triển kinh tế. Các thành phố lớn có số dân tập trung cao: New York với 5 triệu
người (1920), London gần 5 triệu người, Berlin trên 4 triệu người.
Đô thị phát triển ồ ạt dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong tổ chức không gian đô
thị. Nhà ở đô thị nảy sinh nhiều vấn đề, đặc biệt là sự thiếu thốn các khu nhà ở cho
người lao động.
Môi trường đô thị bị ảnh hưởng nghiêm trọng do sự phát triển của công
nghiệp và dân số, thiếu những khu cây xanh, công viên.
Công trình công nghiệp xây dựng lộn xộn. Mật độ xây dựng cao và các
công trình phát triển nhiều theo chiều cao.
Những vấn đề trên đã dẫn tới sự khủng hoảng của đô thị thời kỳ này, do đó
đòi hỏi cần phải có những cuộc cải tổ và những tư tưởng mới cho sự phát triển của
nghành quy hoạch đô thị hiện đại.
2.2. Định hướng nghiên cứu
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, sự phát triển của đô thị lấy mất đất
nông nghiệp là tất yếu. Vậy, bài toán lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường được giải
quyết như thế nào khi một bên là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,chuyển dịch

cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư, cơ sở kĩ thuật hạ
tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài; một bên là
an toàn lương thực quốc gia và bảo đảm tư liệu sản xuất cho người nông dân, ổn

19

định xã hội, bảo vệ môi trường sống. Xuất phát từ những vấn đề trên, cần thiết phải
có những định hướng nghiên cứu nhằm phát hiện, đánh giá và phân tích các tác
động kinh tế, xã hội, môi trường của sự phát triển đô thị tới cộng đồng dân cư xung
quanh đó.
Định hướng nghiên cứu tập trung ở địa bàn là một thành phố có mật độ dân
số đông, sự phát triển đô thị nhanh và mạnh. Nội dung nghiên cứu tập trung vào
những vấn đề sau:
- Tác động của sự phát triển đô thị đến quản lý và sử dụng đất nông nghiệp:
Việc mất đất nông nghiệp để chuyển sang xây dựng phát triển đô thị, công tác quản
lý đất nông nghiệp trong tình hình mới hiện nay.
- Sự phát triển đô thị đã lấy một phần diện tích đất nông nghiệp không nhỏ,
khiến người nông dân bị mất đất và thiếu việc làm, ảnh hưởng tới thu nhập nói
chung của họ.
- Sự phát triển của đô thị sẽ ảnh hưởng thế nào tới môi trường sống của
người dân nông thôn.
- Mối quan hệ giữa sự phát triển đô thị với các yếu tố tự nhiên; kinh tế - xã
hội và môi trường.
Những nghiên cứu trên sẽ tìm ra các quy luật tác động tích cực và tiêu cực
của sự phát triển đô thị đến xã hội, góp phần giúp chính quyền các cấp, các nhà
quản lý, nhà khoa học có định hướng khi xây dựng cơ chế, chính sách, kế hoạch dài
hạn trong phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương và cả nước.
2.3. Cơ sở pháp lý về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam
Các căn cứ pháp lý trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt
Nam liên quan đến nhiều văn bản pháp luật hiện hành, trong đó có những văn bản

quan trọng là:
1. Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội.
2. Luật đất đai 2003.
3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật khoáng sản số 46/2005/QH-11
được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006.
4. Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ về quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều trong Luật bảo vệ môi trường.

20

5. Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
6. Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ
về phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị.
7. Nghị định 117/2009/NĐ-CP Về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường.
8. Nghị định 29/2011/NĐ-CP Quy định về đánh giá môi trường chiến lược,
đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường.
9. Thông tư 26/2011/TT-BTNMT Quy định chi tiết một số điều của nghị định
số 29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 của chính phủ quy định về đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường.
10. Thông tư số 10/2008/TT-BXD ngày 22 tháng 04 năm 2008 của Bộ Xây
dựng hướng dẫn về đánh giá, công nhận khu đô thị mới kiểu mẫu
11. Quyết định số 328/2005 QĐ-TTg ngày 12/12/2005 của Thủ tướng Chính
phủ đến phê duyệt Kế hoạch quốc gia kiểm soát ô nhiễm đến năm 2010.
12. Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Kế
hoạch Quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020.
13. Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/08/2004 của Tủ tướng Chính
phủ ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương
trình nghị sự 21).

14. Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính
phủ Phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020.
15. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2005 của Bộ Chính trị về bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
16. Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ
về phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị.






21

PHẦN 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về đô thị, đô thị hóa và ảnh hưởng của
nó tới phát triển kinh tế xã hội của thành phố Thái Nguyên.
Quá trình phát triển đô thị tại thành phố Thái Nguyên.
Diễn biến môi trường đất tại các xã, phường phía Đông Nam và Tây Nam thành phố
Thái Nguyên
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn: Các xã, phường phía Đông Nam và Tây Nam của thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Phía Đông Nam gồm: Phường Đồng Quang, P. Gia Sàng, P. Cam Giá, xã
Lương Sơn, P. Tân Thành, P. Tân Lập, P. Tích Lương, P. Trung Thành, P. Hương

Sơn, P. Tân Thịnh.
Phía Tây Nam: Xã Phúc Trìu, Xã Tân Cương, Phường Thịnh Đán, Xã Thịnh Đức.
Các đối tượng nghiên cứu trong giai đoạn 2008 – 2013.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: các xã, phường phía Đông Nam và Tây Nam thành
Phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 02 năm 2014 đến tháng 04 năm 2014
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và tình hình sử dụng đất khu vực
nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên của thành phố Thái Nguyên.
- Đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Thái Nguyên.
- Tình hình sử dụng đất đai của thành phố Thái Nguyên.
3.3.2. Đánh giá ảnh hưởng của sự phát triển đô thị tới môi trường đất trên địa
bàn các xã, phường phía Đông Nam và Tây Nam thành phố Thái Nguyên
- Thực trạng môi trường đất qua từng năm trong giai đoạn;
- Ảnh hưởng của sự phát triển đô thị đến môi trường đất;

22

- Đánh giá của người dân đối với tác động của phát triển đô thị tới môi
trường đất.
3.3.3. Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực tới môi
trường đất trước sự phát triển đô thị
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp điều tra thu thập tài liệu, số liệu thứ cấp
Thu thập các thông tin, tài liệu, số liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu
bao gồm:
- Thu thập tài liệu, số liệu về điều kiện, kinh tế, xã hội, về đất đai.
- Thu thập tài liệu, số liệu về môi trường, lao động, việc làm.

3.4.2 Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
Để nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình phát triển đô thị đến môi trường ở
các xã, phường phía Tây Nam, Thành phố Thái Nguyên, Tỉnh Thái Nguyên.
Đề tài dự kiến trên địa bàn thành phố sẽ lựa chọn: tất cả các xã, phường phía
Tây Nam, Đông Nam.
3.4.3 Phương pháp điều tra phỏng vấn
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn để thu thập về nôi dung
liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Lập các phiếu điều tra để tiến hành điều tra,
phỏng vấn một số cán bộ ban nghành liên quan và một số người dân địa phương
sinh sống trên địa bàn nghiên cứu của đề tài.
- Nội dung phỏng vấn: Điều tra, đặt câu hỏi về sự tác động sự PTĐT đến
môi trường đất.
- Hình thức phỏng vấn: Sử dụng phiếu điều tra để phỏng vấn, số lượng 50
phiếu, các phiếu điều tra đã có câu trả lời sẵn để người được phỏng vấn dễ trả lời
theo kiểu trắc nghiệm. Ngoài ra, tiến hành phỏng vấn trực tiếp thông qua các câu
hỏi thực tế khi điều tra.
3.4.4 Phương pháp lấy mẫu phân tích
Để nghiên cứu sự ảnh hưởng của quá trình phát triển đô thị đến môi trường
các xã, phường phía Tây Nam thành phố Thái Nguyên. Đề tài dự kiến sẽ lấy các
điểm phân tích môi trường đất trên vùng nghiên cứu. Các vị trí đại diện là: đất tại
phường Cam Giá, xã Tân Cương, phường Đồng Quang, phường Tân Lập, xã
Lương Sơn, xã Thịnh Đức.

×