Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về đa dạng sinh học tại vườn quốc gia Xuân Thủy - Nam Định.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.78 KB, 66 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




MAI THỊ HƯƠNG


Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TRUYỀN
THÔNG NÂNG CAO NHẬN THỨC CỘNG ĐỒNG VỀ ĐA DẠNG
SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY - NAM ĐỊNH’’


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học môi trường
Khoa : Môi trường
Khoá học : 2010 - 2014

Giáo viên hướng dẫn: Th.S Đặng Thị Hồng Phương
Khoa Môi trường - Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên






Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn rất quan trọng đối với mỗi sinh viên.
Đây là thời gian chúng ta vận dụng, kết hợp giữa kiến thức đã học trên ghế
nhà trường vào thực tiễn cuộc sống. Được sự đồng ý của khoa Môi trường -
Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, em tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp truyền thông nâng cao
nhận thức cộng đồng về đa dạng sinh học tại vườn quốc gia Xuân Thủy -
Nam Định”
Đến nay em đã hoàn thành thời gian thực tập tốt nghiệp và khóa luận
tốt nghiệp. Nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa
Môi trường - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ em trong
quá trình học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn ThS. Đặng
Thị Hồng Phương đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt quá trình
thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn vườn quốc gia Xuân Thủy đã tạo điều kiện giúp
đỡ em trong thời gian thu thập thông tin, tài liệu nghiên cứu làm khóa luận.
Vì năng lực bản thân và thời gian có hạn nên khóa luận của em không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy, cô giáo và các bạn để bài khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn
thiện hơn.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn!
Nam Định, ngày 20 tháng 4 năm 2014
Sinh viên


Mai Thị Hương

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Ý nghĩa
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BTNMT : Bộ Tài nguyên và Môi trường
BTTN : Bảo tồn thiên nhiên
BVMT : Bảo vệ môi trường
CBD : Hiệp định quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học
ĐDSH : Đa dạng sinh học
ĐNN : Đất ngập nước
HST : Hệ sinh thái
IUCN : Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
LHQ : Liên hợp quốc
NĐ- CP : Nghị định - Chính phủ
QĐ- TTg : Quyết định - Thủ tướng
TNCS : Thanh niên Cộng sản
TW : Trung Ương
UBND : Uỷ ban nhân dân
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
UNEP : Chương trình môi trường của Liên hợp quốc
VQG : Vườn quốc gia
WAP : Chương trình Liên minh Đất ngập nước quốc tế
WWF : Qũy Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 4.1. Diện tích và phân bố các loại đất nông nghiệp 34
Bảng 4.2. Diện tích, phân bố các đầm nuôi Tôm và vây nuôi Vạng 37
Bảng 4.3. Diện tích, tỉ lệ và phân bố các loại đất chưa sử dụng 39

Bảng 4.4. Đường giao thông ở các xã vùng đệm 41
Bảng 4.5. Số lượng các loài thực vật trong VQG Xuân Thủy 42
Bảng 4.6. Các dạng sống của thực vật ở VQG 43
Bảng 4.7. Thành phần các loài thực vật nổi ở VQG 44
Bảng 4.8. Thành phần các loài động vật nổi ở VQG 44
Bảng 4.9. Các loài chim ở VQG được ghi trong Sách Đỏ thế giới(1996) và
Sách Đỏ Việt Nam (2002) 45
Bảng 4.10. Bảng tiếp nhận thông tin thường xuyên về ĐDSH từ các nguồn
của người dân vùng đệm 46
Bảng 4.11. Bảng thu thập mức độ hiểu biết liên quan đến các vấn đề môi
trường của người dân vùng đệm 48



DANH MỤC CÁC HÌNH


Trang
Hình 4.1. Tỷ lệ các loài thực vật tìm thấy trong VQG (%) 42
Hình 4.2. Tỷ lệ tiếp nhận thông tin thường xuyên về ĐDSH từ các nguồn của
người dân vùng đệm (%) 46
Hình 4.3. Tỷ lệ hiểu biết của người dân vùng đệm về các vấn đề
môi trường (%) 49


MỤC LỤC

Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Mở đầu 1

1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài 2
1.2.1. Mục đích của đề tài 2
1.2.2. Yêu cầu của đề tài 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Vài nét về ĐDSH và vai trò của ĐDSH 4
2.2. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH trên thế giới và ở Việt Nam 7
2.2.1. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH trên thế giới 7
2.2.2. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam 12
2.2.3. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH ở tỉnh Nam Định 18
2.3. Hiện trạng công tác truyền thông bảo vệ môi trường 21
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 24
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 24
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 24
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 24
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 24
3.3. Nội dung nghiên cứu 24
3.3.1. Giới thiệu về VQG Xuân Thủy 24
3.3.1.1. Khu vực VQG Xuân Thủy 24
3.3.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng đệm VQG Xuân Thủy-
Nam Định 24
3.3.2. Đánh giá hiện trạng ĐDSH VQG 24
3.3.3. Đánh giá hiện trạng công tác truyền thông nâng cao nhận thức cộng
đồng về ĐDSH VQG 24
3.3.4. Đánh giá tình hình nhận thức của người dân vùng đệm về ĐDSH 24
3.3.5. Nhu cầu truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về ĐDSH 24
3.3.6. Đề xuất các giải pháp nâng cao nhận thức cộng đồng về ĐDSH 24

3.4. Phương pháp nghiên cứu 24
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu 24
3.4.1.1. Thu thập số liệu thứ cấp 24
3.4.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 25
3.4.2. Phương pháp phân tích thống kê và liệt kê 25
3.4.3. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu 25
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 26
4.1. Giới thiệu về VQG Xuân Thủy 26
4.1.1. Khu vực VQG Xuân Thủy 26
4.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng đệm VQG Xuân Thủy - Nam
Định 27
4.1.2.1. Điều kiện tự nhiên 27
4.2. Hiện trạng ĐDSH VQG Xuân Thủy 42
4.3. Hiện trạng công tác truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về
ĐDSH VQG 46
4.3.1. Hiện trạng tiếp nhận thông tin thường xuyên về ĐDSH của người dân
vùng đệm 46
4.3.2. Mức độ hiểu biết liên quan đến các vấn đề môi trường của người dân
vùng đệm 48
4.4. Nhận thức của người dân vùng đệm về ĐDSH 50
4.5. Nhu cầu đào tạo, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về ĐDSH 54
4.6. Đề xuất một số giải pháp truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng bảo
tồn ĐDSH khu bảo tồn VQG Xuân Thủy 55
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 57
5.1. Kết luận 57
5.2. Kiến nghị 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

