Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường GPMB Dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn từ Km 315 + 00 đến Km 330 + 00 (đoạn qua địa phận xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.3 KB, 70 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




HOÀNG NGỌC HUYỀN

Tên đề tài:
“Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường GPMB Dự án:
Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn từ Km 315 + 00 đến Km
330 + 00 (đoạn qua địa phận xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn,
tỉnh Yên Bái)”


KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Địa chính Môi trường
Khoa : Quản lý Tài nguyên
Khoá học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: ThS. DƯƠNG THỊ THANH HÀ
Khoa Quản lý Tài nguyên – Trường Đại học Nông Lâm




THÁI NGUYÊN - 2014


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2
1.1. Đặt vấn đề 2
1.2. Mục đích nghiên cứu 3
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
2.1. Một số vấn đề của Luật Đất đai 2003 về công tác bồi thường GPMB 5
2.2. Những căn cứ pháp lý để thực hiện công tác bồi thường GPMB 9
2.2.1. Các văn bản pháp lý để thực hiện công tác bồi thường GPMB
của Trung ương 9
2.2.2. Các văn bản pháp lý để thực hiện công tác bồi thường GPMB
của tỉnh Yên Bái 11
2.3. Khái quát về công tác bồi thường GPMB 12
2.3.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư 12
2.3.2. Đặc điểm của quá trình bồi thường và GPMB 13
2.3.3. Trình tự lập hồ sơ phương án bồi thường GPMB 14
2.3.4. Một số yếu tố tác động đến công tác bồi thường và GPMB 15
2.3.5. Giá đất trong công tác bồi thường và GPMB 19
2.4. Chính sách bồi thường GPMB khi nhà nước thu hồi đất 20
2.4.1. Trước khi có Luật Đất đai 1988 20
2.4.2. Thời kỳ từ năm 1988 đến năm 1993 21
2.4.3. Thời kỳ từ năm 1993 đến năm 2003 22
2.4.4. Từ khi có Luật Đất đai 2003 đến nay 23
2.5. Công tác GPMB tại một số tỉnh trong cả nước 25
2.5.1. Tình hình GPMB ở Quảng Ninh 25
2.5.2. Công tác GPMB ở Lai Châu 26
2.5.3. Công tác GPMB ở Thái Nguyên 27
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 30
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 30
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 30
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 30
3.2.1. Địa điểm 30
3.2.2. Thời gian 30
3.3. Nội dung nghiên cứu 30
3.4. Phương pháp nghiên cứu 31
3.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu 31
3.4.2. Phương phỏng vấn: các hộ thuộc diện GPMB 31
3.4.3. Phương pháp xử lí số liệu 31
PHẦN 4: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 32
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Cát Thịnh 32
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 32
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 36
4.2. Vài nét về công tác quản lýsử dụng đất của tại xã Cát Thịnh 42
4.2.1. Vài nét về công tác quản lýđất đai tại xã 42
4.2.2. Vài nét về công tác sử dụng đất đai tại xã 45
4.4. Phân tích những thuận lợi, khó khăn trong công tác bồi thường GPMB
tại xã 57
4.4.1. Kết quả đạt được 57
4.4.2. Thuận lợi 58
4.4.3. Khó khăn 58
4.5. Đề xuất hướng khắc phục và rút ra những bài học kinh nghiệm trong
công tác GPMB 58
4.5.1. Về quản lý đất đai 58
4.5.2. Về chính sách bồi thường 60
4.5.3. Về tái định cư 60
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
5.1. Kết luận 61

5.2. Kiến nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất xã Cát Thịnh năm 2010 45
Bảng 4.2: Cơ cấu nhóm đất nông nghiệp 46
Bảng 4.3: Tổng hợp diện tích bồi thường đất của xã 49
Bảng 4.4: Tổng hợp bồi thường vật kiến trúc trên đất thu hồi của xã 50
Bảng 4.5: tổng hợp bồi thường cây cối hoa màu trên đất thu hồi của xã 51
Bảng 4.6. Tổng hợp kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị
thu hồi đất tại khu vực GPMB 54
Bảng 4.7.Tổng hợp kết quả điều tra về công tác bồi thường GPMB 55
Bảng 4.8. Tổng hợp ý kiến phản hồi của người dân 56








DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu viết tắt Nguyên Nghĩa
BTC Bộ tài chính
BTHT&TĐC Bồi thường hỗ trợ & Tái định cư
CP Chính phủ
CT Chỉ thị

CNQSDĐ Chứng nhận quyền sử dụng đất
CNH-HĐH Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa
GPMB Giải phóng mặt bằng
HĐND Hội đồng nhân dân
NĐ Nghị định
QĐ Quyết định
STT Số thứ tự
TT Thông tư
TNMT Tài nguyên môi trường
THCS Trung học cơ sở
TTNT Thị trấn nông trường
UBND Ủy ban nhân dân

PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
- Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi Quốc gia, là tư
liệu sản xuất đặc biệt và là thành phần quan trọng của môi trường sống mà
thiên nhiên đã ban tặng cho con người.
- Trong tất cả các cương lĩnh, các văn kiện, các văn bản luật và dưới
luật đều chỉ rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý. Căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất đai, căn cứ vào tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước mà việc khai thác và sử dụng đất
đai phải được thực hiện một cách tiết kiệm và hiệu quả phát huy tối đa nguồn
lực của đất, nhằm đạt tới hiệu ích kinh tế, sinh thái và xã hội cao nhất.
- Xuất phát từ những quan điểm trên, xuất phát từ yêu cầu thực tế mà
Đảng và Nhà nước cần đề ra những điều bổ sung, sửa đổi quan trọng liên
quan đến các chính sách pháp luật về đất đai nhằm góp phần tích cực vào sự
lặp lại kỷ cương trong quản lý, khai thác và sử dụng đất đai phấn đấu để đất

đai được khai thác và sử dụng một cách hiệu quả nhất, phục vụ tốt cho sự
nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại đất nước.
- Trong quá trình đổi mới đất nước, nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
để phục vụ cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội đang diễn ra hết sức mạnh
mẽ tại tất cả các địa phương, thể hiện đúng tinh thần xây dựng một đất nước
giầu mạnh mà Đảng và Nhà nước mong muốn. Để phục vụ cho mục đích này,
đòi hỏi phải có một lượng lớn đất đai. Công việc này liên quan đến việc bồi
thường GPMB cho nhân dân đang sử dụng đất. Đây là điều kiện ban đầu nhưng
hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng các công trình dự án. Công tác này
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của Nhà nước và nhân dân. Vì vậy công tác
thu hồi đất và phương án bồi thường GPMB là hết sức khó khăn, phức tạp và
nhạy cảm.
- Trên địa bàn xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái trong những
năm qua đã tổ chức thực hiện nhiều dự án và công tác bồi thường GPMB đã thu
được nhiều kết quả tốt. Nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ không ít những khó
khăn liên quan đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Do vậy cần
nghiên cứu để làm rõ về cơ sở lý luận và tìm ra giải pháp tháo gỡ trong cơ chế tổ
chức và thực hiện.
- Xuất phát từ những vấn đề trên được sự đồng ý của Ban Giám hiệu nhà
trường, Ban chủ nhiệm khoa Quản lý Tài nguyên, trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, ThS. Dương Thị Thanh Hà,
em tiến hành thực hiện đề tài:
“Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường GPMB Dự án: Cải tạo,
nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn từ Km 315 + 00 đến Km 330 + 00 (đoạn qua địa
phận xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái)”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá công tác bồi thường GPMB tại xã Cát Thịnh, huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái và rút ra những kinh nghiệm trong công tác bồi thường
GPMB tại huyện
1.3. Mục tiêu nghiên cứu