1


Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Mở đầu
Việt Nam được công nhận là một trong những quốc gia có tính đa
dạng sinh học cao nhất trên thế giới, với những hệ sinh thái rừng, đất ngập
nước, sông suối, biển, rạn san hô,… tạo nên môi trường sống cho khoảng
10% tổng số loài chim và thú hoang dã trên thế giới. Hệ sinh thái của Việt
Nam rất phong phú, đa dạng, bao gồm 11.458 loài động vật, 21.017 loài thực
vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng
để cung cấp vật liệu di truyền và có giá trị đặc biệt là các cây thuốc, các loài
hoa, cây cảnh nhiệt đới,… Tuy nhiên, ĐDSH ở nước ta đang bị đe dọa và
ngày càng suy thoái nhanh. Diện tích các khu vực hệ sinh thái tự nhiên bị thu
hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh
hoặc bị bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao. Các nguồn gen quý hiếm cũng
đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái ĐDSH dẫn đến
mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con
người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước. Để bảo tồn ĐDSH và duy
trì hệ sinh thái này, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường đầu tư
cho các chương trình, dự án bảo tồn sinh học [4].
Vườn quốc gia Xuân Thủy là một khu rừng ngập mặn thuộc khu dự trữ
sinh quyển châu thổ sông Hồng, là khu vực có hệ sinh thái đất ngập nước cửa
sông ven biển điển hình ở Việt Nam. Đây là rừng ngập mặn đầu tiên ở Việt
Nam được quốc tế công nhận theo công ước Ramsar là rừng ngập mặn thứ 50
của thế giới. Vườn quốc gia Xuân Thủy được nâng cấp từ Khu bảo tồn đất
ngập nước Xuân Thủy theo quyết định số 01/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 2 tháng
1 năm 2003 [6].
Vườn Quốc gia Xuân Thủy là một bãi bồi rộng lớn nằm ở phía đông
nam huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, ngay tại cửa Ba Lạt của sông Hồng.

Phù sa màu mỡ của sông Hồng và biển đã tạo dựng nên khu đất ngập nước
với nhiều loài động thực vật hoang dã, nhất là các loài chim di cư quý hiếm.

2

Diện tích toàn bộ vườn khoảng 7.100 ha, gồm: 3.100 ha diện tích đất nổi có
rừng và 4.000 ha đất rừng ngập mặn. Khu vực vùng lõi của vườn là diện tích
đất ngập mặn trên ba cồn cát cửa sông là cồn Ngạn, cồn Lu và cồn Xanh
thuộc xã Giao Thiện. Toàn bộ vùng đệm và vùng lõi của vườn nằm trên địa
phận các xã Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải [6].
Hàng năm có tới khoảng 100 loài chim di cư chọn nơi đây là điểm
lưu trú trên đường di cư về phương Nam trú đông, trong đó có tới 1/5 số
lượng

cò mỏ thìa

của toàn thế giới. Tại vườn ước tính có 219 loài chim
nước sinh sống, nhiều loài gần như tuyệt chủng có tên trong sách đỏ thế
giới, như: rẽ mỏ thìa, bồ nông, cò thìa, choi choi mỏ thìa, mòng biển, diệc
đầu đỏ Trên vùng đất ngập mặn này, dưới làn nước thủy triều có khoảng
167 loài động thực vật nổi và 154 loài động vật đáy. Về thực vật, vườn hiện
có 192 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có nhiều loài rong tảo có giá
trị kinh tế cao.Vườn có vị trí quan trọng đến môi trường sinh thái và cảnh
quan cũng như đời sống của người dân tại khu vực vùng đệm và vùng lõi.
Hiện nay, những tác động tiêu cực từ thiên nhiên như bão, lũ lụt, biến đổi
khí hậu,… cũng như các hoạt động của con người đã và đang làm suy thoái
hệ sinh thái và làm giảm tính đa dạng sinh học của khu bảo tồn vườn quốc
gia Xuân Thủy. Đề tài “Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp truyền
thông nâng cao nhận thức cộng đồng về đa dạng sinh học tại vườn quốc
gia Xuân Thủy - Nam Định’’ được thực hiện nhằm đánh giá đầy đủ hiện

trạng công tác truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về ĐDSH của
địa phương, từ đó đánh giá, đề xuất giải pháp thích hợp để nâng cao nhận
thức cộng đồng về ĐDSH của địa phương.
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài

1.2.1. Mục đích của đề tài
- Hiện trạng công tác quản lý của khu bảo tồn vườn quốc gia Xuân Thủy.
- Xác định một số yếu tố gây suy giảm đa dạng sinh học.
- Đánh giá nhận thức của của cộng đồng: người dân tại các xã vùng
đệm, khách du lịch, cán bộ tại khu bảo tồn vườn quốc gia.
- Đề xuất các giải pháp truyền thông nâng cao nhận thức của cộng
đồng, tạo cân bằng phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân

3

nhưng vẫn bảo vệ môi trường sinh thái và đa dạng sinh học.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Phản ánh đúng thực trạng nhận thức của người dân tại vùng đệm
vườn quốc gia Xuân Thủy
- Đảm bảo tài liệu, số liệu đầy đủ, chính xác, khách quan.
- Đảm bảo những kiến nghị, đề xuất phải mang tính khả thi, phù
hợp với điều kiện địa phương và cơ quan quản lý khu bảo tồn vườn quốc
gia Xuân Thủy.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút ra kinh nghiệm thực tế phục vụ
cho nghiên cứu sau này.
- Vận dụng và phát huy kiến thức đã học tập và nghiên cứu.
- Là cơ sở, tài liệu cho các nghiên cứu khoa học về sau.
- Nâng cao khả năng học tập, nghiên cứu và tìm tài liệu tham khảo.

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá hiện trạng đa dạng sinh học và công tác quản lý khu bảo tồn.
- Đề xuất một số giải pháp truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng
bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tại
khu vực.