- Nắm chắc những văn bản liên quan đến công tác bồi thường GPMB
của Nhà nước và của Tỉnh.
- Tìm hiểu thực trạng, những thuận lợi, khó khăn trong công tác bồi
thường GPMB.
- Tìm hiểu tiến độ bồi thường GPMB tại xã
- Giúp xã khắc phục những tồn tại, đẩy nhanh tiến độ tiến tới bồi
thường GPMB nhanh.
- Giúp UBND xã thấy được nguyện vọng chính đáng của người dân,
giải quyết những thắc mắc khi cần thiết.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
*Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Giúp em củng cố
những kiến thức đã học, vận dụng vào thực tế trong lĩnh vực bồi thường
GPMB; rèn luyện tính cẩn thận, tỷ mỉ trong nghiên cứu khoa học.
*Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài giúp cho các nhà quản lý đất đai rút ra
kinh nghiệm, thấy được những mặt đã làm được và những mặt còn hạn chế trong
công tác bồi thường GPMB, từ đó có biện pháp thúc đẩy công tác bồi thường
GPMB, thực hiện đúng tiến độ kế hoạch, quy hoạch của xã.
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Một số quy định của Luật Đất đai 2003 về công tác bồi thường
GPMB
- Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước ta đang từng ngày đổi
mới, quá trình CNH - HĐH, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công
nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ. Do đó cần một diện tích lớn đất đai cho nhu
cầu xây dựng và phát triển kinh tế.
- Bồi thường và GPMB là giải pháp quan trọng mang tính đột phá
nhằm chủ động tạo quỹ đất, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nguồn lực
cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Quá trình thực hiện bồi
thường và GPMB phải thực hiện hài hòa giữa các lợi ích: lợi ích của Nhà

nước, của các doanh nghiệp, của các cộng đồng dân cư, và đặc biệt là lợi ích
của người dân, để thực hiện mục tiêu giữ vững sự ổn định và phát triển của
đất nước.
- Thực chất của việc GPMB là chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
chuyển mục đích sử dụng đất dưới sự điều tiết của nhà nước.
Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau:
- Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc giải quyết, xét duyệt
quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất.
- Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất.
- Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển đổi
mục đích sử dụng đất.
- Theo Luật Đất đai (2003) quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi
đất trong công tác bồi thường GPMB.
- Điều 38 Luật Đất đai (2003): Các trường hợp Nhà nước thu hồi đất khi thực
hiện công tác GPMB.

“Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.
2. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được
Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc
từ ngân sách Nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải
thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất.
3. Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả.
4. Người sử dụng đất cố ý huỷ hoại đất.
5. Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền.
6. Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:
a) Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm.
b) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật
này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm.

7. Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế.
8. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất.
9. Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
10. Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia
hạn khi hết thời hạn.
11. Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười
hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười
tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi
bốn tháng liền.
12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà
không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng
đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ
khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
- Điều 42 Luật Đất đai (2003): Bồi thường, tái định cư cho người có đất
bị thu hồi trong khu vực GPMB.
1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có
giấy CNQSDĐ hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất
theo quy định tại Điều 50 của luật này thì người thu hồi đất được bồi thường, trừ
các trường hợp quy định tại khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và
các điểm b, c, d, đ và g khoản 1 Điều 43 của luật này.
2. Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất
mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.
3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực
hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất
ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được
quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện
phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
4. Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được

bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua nhà hoặc thuê nhà thuộc sở hữu của
Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông
thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi lớn hơn đất ở được bồi
thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh
lệch đó.
5. Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc được
bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn
định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới.
- Trường hợp người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất
mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật thì
phải trừ đi nghĩa vụ giá trị tài chính chưa thực hiện trong giá trị bồi thường, hỗ trợ.
6. Chính phủ quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị
thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất. (Luật Đất đai, 2003) [16]
- Điều 43 Luật Đất đai (2003): Những trường hợp Nhà nước thu hồi đất
mà không bồi thường.
1. Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất trong các trường
hợp sau đây:
a) Thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6,
7, 8, 9, 10, 11 và điều 12 Điều 38 của Luật này.
b) Đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất xây dựng trụ sở cơ quan,
xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh; đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế, giáo
dục và đào tạo, thể dục thể thao và các công trình công cộng khác không
nhằm mục đích kinh doanh; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa.
c) Đất nông nghiệp là do cộng đồng dân cư sử dụng.
d) Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, nhận quyền chuyển
nhượng sử dụng đất mà tiền sử dụng đất, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.
đ) Đất thuê của Nhà nước.

e) Trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy CNQSDĐ quy định tại
Điều 50 của Luật này.
g) Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Khi Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất không được bồi
thường về tài sản gắn liền với đất trong các trường hợp sau đây:
a) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra tại khu vực đất bị thu hồi sau khi
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây
dựng điểm dân cư nông thôn đã được công bố mà không được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cho phép.
b) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra trước khi có quyết định thu hồi
đất mà trái với mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất tại thời điểm xây dựng công trình đó.
c) Đất bị thu hồi thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 6, 7 và
10 Điều 38 của Luật này.
3. Người bị thu hồi đất quy định tại khoản 1 nhưng không thuộc khoản
2 Điều này được bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi.
4. Chính phủ quy định việc xử lý đối với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất,
tài sản đã đầu tư trên đất trong các trường hợp thu hồi đất quy định tại khoản
2, 3, 5, 8, 9, 11 và 12 Điều 38 của Luật này.
Điều 44 Luật Đất đai (2003): Thẩm quyền thu hồi đất
1. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương quyết định thu hồi đất
đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điều khoản 2 Điều này.
2. UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quyết định thu
hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này không được ủy quyền”. (Luật Đất đai, 2003) [16]
2.2. Những căn cứ pháp lý để thực hiện công tác bồi thường GPMB

2.2.1. Các văn bản pháp lý để thực hiện công tác bồi thường GPMB
của Trung ương
Do công tác GPMB ngày càng đòi hỏi sự chặt chẽ về pháp lý và pháp
luật, vì vậy để tránh sự trạnh chấp và thiếu công bằng nên nhà nước đã ban
hành một số căn cứ pháp lý để quy định và hướng dẫn việc thực hiện công tác
GPMB như sau:
- Luật Đất đai ngày 26/11/2003.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật Đất đai.
- Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài chính về
việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004
của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
- Thông tư số 28/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn thống kê, kiểm kê đất đai và xây
dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất.
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về việc
bổ sung sửa đổi một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất
đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành
công ty cổ phần.
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp Giấy CNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử
dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.

- Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/07/2007 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường hướng dẫn thi hành Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/05/2007 của Chính phủ.
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy
định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư.
- Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31 tháng 01
năm 2008 của Liên Bộ Tài chính-Tài nguyên và Môi trường Hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ.
- Thông tư số 14/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ
tục thu hồi, giao đất, cho thuê đất.
2.2.2. Các văn bản pháp lý để thực hiện công tác bồi thường GPMB
của tỉnh Yên Bái
Trong giai đoạn 2010 – 2013UBND tỉnh Yên Bái đã ra một số các
quyết định, quy định về GPMB như sau:
- Quyết định số 02/2010/QĐ-UBND ngày 21/10/2010 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Yên Bái về việc ban hành Quy định về chính sách, trình tự, thủ tục
thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quy
định về bộ đơn giá bồi thường cây cối hoa màu và tài sản khác gắn liền với
đất khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
- Quyết định số 04/2011/QĐ-UBND ngày 24/1/2011 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Yên Bái về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy định về chính
sách, trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Yên Bái ban hành kèm theo
quyết định số 02/2010/QĐ-UBND ngày 21/10/2010 của UBND tỉnh Yên Bái.
- Quyết định số 47/2011/QĐ-UBND ngày 28/12/2012 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Yên Bái ban hành quy định về phân loại đường phố, giá các loại đất tại

tỉnh Yên Bái năm 2013.
- Quyết định số 27/2011/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Yên Bái về việc điều chỉnh, bổ sung, thay thế bộ đơn giá bồi thường
về cây cối, hoa màu gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát
triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
- Quyết định số 29/2012/QĐ-UBND ngày 31/8/2012 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Yên Bái về việc điều chỉnh bổ sung thay thế bộ đơn giá bồi thường
về công trình nhà ở, công trình xây dựng, vật kiến trúc và tài sản khác gắn
liền trên đất khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh
Yên Bái.
2.3. Khái quát về công tác bồi thường GPMB
2.3.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
2.3.1.1. Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
- Bồi thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao cho một
chủ thể nào đó bị thiệt hại vì hành vi của chủ thể khác.
- Việc bồi thường có thể bằng tiền hoặc vật chất khác, có thể do các
quy định của pháp luật điều tiết hoặc do thỏa thuận của các chủ thể.
- Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thực chất là việc giải
quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người được giao đất, cho thuê
đất và những người bị thu hồi đất. Bồi thường thiệt hại về đất phải được thực
hiện theo quy định của nhà nước. Việc bồi thường thiệt hại về đất không
giống với việc trao đổi, mua bán tài sản, hàng hóa trên thị trường mà nó phải
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của người bị thu hồi đất,
người nhận quyền sử dụng đất thu hồi, tức là phải giải quyết một cách hài hòa
giữa các đối tượng tham gia.
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
(Luật Đất đai, 2003) [16]