4


Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Vài nét về ĐDSH và vai trò của ĐDSH
 Vài nét về ĐDSH
Theo Công ước về đa dạng sinh học năm 1992: Đa dạng sinh học là
sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong các hệ sinh
thái trên cạn, dưới nước, ở biển và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên;
ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền hay còn gọi là đa
dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái (đa dạng các hệ
sinh thái).
- Đa dạng di truyền là sự phong phú những biến dị trong cấu trúc di

truyền của các cá thể bên trong loài hoặc giữa các loài; những biến dị di
truyền bên trong hoặc giữa các quần thể.
- Đa dạng loài là sự phong phú về các loài được tìm thấy trong các hệ
sinh thái tại một vùng lãnh thổ xác định thông qua việc điều tra, kiểm kê.
- Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái khác
nhau ở cạn cũng như ở nước tại một vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống
bao gồm sinh vật và môi trường tác động lẫn nhau mà ở đó thực hiện vòng
tuần hoàn vật chất, năng lượng và trao đổi thông tin.
* Đa dạng các hệ sinh thái
- Hệ sinh thái trên cạn:
+ Trong các hệ sinh thái trên cạn thì rừng có sự đa dạng về thành
phần loài cao nhất, đồng thời đây cũng là nơi cư trú của nhiều loài động, thực
vật hoang dã và vi sinh vật có giá trị kinh tế và khoa học. Các kiểu hệ sinh
thái khác có thành phần loài nghèo hơn. Kiểu hệ sinh thái nông nghiệp và
khu đô thị là những kiểu hệ sinh thái nhân tạo, thành phần loài vi sinh vật
nghèo nàn [17].
+ Xét theo tính chất cơ bản là thảm thực vật bao phủ đặc trưng cho
rừng mưa nhiệt đới ở Việt Nam, có thể thấy các kiểu rừng tiêu biểu: rừng kín
vùng thấp, rừng thưa, trảng truông, rừng kín vùng cao, quần hệ lạnh vùng

5

cao. Trong đó, các kiểu và kiểu phụ thảm thực vật sau đây có tính ĐDSH cao
hơn và đáng chú ý hơn cả: kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, kiểu
rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới, kiểu rừng kín cây lá rộng, kiểu phụ
rừng trên núi đá vôi [17].
- Hệ sinh thái đất ngập nước:
+ Theo Công ước Ramsar: Đất ngập nước là những vùng đầm lầy,
than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay
tạm thời, có nước cháy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể

cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6m khi triều thấp.
+ ĐNN Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc 2
nhóm ĐNN: ĐNN nội địa và ĐNN ven biển. Trong đó, có một số kiểu có
tính ĐDSH cao:
• Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có chức năng và giá trị
như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi
đẻ, bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế
khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển
chống lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất
nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát)
[17].
• Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông
Nam Á. Cà Mau là hai vùng đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng
bằng sông Cửu Long của Việt Nam [17].
• Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc
tính pha trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm
phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu
trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt.
• Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng
biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã
rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp
xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loài rùa biển và đặc
biệt loài thú biển Dugon [17].

6

• Vùng biển quanh các đảo ven bờ: vùng nước ven bờ của hầu hết các
đảo lớn được đánh giá có mức độ ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thù
như rạn san hô, cỏ biển,…[17].
- Hệ sinh thái biển: Các nguồn tài nguyên sinh vật biển rất phong phú, đa

dạng. Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260km và vùng đặc quyền kinh tế rộng
trên 1 triệu km
2
với nguồn tài nguyên sinh vật biển khá phong phú. Trong vùng
biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20
kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng ĐDSH biển khác nhau.
* Đa dạng loài
- Về thực vật đến nay đã thống kê được khoảng 90.000 loài có mặt ở
vùng nhiệt đới. Vừng nhiệt đới Nam Mỹ là nơi giàu nhất chiếm 1/3 tổng số
loài: Braxin có 50.000 loài cây có hoa; Colombia có 35.000 loài; Venezuela
có 15.000- 25.000 loài. Vùng Châu Phi kém đa dạng hơn Nam Mỹ: Tanzania
10.000 loài, Camơrun 8.000 loài. Trong khi đó, toàn bộ vùng Bắc Mỹ, Âu, Á
chỉ có 50.000 loài. Vùng Đông Nam Á có tính ĐDSH khá cao 25.000 loài
chiếm 10% số loài thực vật có hoa trên thế giới, trong đó có 40% là loài đặc
hữu, Inđônesia có 20.000 loài, Malaysia và Thái Lan có 12.000 loài, Đông
Dương có 15.000 loài [17].
- Thành phần loài động thực vật ở Việt Nam được thống kê thì nhóm
sinh vật vi tảo ở vùng nước ngọt được xác định là 1.438 loài (chiếm 9,6%) so
với thế giới (15000 loài); thực vật bậc cao có khoảng 11.400 loài (chiếm 5%)
so với thế giới (220.000 loài); bò sát 296 loài (chiếm 4,7%) so với thế giới
(6.300 loài). Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ ĐDSH cao trên thế
giới với dự tính có thể có tới 20.000- 30.000 loài thực vật. Việt Nam được
xếp vào thứ 16 về mức độ ĐDSH (chiếm 6,5% số loài trên thế giới) [17].
* Đa dạng nguồn gen trong nông nghiệp
- Nguồn gen giống cây trồng và vật nuôi:
+ Các giống cây trồng bản địa
+ Các giống cây trồng mới
+ Các giống cây trồng được nông dân ở các tỉnh biên giới trao đổi với
nhau qua biên giới hoặc mua bán qua đường tiểu ngạch.


7

 Vai trò của ĐDSH
- Các HST của trái đất là cơ sở sinh tồn của sự sống cho cả trái đất và
cả con người. Các HST đảm bảo cho sự chu chuyển oxy và các nguyên tố
dinh dưỡng khác trên toàn hành tinh. Chúng duy trì tính ổn định và sự màu
mỡ của đất nói riêng và của hành tinh nói chung. Các HST bị suy thoái thì
tính ổn định và sự mềm dẻo, linh động của sinh quyển cũng bị thương tổn.
- Các HST tự nhiên có giá trị thực tiễn rất cao: Rừng hạn chế sự xói
mòn của mặt đất và bờ biển, điều tiết dòng chảy, loại trừ các cặn bã làm cho
dòng chảy trở nên trong và sạch; các bãi cỏ biển, các rạn san hô,…ở thềm lục
địa làm giảm cường độ phá hoại của sóng, dòng biển, là nơi nuôi dưỡng,
cung cấp thức ăn và duy trì cuộc sống cho hàng vạn loài sinh vật biển [18].
- Duy trì, cung cấp nguồn gen và là kho dự trữ các nguồn gen quý
hiếm cho cây trồng và vật nuôi tương lai [18].
- Nhiều loài động thực vật được sử dụng làm thức ăn cho con người,
gia súc, làm thuốc, lấy gỗ làm nhà, phục vụ cho phát triển kinh tế, làm chất
đốt lấy năng lượng, làm cây cảnh,… Hiện tại, đã thống kê được 30.000 loài
cây có những phần ăn được, nhưng chỉ mới khoảng 7.000 loài được trồng
hoặc thu hái làm thức ăn, trong đó có 20 loài đã cung cấp đến 90% lượng
tinh bột trên toàn thế giới [18]
- Sinh vật trong quá trình tiến hóa đã tồn tại và phát triển một cách bền
vững và hài hòa với nhau, tạo nên một thiên nhiên đa dạng, phong phú và
hấp dẫn, làm nền tảng cho mọi cảm hứng về thẩm mỹ, nghệ thuật, văn hóa,
giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và tích lũy cho xã hội tương
lai [18].
2.2. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH trên thế giới
Thuật ngữ ĐDSH xuất hiện từ giữa những năm 1980, nhằm nhấn
mạnh sự cần thiết trong các hoạt động nghiên cứu về tính đa dạng và phong

phú của sự sống trên trái đất. Thuật ngữ này hiện nay đang được sử dụng một
cách rộng rãi nhất trên phạm vi toàn cầu trong các lĩnh vực khoa học và văn
hóa đời sống. IUCN đã thúc đẩy ý tưởng về một công ước toàn cầu về ĐDSH
vào năm 1981, và vào năm 1987, UNEP đã kêu gọi một sự hợp tác quốc tế

8

nhằm bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH. Các cuộc họp trù bị đã thành
lập Ủy ban hợp tác liên chính phủ để chuẩn bị cho Công ước ĐDSH và vào
tháng 5 năm 1992, bản thảo cuối cùng của công ước RIO đã được chuẩn bị
xong. Chiến lược ĐDSH toàn cầu đã được Viện Tài nguyên Thế giới, IUCN
và UNEP công bố năm 1992. CBD đã được 179 nước trên thế giới thông
qua, trong đó có Việt Nam. Tài nguyên đa dạng sinh học đang thu hút sự
quan tâm của toàn nhân loại bởi giá trị và tầm quan trọng của nó.Thế giới
sinh học trải qua hàng triệu năm phát triển để được như ngày nay với khoảng
10 - 100 triệu loài sinh sống, trong đó khoảng 1,7 triệu loài đã được định tên
(Hawksworth và Ritchie 1998), đang bị tàn phá nghiêm trọng. Khoảng 20%
số loài đã bị biến mất trong vòng 30 năm qua và 50% hoặc hơn nữa sẽ ra đi
vào cuối thế kỷ 21 (Myers, 1993; Sharma, 2004). Nguyên nhân suy thoái gây
nên bởi con người do sự tàn phá các khu vực sinh sống tự nhiên, canh tác,
khai thác bừa bãi, ô nhiễm, du nhập ồ ạt cây trồng và vật nuôi,…[7].
Các loài thực vật và động vật tạo nên sự kỳ diệu trong thế giới hoang
dã đều có vai trò cụ thể, đóng góp thiết yếu cho cuộc sống con người như
cung cấp lương thực, thuốc men, oxy, nước và cân bằng hệ sinh thái. Khí
hậu thay đổi dẫn tới môi trường sống thay đổi và các loài động, thực vật
cũng phải thay đổi chu kỳ sinh trưởng và các đặc điểm cơ thể hoặc thay đổi
đường di cư để thích nghi với môi trường mới, làm mất đi sự đa dạng sinh
học. Theo một nghiên cứu mới đây về đa dạng sinh học quốc tế, các nhà
khoa học cảnh báo, hơn một phần ba loài động vật trên thế giới có nguy cơ
tuyệt chủng. Ngoài 47.677 loài nằm trong danh sách Đỏ, một đánh giá có

thẩm quyền nhất của các nước về các loài vật trên Trái đất có nguy cơ tuyệt
chủng và được đưa ra dựa trên nghiên cứu của hàng nghìn nhà khoa học,
hiện nay 17.291 loài đang bị đe dọa, trong đó 21% là động vật có vú, 30%
động vật lưỡng cư, 70% thực vật và 35% loài không xương sống. Các loài
động vật lưỡng cư là nhóm sinh vật bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất trên
Trái đất với 1.895 trong số 6.285 loài nằm trong danh sách bị đe dọa. Trong
số này, 39 loài tuyệt chủng, 484 loài có nguy cơ tuyệt chủng cao, 754 loài
bị đe dọa và 657 loài không được bảo vệ. Các nhà khoa học cảnh báo, thế
giới không những lo ngại số loài vật có nguy cơ tuyệt chủng cao mà còn bị

9

đe dọa phá vỡ hoàn toàn hệ sinh thái. Những con số trên báo động nguy cơ
các loài sinh vật biến mất vĩnh viễn mặc dù các nhà lãnh đạo trên thế giới
đều cam kết sẽ hành động để đảo ngược xu hướng đó [7].
Công ước về đa dạng sinh học có hiệu lực năm 1993 đã đưa ra ba mục
tiêu: bảo tồn đa dạng sinh học; sử dụng sự đa dạng sinh học một cách bền
vững; chia sẻ lợi ích của đa dạng sinh học một cách công bằng. Hiện nay, 168
quốc gia đã ký công ước trên, trong đó đặt mục tiêu đến năm 2010 giảm đáng
kể tỷ lệ mất đa dạng sinh học ở các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia. Tuy
nhiên, theo các nhà bảo tồn, loài người chưa tiến hành đủ các biện pháp để
ngăn chặn những mối đe dọa chính. Ô nhiễm môi trường, khí hậu thay đổi dẫn
tới sự mất dần môi trường sống của các loài động, thực vật, một trong những
nguyên nhân dẫn tới sự mất đa dạng sinh học. Mất đi môi trường sống ảnh
hưởng đến 40% động vật có vú. Giám đốc IUCN, bà G.Xmát cảnh báo, hiện
có những bằng chứng khoa học về một cuộc khủng hoảng tuyệt chủng nghiêm
trọng. Sự mất đa dạng sinh học xảy ra nghiêm trọng nhất ở khu vực Trung và
Nam Mỹ; Đông, Tây và Trung Phi, nhất là ở Ma-đa-ga-xca; Nam và Đông-
Nam Á. Mất đa dạng sinh học là một trong những cuộc khủng hoảng trầm
trọng nhất thế giới khi số các loài sinh vật giảm xuống mức thấp. Các nước