2.3.1.2. Hỗ trợ
- Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước giúp đỡ người bị thu
hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời
đến địa điểm mới, (Luật Đất đai, 2003) [16]
2.3.1.3. Tái định cư
- Tái định cư trong bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu
là việc di chuyển người có đất bị thu hồi đến sinh sống ổn định tại một nơi mới
thông qua các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước nhằm giúp người bị thu hồi đất ổn
định đời sống, sản xuất tại khu tái định cư.
- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ mà phải di chuyển chỗ ở thì
được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức sau:
- Bồi thường bằng nhà ở.
- Bồi thường bằng giao đất ở mới.
- Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.
- Tái định cư là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí quan trọng
trong chính sách GPMB. Các dự án tái định cư cũng được coi là dự án phát triển
và phải được thực hiện như các dự án phát triển khác.
2.3.2. Đặc điểm của quá trình bồi thường và GPMB
- GPMB là một quá trình đa dạng và phức tạp, nó thể hiện khác nhau đối
với mỗi dự án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia và lợi
ích của toàn xã hội.
Vì vậy quá trình bồi thường và GPMB có đặc điểm sau:
- Tính đa dạng: Mỗi dự án được tiến hành trên các vùng đất khác nhau
với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và trình độ dân trí khác nhau. Đối với
khu vực nội thành, mức độ tập trung dân số cao, ngành nghề của dân cư đa
dạng, giá trị đất và tài sản trên đất lớn dẫn đến quá trình GPMB có đặc trưng
nhất định. Đối với khu ven đô, mức độ tập trung dân cư khá cao, ngành nghề
dân cư phức tạp, hoạt động sản xuất đa dạng: Công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, buôn bán nhỏ nên quá trình GPMB cũng có đặc trưng

riêng của nó. Đối với khu vực ngoại thành, hoạt động chủ yếu của dân cư là
sản xuất nông nghiệp, do đó GPMB cũng được tiến hành với những đặc điểm
riêng biệt.
- Tính phức tạp: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội đối với mọi người dân. Ở khu vực nông thôn
dân cư sống chủ yếu nhờ vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai
lại là tư liệu sản xuất, trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng
chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn, do đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được
đất để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn thu được lợi nhuận cao hơn là
sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê. Tình hình đó đã dẫn đến công tác
tuyên truyền vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn. Việc hỗ trợ
nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau này. Mặt khác
cây trồng, vật nuôi trên vùng đất đó cũng rất đa dạng không tập trung một loại
cây trồng, vật nuôi nhất định nên gây khó khăn cho công tác định giá bồi
thường. (Đỗ Thị Lan, 2007) [12]
2.3.3. Trình tự lập hồ sơ phương án bồi thường GPMB
Thực hiện theo quy định về trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế trên
địa bàn tỉnh Yên Bái:
- Uỷ ban nhân dân huyện ra văn bản thông báo chủ trương thu hồi đất;
quyết định thành lập Hội đồng bồi thường GPMB; họp với các hộ gia đình, cá
nhân, tổ chức nằm trong phạm vị bồi thường GPMB để thông báo chủ trương
thu hồi đất và triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước có liên quan đến công tác bồi thường GPMB; phát tờ khai về sử
dụng đất và tài sản trên đất thu hồi; hướng dẫn người bị thu hồi đất kê khai.
- Cơ quan Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị hồ sơ địa chính cho khu
đất thu hồi, hoàn chỉnh gửi Hội đồng bồi thường đảm bảo đúng quy định.
- Người bị thu hồi đất thực hiện kê khai về đất, tài sản trên đất thu hồi,
các chế độ chính sách, các giấy tờ liên quan để chứng minh.

- Hội đồng bồi thường GPMB tổ chức lập biên bản kiểm tra, kiểm kê
về đất, tài sản trên đất thu hồi, các chế độ chính sách, các giấy tờ liên quan để
chứng minh.
- Hội đồng bồi thường GPMB họp xét bồi thường xác định các trường
hợp được bồi thường, không được bồi thường, hoàn thiện biên bản họp xét
bồi thường chuyển cho chủ đầu tư.
- Chủ đầu tư có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hoàn thiện
phương án bồi thường chuyển cho Hội đồng bồi thường GPMB để lấy ý kiến.
- Hội đồng bồi thường GPMB niêm yết công khai phương án bồi
thường để lấy ý kiến về phương án bồi thường.
- Hội đồng bồi thường GPMB họp với người bị thu hồi đất để giải
quyết những vướng mắc, tổng hợp các ý kiến tham gia phương án bồi thường
gửi cho chủ đầu tư.
- Tổ thẩm định bồi thường GPMB tổ chức thẩm định phương án bồi
thường, gửi kết quả thẩm định cho chủ đầu tư để lấy ý kiến.
- Chủ đầu tư gửi hồ sơ thu hồi, giao đất đến cơ quan Tài nguyên và Môi
trường thẩm định trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp phê duyệt.
- Tổ thẩm định phương án bồi thường trình Uỷ ban nhân dân huyện phê
duyệt phương án bồi thường.
- Hội đồng bồi thường GPMB thông báo công khai phương án bồi
thường GPMB đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Chủ đầu tư thực hiện việc chi trả tiền bồi thường theo phương án đã
được phê duyệt.
- Người bị thu hồi đất tháo dỡ, di chuyển GPMB bàn giao đất cho chủ
đầu tư.
- Hội đồng bồi thường GPMB phối hợp với chủ đầu tư, cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giải quyết đối những hộ không thực hiện GPMB.
- Hội đồng bồi thường GPMB quyết toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi
thường GPMB.
2.3.4. Một số yếu tố tác động đến công tác bồi thường và GPMB

2.3.4.1 . Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý,
sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản
- Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển
của nền kinh tế - xã hội. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất
đai đòi hỏi các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính
ổn định cao và phù hợp với tình hình thực tế.
- Ở nước ta, do các đặc điểm lịch sử, kinh tế xã hội của đất nước trong
mấy thập kỷ qua có nhiều biến động lớn, nên các chính sách về đất đai cũng
theo đó không ngừng được sửa đổi, bổ sung. Từ năm 1993 đến năm 2003,
Nhà nước đã ban hành hơn 200 văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử
dụng đất. Sau khi Quốc hội thông qua Luật Đất đai 2003 cùng với các văn
bản hướng dẫn thi hành đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Với một hệ thống
quy phạm khá hoàn chỉnh, chi tiết, cụ thể, rõ ràng, đề cập mọi quan hệ đất đai
phù hợp với thực tế. Các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai của Nhà
nước đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tổ chức thực hiện các nội
dung quản lý Nhà nước về đất đai, giải quyết tốt mối quan hệ đất đai ở khu
vực nông thôn, bước đầu đã đáp ứng được quan hệ đất đai mới hình thành
trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa; hệ thống pháp Luật Đất đai
luôn đổi mới, ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm
quốc phòng, an ninh và ổn định xã hội.
- Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm về quản lý, sử dụng đất
đai, việc tổ chức thực hiện các văn bản đó cũng có vai trò rất quan trọng. Kết
quả kiểm tra thi hành Luật Đất đai năm 2007 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường cho thấy UBND các cấp đều có ý thức quán triệt việc thực thi pháp
luật về đất đai nhưng nhận thức về các quy định của pháp luật nói chung còn
yếu, ở cấp cơ sở còn rất yếu. Từ đó dẫn tới tình trạng có nhầm lẫn việc áp
dụng pháp luật trong giải quyết giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất, cấp giấy CNQSDĐ, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó việc tuyên truyền,
phổ biến của các cơ quan có trách nhiệm chưa thật sát sao. Tại nhiều địa