châu Phi cảnh báo rằng, hệ sinh thái của châu lục này dễ tổn thương nhất thế
giới trước những biến động của thời tiết. Nạn đói, khan hiếm nước, tình trạng
sa mạc hóa, năng suất nông nghiệp giảm khiến chất lượng cuộc sống con
người ở châu Phi xuống thấp. Châu Phi chiếm khoảng một phần năm diện tích
đất toàn cầu và có khoảng một phần năm các loài cây, động vật có vú và chim
trên thế giới, chiếm một phần sáu loài lưỡng cư và bò sát. Khoảng một phần
năm số loài chim ở miền nam châu Phi đã di cư theo mùa ở châu Phi và một
phần mười di cư giữa châu Phi và các châu lục khác trên thế giới.
Theo các nhà phân tích, thế giới sẽ không đạt được mục tiêu giảm sự
mất đa dạng sinh học vào năm 2010. Vì vậy đã đến lúc chính phủ các nước
phải hành động để cứu các loài động, thực vật và phải đưa vấn đề này trở
thành trọng tâm của các chương trình nghị sự năm tới khi không còn nhiều
thời gian. Các tổ chức quốc tế và nhiều nước kêu gọi đưa vấn đề hậu quả
nhân đạo vào nội dung các cuộc thương lượng chống biến đổi khí hậu. Mới

10
đây, một nhóm khoảng 70 nhà khoa học trên thế giới đã đề xuất thành lập
một "vườn bách thú gen", coi đây là kho dữ liệu về gen của 10.000 loài động
vật có vú, chim, bò sát, động vật lưỡng cư và cá trên toàn thế giới. Ra đời từ
tháng 4-2009 với sự tham gia của các nhà khoa học làm việc tại các vườn
thú, bảo tàng động vật, trung tâm nghiên cứu và các trường đại học lớn trên
thế giới, mục tiêu của dự án trị giá 50 triệu USD này là tập hợp và giải mã
toàn bộ gen của khoảng 10.000 loài động vật có xương sống trên Trái đất.
Theo GS Đ.Hau-xlơ, Đại học Califonia (Mỹ), những kiến thức và sự hiểu
biết về quá trình tiến hóa của các loài động vật có xương sống là một trong
những khám phá vĩ đại nhất của khoa học. Với việc thành lập "vườn bách thú
gen", giới khoa học sẽ có một cái nhìn xác thực hơn về quá trình tiến hóa
cũng như biến đổi về gen của các loài động vật qua thời gian để chúng thích
hợp với môi trường và điều kiện sống. Kho dữ liệu này cũng sẽ góp phần vào
công tác bảo tồn như so sánh sự đa dạng hóa về gen, giúp các nhà khoa học

dự báo chính xác hơn về phản ứng của các loài động vật đối với những thay
đổi về môi trường như ô nhiễm, biến đổi khí hậu, biến đổi về sinh học, [7].

Rừng nhiệt đới ẩm ướt là một quần xã sinh vật phong phú nhất về loài,
và các rừng mưa nhiệt đới tại châu Mỹ thì phong phú về loài hơn các rừng
đất ẩm ướt ở châu Phi và châu Á. Như là một dải rừng mưa nhiệt đới lớn
nhất tại châu Mỹ, rừng mưa Amazon có sự đa dạng sinh học không thể so
sánh. Khoảng 10% số lượng loài đã biết trên thế giới sống tại rừng mưa
Amazon. Nó hợp thành tập hợp lớn nhất các loài động, thực vật còn sinh tồn
trên thế giới. Khu vực này là quê hương của khoảng 2,5 triệu loài côn trùng,
hàng chục nghìn loài thực vật, và khoảng 2.000 lài chim cùng thú. Tới nay, ít
nhất khoảng 40.000 loài thực vật, 3.000 loài cá, 1.294 loài chim, 427 loài thú,
428 loài động vật lưỡng cư, và 378 loài bò sát đã được phân loại khoa học
trong khu vực này. Khoảng 20% loài chim trên thế giới sống trong các khu
rừng mưa của Amazon. Các nhà khoa học đã mô tả khoảng 96.660-128.843
loài động vật không xương sống chỉ tại mỗi Brasil. Sự đa dạng về loài thực
vật là cao nhất trên Trái Đất với một số nhà khoa học ước tính rằng một
kilômét vuông có thể chứa trên 75.000 kiểu cây gỗ và 150.000 loài thực vật
bậc cao. Một kilômét vuông đất rừng mưa Amazon có thể chứa khoảng

11
90.790 tấn thực vật còn sinh tồn. Sinh khối thực vật trung bình ước đạt 356 ±
47 tấn/ha. Tới nay, ước khoảng 438.000 loài thực vật có tầm quan trọng kinh
tế và xã hội đã được ghi nhận trong khu vực với nhiều loài hơn nữa vẫn đang
được phát hiện hay lập danh lục. Khu vực lá xanh của thực vật và cây gỗ
trong rừng mưa dao động khoảng 25% như là kết quả của các thay đổi theo
mùa. Tán lá xanh trải rộng trong mùa khô khi ánh nắng mặt trời là cực đại và
sau đó bị thu hẹp lại trong mùa ẩm nhiều mây. Các thay đổi này tạo ra sự cân
bằng cacbon giữa quang hợp và hô hấp [8].
Vùng tân nhiệt đới (trung và nam Mỹ) ước tính có khoảng 86.000 loài

thực vật có mạch, vùng nhiệt đới và nửa khô hạn châu Phi có 30.000 loài,
vùng Madagascar có 8200 loài, vùng nhiệt đới Châu Á bao gồm cả New
Guinea và vùng nhiệt đới Austrailia có khoảng 45.000 loài . Xét chung, vùng
nhiệt đới chiếm 2/3 con số ước tính 250.000 loài thực vật có mạch của thế
giới . Theo số liệu của Alwyn Gentry, Norman Myers ước tính rằng 2/3 số
loài thực vật nhiệt đới được tìm thấy ở các rừng nhiệt đới ẩm (các rừng rậm
rụng lá và thường xanh). Như vậy, khoảng 45% các loài thực vật mạch gỗ
của thế giới được tìm thấy trong các rừng rậm nhiệt đới. Tỷ lệ số loài động
vật có xương sống ở cạn tìm thấy trong các rừng nhiệt đới có thể so sánh với
con số này của thực vật. Số loài chim của rừng nhiệt đới ước tính là 2600,
trong đó 1300 loài tìm thấy ở vùng tân nhiệt đới, 400 loài ở vùng nhiệt đới
châu Phi, 900 loài ở vùng nhiệt đới Châu Á. Con số này xấp xỉ 30% tổng số
loài toàn cầu . Tỷ lệ này thấp hơn so với thực vật, nhưng không bao gồm các
loài chim tìm thấy ở rừng nhiệt đới mà không hoàn toàn phụ thuộc vào nơi
cư trú này . Bruce Beehler cho rằng 78% các loài chim không phải ở biển của
New Guinea là tồn tại ở các rừng mưa, mặc dù nhiều loài có thể cũng sống ở
cả những nơi cư trú khác nữa [9].
Trong thời gian từ năm 2000- 2010, mỗi năm diện tích rừng bị chuyển
đổi thành diện tích đất nông nghiệp và các mục đích sử dụng khác, hoặc bị
mất do các nguyên nhân tự nhiên đã giảm từ 16 triệu ha trong những năm 90
của thế kỷ trước xuống còn 13 triệu ha. Diện tích rừng nguyên thuỷ toàn cầu
với các hệ sinh thái đa dạng và phong phú nhất về các loài sinh vật, với
khoảng 1,4 tỷ ha, chiếm 36% tổng diện tích rừng toàn cầu, cũng giảm trung