phương, đang tồn tại tình trạng nể nang, trọng tình hơn chấp hành quy định
pháp luật trong giải quyết các mối quan hệ về đất đai. Cán bộ địa chính, chủ
tịch UBND xã nói chung chưa làm tốt nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, xử lý
kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về đất đai trên địa bàn. Đó là
nguyên nhân làm giảm hiệu lực thi hành pháp luật, gây mất lòng tin trong
nhân dân cũng như các nhà đầu tư và đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ
GPMB.
2.3.4.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
- Đất đai là có hạn, không gian sử dụng đất đai cũng có hạn. Để tồn tại
và duy trì cuộc sống của mình con người phải dựa vào đất đai, khai thác và sử
dụng đất đai để sinh sống. Quy hoạch sử dụng đất đai là biện pháp quản lý
không thể thiếu được trong việc tổ chức sử dụng đất của các ngành kinh tế -
xã hội và các địa phương, là công cụ thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
có tác dụng quyết định để cân đối giữa nhiệm vụ an toàn lương thực với
nhiệm vụ CNH-HĐH đất nước nói chung và các địa phương nói riêng .
- Thông qua việc lập, xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất để
tổ chức việc bồi thường GPMB thực sự trở thành sự nghiệp của cộng đồng mà
Nhà nước đóng vai trò là người tổ chức. Bất kỳ một phương án bồi thường
GPMB nào đều dựa trên một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nhằm
đạt được các yêu cầu như là phương án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có tác động tới chính sách bồi thường đất
đai trên hai khía cạnh:
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ quan trọng
nhất để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất,
mà theo quy định của Luật Đất đai, việc giao đất, cho thuê đất chỉ được thực
hiện khi có quyết định thu hồi đất đó của người đang sử dụng;
- Tuy nhiên chất lượng quy hoạch nói chung và quy hoạch nói riêng còn
thấp, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, tính khả thi thấp, đặc biệt là thiếu tính bền
vững. Phương án quy hoạch chưa dự báo sát tình hình, quy hoạch còn mang
nặng tính chủ quan duy ý chí, áp đặt, nhiều trường hợp quy hoạch theo phong

trào. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng quy hoạch “treo”, dự
án “treo”.
2.3.4.3. Công tắc đăng kí và cấp giấy CNQSDĐ
- Đăng ký đất đai là một thành phần cơ bản quan trọng nhất của hệ thống
quản lý đất đai, đó là quá trình xác lập hồ sơ về quyền sở hữu đất đai, bất
động sản, sự đảm bảo và những thông tin về quyền sở hữu đất. Theo quy định
của các nước, đất đai là một trong các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng. Ở nước ta, theo quy định của Luật Đất đai, người sử dụng đất
phải đăng ký quyền sử dụng đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể
là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất) và được cấp GCNQSDĐ. Chức
năng của đăng ký đất đai là cung cấp những căn cứ chuẩn xác và an toàn cho
việc thu hồi, chấp thuận và từ chối các quyền về đất.
- Trong công tác bồi thường GPMB, GCNQSDĐ là căn cứ để xác định
đối tượng được bồi thường, loại đất, diện tích đất tính bồi thường. Hiện nay,
công tác đăng ký đất đai ở nước ta vẫn còn yếu kém, đặc biệt công tác đăng
ký biến động về sử dụng đất; việc cấp GCNQSDĐ vẫn chưa hoàn tất. Chính
vì vậy mà công tác bồi thường GPMB đã gặp rất nhiều khó khăn. Làm tốt
công tác đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ thì công tác bồi thường GPMB sẽ
thuận lợi, tiến độ GPMB nhanh hơn.
2.3.4.4. Yếu tố giá đất và định giá đất
- Hiện nay ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giá cả đất đai dựa
trên chuyển nhượng quyền sử dụng, là tổng hòa giá trị hiện hành địa tô nhiều
năm. Một trong những điểm mới của Luật Đất đai 2003 là các quy định về giá
đất. Nếu như trước đây Nhà nước chỉ quy định một loại giá đất áp dụng cho
mọi quan hệ đất đai khác nhau thì Luật Đất đai 2003 đề cập nhiều loại giá đất
để xử lý từng nhóm quan hệ đất đai khác nhau .
- Trước khi có Luật Đất đai năm 2003:
Những vấn đề liên quan đến việc xác định giá đất, bồi thường, GPMB,
tái định cư đều được quy định tại các văn bản dưới luật như Nghị định số
87/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại

đất; Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 9 năm 1994 của Chính phủ quy định
về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và Nghị định số
22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính phủ ban hành quy định
về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng Giá đất để tính bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất do UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quyết định trên cơ sở khung giá đất do Chính phủ ban hành
kèm theo Nghị định số 87/CP. Khung giá đất để tính bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất quy định tại Nghị định số 87/CP đã được áp dụng trong
một thời gian khá dài (trên mười năm), mặc dù trong quá trình áp dụng có quy
định việc điều chỉnh khung giá đất để tính bồi thường bằng hệ số K nhưng
mức tăng cao nhất cũng chỉ là 1, 2 lần đối với đất nông nghiệp hạng i. Do vậy
giá đất để tính bồi thường vẫn thấp hơn nhiều so với giá thực tế, dẫn đến phát
sinh hàng loạt các khiếu kiện về bồi thường, GPMB tại các địa phương.
- Từ khi có Luật Đất đai 2003: Quy định giá đất được hình thành trong
các trường hợp sau đây:
- Do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định giá theo
quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 56 của Luật này;
- Do đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất;
- Do người sử dụng đất thỏa thuận về giá đất với những người có liên
quan khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử
dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
- Những vấn đề quan trọng, có tính nguyên tắc liên quan đến xác định giá
đất, bồi thường, GPMB, tái định cư đã được quy định khá cụ thể tại Luật Đất đai
năm 2003. Đặc biệt, việc xác định giá đất được thực hiện theo nguyên tắc “sát
với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều kiện bình
thường” (khoản 1 Điều 56). Thực hiện các quy định về giá đất tại Luật Đất đai
năm 2003, ngày 16 tháng 11 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định
188/2004/NĐ-CP về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.

- Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, nguyên tắc định giá đất là
phải sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, tình hình
phổ biến hiện nay là giá đất do các địa phương quy định và công bố đều
không theo đúng nguyên tắc đó, dẫn tới nhiều trường hợp ách tắc về bồi
thường đất đai và phát sinh khiếu kiện. (Luật Đất đai, 2003) [16]
2.3.4.5. Thị trường bất động sản
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, thị trường bất động sản
ngày càng được hình thành và phát triển. Ngày nay thị trường bất động sản đã
trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống các loại thị trường của
nền kinh tế quốc dân, nó có những đóng góp vào ổn định xã hội và thúc đẩy
nền kinh tế đất nước trong thời gian qua và trong tương lai.
- Giá cả của Bất động sản được hình thành trên thị trường và nó sẽ tác
động tới giá đất tính bồi thường.
2.3.5. Giá đất trong công tác bồi thường và GPMB
- Giá đất là công cụ kinh tế để Nhà nước quản lý và người sử dụng đất tiếp
cận với cơ chế thị trường. Đồng thời cũng là căn cứ để đánh giá sự công bằng
trong phân phối đất đai giữa người sử dụng thực hiện nghĩa vụ của mình và Nhà
nước điều chỉnh các mối quan hệ đất đai theo pháp luật.
- Khoản 23 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “ Giá quyền sử dụng
đất (sau đây gọi là giá đất) là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà
nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất”.
- Điều 55 Luật Đất đai quy định giá đất được hình thành trong các trường
hợp sau đây:
- Do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định (căn cứ vào
nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất do Chính
phủ quy định) và được công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 hàng năm.
- Do đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất.
- Do người sử dụng đất thỏa thuận về giá đất với những người có liên quan
khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng
đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất.

- Khoản 4 Điều 56 Luật Đất đai năm 2003 quy định: Giá đất do UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định được công bố công khai vào
ngày 01 tháng 01 hàng năm và được dùng làm căn cứ để tính thuế sử dụng đất;
thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; tính tiền sử dụng đất vào tiền thuê
đất khi giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc
đấu thầu dự án có sử dụng đất; tính giá trị quyền sử dụng đất khi giao đất không
thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; tính
tiền bồi thường đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây
thiệt hại cho Nhà nước. (Luật Đất đai, 2003) [16]
- Như vậy, trên thực tế có hai loại giá đất: giá do Nhà nước quy định và
giá đất theo thị trường. Hai giá này đều có mặt trong việc xử lý quan hệ đất đai
(hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp) giữa Nhà nước với người sử dụng đất và giữa
người sử dụng đất với nhau.
2.4. Chính sách bồi thường GPMB khi nhà nước thu hồi đất
2.4.1. Trước khi có Luật Đất đai 1988
* Hiến pháp 1946:
- Sau cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 nước ta đã có Hiến pháp vào
năm 1946, đến năm 1953 Nhà nước thực hiện cải cách ruộng đất. Một trong
những mục tiêu của cải cách ruộng đất là thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất

×