12
bình hàng năm hơn 40 triệu ha, với tốc độ 0,4% mỗi năm. Khu vực Nam Mỹ
bị mất rừng nguyên thuỷ lớn nhất, sau đó là châu Phi và châu Á. Nghiên cứu
trên chỉ rõ các mối đe doạ khác đối với đa dạng sinh học rừng là do việc quản
lý rừng không bền vững, biến đổi khí hậu, cháy rừng, thảm hoạ tự nhiên, dịch
bệnh và do sự phá hoại của các loài côn trùng và các sinh vật xâm thực. LHQ

còn cảnh báo hiện trạng săn bắn vì mục tiêu thương mại do nhu cầu tiêu dùng
ở các thành phố cũng đang đẩy nhiều loài vật hoang dã tới nguy cơ tuyệt
chủng trong tương lai. Tình trạng này sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu các nước
không thực hiện những biện pháp hiệu quả để ngăn chặn. LHQ kêu gọi các
nước cần hành động mạnh mẽ nhằm bảo tồn hiệu quả và sử dụng bền vững
đa dạng sinh học các diện tích rừng sản xuất, đặc biệt ở các khu rừng nhượng
quyền sử dụng. Tuy nhiên, nghiên cứu của LHQ cũng hoan nghênh các biện
pháp đang được thực hiện ở nhiều nước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học rừng.
Hiện diện tích rừng được khoanh vùng trở thành các khu bảo tồn đa dạng
sinh học trên toàn cầu đã tăng hơn 95 triệu ha kể từ năm 1990, trong đó hơn
46% được khoanh vùng trong thời kỳ 2000- 2005. Hơn 460 triệu ha, chiếm
12% tổng diện tích rừng nguyên thuỷ, đã được khoanh vùng để bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo vệ đất và nguồn nước hoặc bảo tồn các di sản văn hoá.
Các diện tích rừng được khoanh vùng thành khu bảo tồn đa dạng sinh học,
vườn quốc gia, khu vực hoang dã,…được bảo vệ bằng luật pháp [10].
2.2.2. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam
Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ
ĐDSH cao trên thế giới với dự tính có thể có tới 20.000- 30.000 loài thực
vật. Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ ĐDSH (chiếm 6,5% số loài có
trên thế giới). Trong hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai
của IUCN, Việt Nam được xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ
đặc hữu cao so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Động vật giới
Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và
phân loài thú đặc hữu. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đã được ghi
nhận ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của
Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở
vùng rừng hai nước Việt Nam - Campuchia [11].

13
Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa: Các thủy vực

nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng như hệ động vật,
bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các loài cây cỏ ngập nước và bán ngập nước,
động vật không xương sống và cá. Vi tảo đã xác định được có 1.438 loài tảo
thuộc 259 chi và 9 ngành; Cho đến nay đã thống kê và xác định được 794
loài động vật không xương sống. Trong đó, đáng lưu ý là trong thành phần
loài giáp xác nhỏ, có 54 loài và 8 giống lần đầu tiên được mô tả ở Việt Nam.
Riêng hai nhóm tôm, cua (giáp xác lớn) có 59 loài thì có tới 7 giống và 33
loài (55,9% tổng số loài) lần đầu tiên được mô tả. Trong tổng số 147 loài trai
ốc, có 43 loài (29,2% tổng số loài), 3 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả
đều là những loài đặc hữu của Việt Nam hay vùng Đông Dương. Điều đó cho
thấy sự đa dạng và mức độ đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc nước ngọt
nội địa Việt Nam là rất lớn. Thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội
địa Việt Nam bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 giống, 57 họ và
18 bộ. Riêng họ cá chép có 276 loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1
phân họ được coi là đặc hữu ở Việt Nam. Phần lớn các loài đặc hữu đều có
phân bố
ở các
thủy vực sông, suối, vùng núi [11].
Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ: Đặc tính của khu
hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rõ ở đặc tính nhiệt đới, đặc tính hỗn hợp,
đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt Bắc- Nam. Trong vùng biển nước ta
đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ
sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong
đó có hai vùng biển: Móng Cái - Đồ Sơn, Hải Vân - Vũng Tàu có mức độ đa
dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa có 9
vùng nước trồi có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là các bãi cá lớn.
Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong
đó cá (khoảng 130 loài kinh tế) có 2.458 loài; rong biển có 653 loài; động vật
phù du có 657 loài; thực vật phù du có 537 loài; thực vật ngập mặn có 94
loài; tôm biển có 225 loài Các nghiên cứu về biến động nguồn lợi đã cho

thấy danh sách khu hệ cá biển của Việt Nam đến tháng 1/2005 là 2.458 loài,
tăng 420 loài so với danh sách được lập năm 1985 (có 2.038 loài) và đã phát
hiện thêm 7 loài thú biển mới [11].

14
Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam: Số lượng các loài sinh vật nhiều,
sinh khối lớn. Tính ra bình quân trên 1 km
2
lãnh thổ Việt Nam có 4,5 loài thực
vật, gần 7 loài động vật, với mật độ hàng chục nghìn cá thể. Đây là một trong
những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế giới. Cấu trúc loài rất đa
dạng. Do đặc điểm địa hình, do phân hóa các kiểu khí hậu, cấu trúc các quần thể
trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng chục dạng sống
khác nhau. Khả năng thích nghi của loài cao. Thích nghi của các loài được thực
hiện thông qua các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi
cấu trúc loài. Loài sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao
đối với các thay đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh [11].
Đa dạng nguồn gen trong nông nghiệp
:
Theo đánh giá của Jucovski
(1970), Việt Nam là một trong 12 trung tâm nguồn gốc giống cây trồng của
thế giới. Mức độ ĐDSH của hệ thực vật cây trồng ở Việt Nam cao hơn nhiều
so với dự tính. Nguồn gen giống cây trồng, vật nuôi: Ở Việt Nam, hiện nay
đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp 16 nhóm các loài cây trồng khác
nhau như cây lương thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau,
cây gia vị, cây làm nước uống, cây lấy sợi, cây thức ăn gia súc, cây bóng
mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ với tổng số trên 800 loài cây trồng với
hàng nghìn giống khác nhau. Có 3 nhóm cây trồng đang được nông dân sử
dụng:
- Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay

đang chiếm vị trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống
cây trồng này có những giống đã được nông dân sử dụng và lưu truyền hàng
nghìn năm nay [11].
- Các giống cây trồng mới: Là những giống cây có khả năng cho năng
suất cao và có một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả
năng chống chịu sâu bệnh cao được các nhà khoa học chọn lọc, lai tạo
thành. Những năm gần đây các giống cây trồng được các nhà khoa học chọn
lọc và lai tạo mới cũng như các loại giống cây trồng được nhập nội, trước khi
đưa ra sản xuất rộng rãi, được hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn xem xét công nhận như lúa: 156 giống; ngô: 47 giống; đậu
tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14 giống [11].

15
- Các giống cây trồng được nông dân ở các tỉnh biên giới trao đổi với
nhau qua biên giới hoặc mua bán qua đường tiểu ngạch. Hiện nay, Ngân
hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115 loài cây
trồng. Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn không còn trong sản xuất và
trong tự nhiên nữa. Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen
bản địa với nhiều đặc tính quý mà duy nhất chỉ có ở nước ta [11].
Về vật nuôi, hiện nay Việt Nam có 14 loài gia súc và gia cầm đang
được chăn nuôi chủ yếu bao gồm 20 giống lợn (14 giống nội), 21 giống bò (5
giống nội), 27 giống gà (16 giống nội), 10 giống vịt (5 giống nội), 7 giống
ngan (3 giống nội), 5 giống ngỗng (2 giống nội), 5 giống dê (2 giống nội), 3
giống trâu (2 giống nội), 1 giống cừu, 4 giống thỏ (2 giống nội), 3 giống
ngựa (2 giống nội), bồ câu, hươu và nai (có khoảng 10.000 con hươu nai
được nuôi trong toàn quốc) [11].
Đặc trưng đa dạng nguồn gen: Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam
rất phong phú. Riêng kiểu gen cây lúa có đến hàng trăm kiểu hình khác nhau,
thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau. Các kiểu gen ở Việt Nam thường có
nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có những biến dị xảy ra dưới tác động của

các yếu tố tự nhiên (sấm, chớp, bức xạ ), có những đột biến xảy ra do những
tác nhân nhân tạo. Đây là một trong những nguồn tạo giống mới. ĐDSH gen
ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu và tính mềm dẻo sinh thái cao
của các kiểu gen [11].
Chương trình, mạng lưới quỹ gen được hình thành bảo tồn lưu giữ hơn
17.000 nguồn gen của 200 loài cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây
lâm nghiệp, cây nguyên liệu, cây dược liệu và một số loài cây trồng khác.
Bằng các phương pháp bảo tồn khác nhau như: tại chỗ, chuyển chỗ đã
thu thập 3.273 kiểu di truyền cây cao su; bảo tồn 42 loài cây rừng và cây
nguyên liệu giấy, bảo tồn tại chỗ 905 nguồn gen và chuyển vị 175 loài cây
dược liệu, trong đó có 26 loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. 70 giống vật
nuôi và gia cầm đang ở trạng thái nguy hiểm; 38 dòng thuộc 26 loài cá nuôi
kinh tế và 3 loài ong quý đang được bảo tồn và lưu giữ 2.016 chủng nấm, vi
khuẩn, vi sinh vật dùng trong các lĩnh vực công nghiệp-thực phẩm, y dược,
chăn nuôi, thú y, thủy sản và nông nghiệp được phân loại và lưu giữ. Hiện

16
tại, trên 30% các nguồn gen đang bảo tồn được đánh giá ban đầu về các chỉ
tiêu sinh học và khoảng 5- 10% nguồn gen được đánh giá chi tiết và đánh giá
di truyền. Hàng năm chương trình cung cấp khoảng 1.000 lượt vật liệu di
truyền và mẫu giống phục vụ chương trình giống, các đề tài nghiên cứu khoa
học và phục vụ đào tạo [12].
Theo số liệu thống kê của BTNMT, Việt Nam là đất nước có ĐDSH
cao, với hơn 95 kiểu HST, hàng chục loài thực vật, hàng trăm loài động vật,
nhiều loài vi sinh vật trên cạn và dưới nước. Tuy nhiên, các HST, các giống
loài và nguồn gen này hiện vẫn đang tiếp tục bị suy giảm ở mức báo động.
Trong giai đoạn 2001- 2010, thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường, mặc
dù, Việt Nam đã đạt được nhiều chỉ số khả quan, nhưng tài nguyên thiên
nhiên vẫn bị khai thác quá mức, kém hiệu quả và thiếu bền vững. Nguyên
nhân chính là do sự tàn phá của con người và sự biến đổi phức tạp, khó

lường của khí hậu. Cụ thể, tính đến năm 2012, diện tích rừng nguyên sinh,
rừng nhiều tầng (3-7 tầng) bị giảm sút trầm trọng, chỉ còn 0,57 triệu ha, chủ
yếu tập trung ở các khu rừng phòng hộ và trong các khu bảo tồn. Đối với hệ
sinh thái biển, kết quả điều tra từ năm 2004- 2007 cho thấy hiện chỉ có
14,4% diện tích rạn san hô phát triển tốt, còn 44,9 % đang ở trong tình trạng
xấu và rất xấu, diện tích thảm cỏ biển cũng đã giảm xuống 40-60%, đặc biệt
là ở các khu vực miền Trung và Nam Bộ. Đáng lo ngại hơn là tình trạng suy
giảm các loài động vật quý hiếm, do săn bắn và buôn bán động vật trái phép
trong những năm qua [13].
Nếu năm 1996 mới chỉ có 25 loài động vật của Việt Nam ở mức nguy
cấp thì đến năm 2010 con số này đã lên tới 47 loài. Nhiều loài được đánh giá
bị đe dọa không cao trên quy mô toàn cầu nhưng lại bị đe dọa ở mức báo
động tại Việt Nam như hạc cổ trắng, voọc, culi,… (Theo IUCN )
Cùng với đó nhiều loài thực vật trước đây chỉ ở mức rất nguy cấp như
hoàng đàn, bách đàn, sâm vũ diệp, tam thất hoàng. Một số giống cây trồng và
vật nuôi đã được kiểm kê, từng bước được phục hồi, song nhiều loài giống
truyền, bản địa cũng dần bị mai một như lợn ỉ mỡ, gà Văn Phú,…
Năm 2012, Cục Bảo tồn đa dạng sinh học đã triển khai mạnh mẽ các
hoạt động hợp tác quốc tế, tiếp tục thực hiện tốt vai trò đầu mối các Công

17
ước quốc tế về ĐDSH, tham gia tích cực các cuộc họp đàm phán trong khuôn
khổ các Công ước, Nghị định thư và các thỏa thuận hợp tác song phương, đa
phương tăng cường, mở rộng các đối tác là các tổ chức phi chính phủ trong
nước và quốc tế trong lĩnh vực ĐDSH, tiếp tục triển khai thực hiện dự án
quốc tế: Dự án xây dựng cơ sở dữ liệu ĐDSH quốc gia; dự án khắc phục trở
ngại nhằm tằng cường hiệu quả quản lý các khu bảo tồn [14].
Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã giới thiệu
Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
Cụ thể, năm 2020, diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn đạt 9% diện

tích lãnh thổ; diện tích khu bảo tồn biển đạt 0,24% diện tích vùng biển; độ
che phủ rừng đạt 45%; có 10 khu Ramsar, 10 khu dự trữ sinh quyển, 10 vườn
di sản ASEAN. Tổng cục Môi trường cũng công bố Dự thảo quy hoạch tổng
thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước. Theo đó, Việt Nam sẽ thành lập 41
khu bảo tồn với tổng diện tích 775.000 ha. Việt Nam là nước có đa dạng sinh
học cao trên thế giới với nhiều kiểu sinh thái, sinh cảnh. Việt Nam nằm trong
238 vùng sinh thái ưu tiên toàn cầu được Quỹ bảo tồn thiên nhiên quốc tế
(WWF) ghi nhận, trong đó nhiều loài đặc hữu, nguy cấp được ghi nhận trong
sách đỏ của ICUN và của Việt Nam. Năm 2030, Việt Nam lập thêm 23 khu
bảo tồn nữa. Hiện Việt Nam có 148 khu bảo tồn [14].
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong bảo tồn đa dạng sinh học,
nhiều văn bản chính sách được ban hành, nhưng thực tế, đa dạng sinh học
trên đà suy giảm và suy thoái. Nguyên nhân do việc khai thác quá mức, trái
phép và buôn bán tiêu thụ trái phép động thực vật hoang dã. Ngoài ra còn do
sự xâm lấn của các loài sinh vật ngoại lại, sinh cảnh bị chia cắt do chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, phát triển hạ tầng, thủy điện. Năm 2007, tổng số các
loài động, thực vật hoang dã trong thiên nhiên đang bị đe dọa hiện nay là 882
loài (418 loài động vật, 464 loài thực vật), tăng 161 loài so với thời điểm
1992; hiện có tới 9 loài động vật được xem là đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên
tại Việt Nam như tê giác hai sừng, heo vòi, cầy rái cá, bò xám, hươu sao, cá
chép gốc, cá chình Nhật, lan hài Việt Nam. (Theo Sách Đỏ Việt Nam).

18
2.2.3. Tổng quan về nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH ở tỉnh Nam Định
Nam Định, phạm vi do UNESCO công nhận gồm 2 tiểu vùng nằm ở
cửa Ba Lạt và cửa Đáy: Vườn quốc gia Xuân Thủy thuộc các xã Giao Thiện,
Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân của huyện Giao Thủy và rừng phòng hộ ven
biển Nghĩa Hưng thuộc các xã: Nghĩa Thắng, Nghĩa Phúc, Nghĩa Hải, Nghĩa
Lợi, thị trấn Rạng Đông, xã Nam Điền huyện Nghĩa Hưng [5].
Nam Định xây dựng kế hoạch hành động ĐDSH giai đoạn 2011- 2013

và định hướng đến năm 2020, quy hoạch bảo tồn ĐDSH và cơ sở dữ liệu
ĐDSH trên địa bàn tỉnh. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở Tài
nguyên môi trường tổ chức đào tạo nguồn nhân lực về quản lý ĐDSH; tuyên
truyền giáo dục pháp luật về ĐDSH. Trong giai đoạn 2013-2015, Nam Định
lập quy hoạch bảo tồn ĐDSH Vườn quốc gia Xuân Thủy (huyện Giao Thủy);
điều tra, lập hồ sơ đề nghị thành lập khu bảo tồn thiên nhiên ven biển huyện
Nghĩa Hưng; xác định nguồn gen quý hiếm, có giá trị kinh tế và ĐDSH cao
trên địa bàn tỉnh; xây dựng mạng lưới quan trắc ĐDSH tại các khu bảo tồn,
vườn quốc gia và các vùng đất ngập nước quan trọng [5].
Từ đầu năm 2011, các cơ quan chức năng trong tỉnh tiến hành điều tra
cơ bản về ĐDSH; xây dựng mạng lưới, thực hiện quan trắc về ĐDSH và an
toàn sinh học; lập danh sách các loài động, thực vật trên cạn, dưới nước cần
được bảo tồn Quy chế phối hợp trong việc xử lý khai thác, kinh doanh, sử
dụng tài nguyên sinh vật cũng được xây dựng; năng lực cưỡng chế trong việc
kiểm soát buôn bán các loại động, thực vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng
cao được tăng cường Tỉnh cũng tổ chức tổng kiểm kê các nguồn gen cây
trồng vật nuôi; khuyến khích áp dụng các mô hình bảo tồn, phát triển các loài
cây trồng, vật nuôi bản địa quý hiếm; thực hiện các đề án về chuyển giao
công nghệ, xây dựng các mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ về
ĐDSH nông nghiệp; áp dụng các mô hình điểm về phát triển kinh tế sinh
thái, giảm sức ép khai thác tài nguyên đất ngập nước [5].
Năm 2011 được Liên hợp quốc chọn là “Năm quốc tế về rừng” với
thông điệp “Cộng đồng các quốc gia chung sức thúc đẩy việc quản lý, bảo
tồn và phát triển bền vững các loại rừng; phòng, chống phá rừng và suy thoái
rừng”. Hưởng ứng chương trình này tỉnh ta đang triển khai nhiều hoạt động

×