Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy tới sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống lúa Nông Lâm 7 trong vụ xuân và vụ mùa năm 2013 tại Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.67 KB, 63 trang )



I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM



INH TH HNH

NGHIÊN CứU ảNH HƯởNG CủA MậT Độ CấY TớI SINH TRƯởNG, PHáT TRIểN
Và NĂNG SUấT CủA GIốNG LúA NÔNG LÂM 7 TRONG Vụ XUÂN
Và Vụ MùA NĂM 2013 TạI THáI NGUYÊN

KHóA LUậN TốT NGHIệP ĐạI HọC



H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Khoa hc cõy trng
Khoa : Nụng hc
Khúa hc : 2010 - 2014



Thỏi Nguyờn, nm 2014


I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM




INH TH HNH

NGHIÊN CứU ảNH HƯởNG CủA MậT Độ CấY TớI SINH TRƯởNG, PHáT TRIểN
Và NĂNG SUấT CủA GIốNG LúA NÔNG LÂM 7 TRONG Vụ XUÂN
Và Vụ MùA NĂM 2013 TạI THáI NGUYÊN

KHóA LUậN TốT NGHIệP ĐạI HọC



H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Khoa hc cõy trng
Khoa : Nụng hc
Khúa hc : 2010 - 2014
Ging viờn hng dn : TS. Phm Vn Ngc



Thỏi Nguyờn, nm 2014


LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của ban giám hiệu nhà trường và Ban chủ nhiệm khoa
Nông học, tôi tiến hành thực tập tốt nghiệp tại Trung tâm thực hành thực
nghiệm Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên với đề tài “Nghiên cứu ảnh
hưởng của mật độ cấy tới sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống
lúa Nông Lâm 7 trong vụ xuân và vụ mùa năm 2013 tại Thái Nguyên”.
Qua quá trình học tập, làm việc và nghiên cứu, tôi đã nỗ lực học tập và
làm việc nghiêm túc để hoàn thành đề tài tốt nghiệp. Bên cạnh những thuận

lợi, tôi đã gặp không ít khó khăn, tuy vậy với sự giúp đỡ của các thầy cô, các
anh chị, gia đình và bạn bè tôi đã vượt qua các khó khăn ấy và hoàn thành
khóa luận. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban Giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Ban Chủ nhiệm Khoa Nông học trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Tôi gửi lời cảm ơn đến các quý thầy cô trong khoa Nông học đã tận
tình chỉ bảo cho tôi những kiến thức trong suốt 4 năm theo học.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy TS.Phạm
Văn Ngọc đã tận tình chỉ bảo cho tôi trong thời gian tôi thực hiện đề tài.
Mặc dù bản thân có nhiều có gắng nhưng do hạn chế về thời gian, trình
độ và kinh nghiệm nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự
cảm thông, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để đề tài tốt
nghiệp được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014
Sinh viên


Đinh Thị Hạnh


MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và Việt Nam 3
2.1.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới 3
2.1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo trong nước Việt Nam 7
2.2. Đặc điểm của cây lúa 9
2.2.1. Đặc điểm lá lúa 9

2.2.2. Đặc điểm sự đẻ nhánh của lúa 10
2.3. Những nghiên cứu về mật độ cấy của lúa 12
2.3.1. Mật độ cấy ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, phát triển, năng suất
và chất lượng lúa 12
2.3.2. Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy trên thế giới 16
2.3.3. Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy ở Việt Nam 18
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 22
3.1. Đối tượng nghiên cứu 22
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 22
3.3. Nội dung nghiên cứu 22
3.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm 22
3.4.1. Bố trí thí nghiệm: 22
3.4.2. Các kỹ thuật làm thí nghiệm 23
3.5. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi, đánh giá 24
3.5.1. Thời gian sinh trưởng, phát triển (tính từ khi gieo đến khi chín) 25
3.5.2.Các chỉ tiêu sinh trưởng 25
3.5.3. Một số đặc điểm nông học của giống Nông Lâm 7 26


2.5.4. Các chỉ tiêu về khả năng chống chịu 27
3.5.5. Chỉ tiêu về năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 28
PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 30
4.1. Tình hình thời tiết khí hậu vụ xuân và vụ mùa 2013 ở Thái Nguyên 30
4.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến một số chỉ tiêu sinh trưởng
của giống lúa Nông Lâm 7 32
4.2.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến thời gian sinh trưởng
của giống lúa Nông lâm 7 32
4.2.2. Ảnh hưởng của các mật độ cấy đến động thái ra lá
của giống Nông Lâm 7 35

4.2.3. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng đẻ nhánh
của giống Nông Lâm 7 37
4.3. Một số đặc điểm nông học của giống Nông Lâm 7 42
4.4. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng chống chịu sâu bệnh
của giống Nông Lâm 7 43
4.5. Ảnh hưởng của mật độ cấy tới năng suất và các yếu tố cấu thành
năng suất của giống lúa Nông Lâm 7 46
4.5.1. Các yếu tố cấu thành năng suất 46
4.5.2. Ảnh hưởng của thời vụ cấy và mật độ cấy đến năng suất,
hạt/bông, số bông/khóm giống Nông Lâm 7 51
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 53
1. Kết luận 53
2. Đề nghị 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
a, b, c, d : là những chữ cái biểu thị kết quả phân nhóm trong
so sánh Ducan
CT : Công thức
KTĐN : Kết thúc đẻ nhánh
KTT : Kết thúc trỗ
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
NXB : Nhà xuất bản
TGST : Tổng thời gian sinh trưởng
P1000 hạt : Khối lượng 1000 hạt


















DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa toàn thế giới giai đoạn
từ năm 2001 – 2012 4

Bảng 1.2: Diện tích, năng suất và sản lượng của các nước có sản lượng
lúa đứng đầu thế giới năm 2012 5

Bảng 4.1: Diễn biến thời tiết khí hậu năm 2013 31

Bảng 4.2: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến thời gian sinh trưởng của giống
lúa Nông lâm 7 (ngày ) 33

Bảng 4.3: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến động thái ra lá giống Nông Lâm

7 vụ xuân và vụ mùa 2013 35

Bảng 4.4: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến động thái đẻ nhánh của giống
lúa Nông Lâm 7 37

Bảng 4.5: Ảnh hưởng của các mật độ cấy đến khả năng đẻ nhánh của các
công thức thí nghiệm trong vụ xuân và vụ mùa 2013 38

Bảng 4.6: Một số đặc điểm nông học của giống Nông Lâm 7 trong vụ
xuân và vụ mùa 2013 tại Thái Nguyên. 42

Bảng 4.7: Mức độ gây hại của một số loại sâu bệnh chính 44

Bảng 4.8: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến năng suất và các yếu tố cấu
thành năng suất trên vụ xuân và vụ mùa của giống Nông Lâm 7 47

Bảng 4.9: Ảnh hưởng của mật độ cấy trong vụ xuân và vụ mùa 2013
đến năng suất, bông/khóm và hạt/bông của giống Nông Lâm 7 51




DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 4.1: Biểu đồ thể hiện động thái ra lá của giống Nông Lâm 7
trong vụ xuân 2013 36

Hình 4.2: Biểu đồ thể hiện động thái ra lá của giống Nông Lâm 7
trong vụ mùa 2013 36


Hình 4.3: Biểu đồ khả năng đẻ nhánh của giống Nông Lâm 7
của các công thức thí nghiệm trong vụ xuân 2013 40

Hình 4.4: Biểu đồ khả năng đẻ nhánh của giống Nông Lâm 7
của các công thức thí nghiệm trong vụ mùa 2013 41





1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1.Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một cây trồng có từ lâu đời, là nền móng
cho nền văn minh lúa nước của loài người, đặc biệt là khu vực Châu Á.
Cùng với sự phát triển của xã hội, những thành tựu khoa học kỹ thuật liên
tục ra đời đã nhanh chóng đi vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Trong
những năm gần đây nhờ áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật trong
các lĩnh vực: Di truyền chọn giống, sinh lý, sinh hóa, hóa sinh, cơ giới, hóa
học mà năng suất, phẩm chất, sản lượng và hiệu quả kinh tế của việc
trồng lúa không ngừng được tăng lên ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới.
Cách đây không lâu, vào những năm của thập kỷ 80 (thế kỷ XX) trở về
trước, nước ta còn nằm trong tình trạng thiếu lương thực. Một vấn đề đặt ra
lúc bấy giờ là làm thế nào để hộ nông dân có thể đảm bảo được lương
thực.Trong đó kỹ thuật canh tác mà chủ yếu là mật độ cấy đã và đang được
các nhà nông học quan tâm nghiên cứu.Tuy nhiên khi gieo cấy ở hộ gia
đình cấy lúa thường dễ bị nhiễm sâu bệnh dẫn đến năng suất bị ảnh hưởng
xấu. Nguyên nhân là do người nông dân cấy nhiều dảnh lúa trên khóm, cấy

với mật độ khá dầy. Điều này dẫn đến quần thể lúa rậm rạp tiêu hao nhiều
chất dinh dưỡng một cách vô ích và dễ bị nhiễm các sâu bệnh hại. Mặt
khác chúng ta đã biết kỹ thuật cấy và mật độ cấy có ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển lúa và năng suất lúa do ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc quần
thể lúa.Việc cấy đúng mật độ không những tạo điều kiện tối ưu cho sinh
trưởng phát triển, cho năng suất cao mà còn vô cùng có ý nghĩa trong vấn
đề chăm sóc cho lúa của bà con nông dân. Bên cạnh đó, việc xác định mật
độ cấy đúng còn có ý nghĩa lớn trong việc sử dụng phân bón một cách hợp


2
lý hơn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, khắc phục tình trạng sử dụng
phân bón quá mức cần thiết gây ảnh hưởng xấu tới đất canh tác. Chính vì
thế, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy tới sinh trưởng, phát triển
và năng suất của giống lúa Nông Lâm 7 trong vụ xuân và vụ mùa năm
2013 tại Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá ảnh hưởng của mật độ cấy đến sinh trưởng, phát triển của
giống lúa Nông Lâm 7 vụ xuân và vụ mùa năm 2013.
Xác định mật độ cấy phù hợp cho giống lúa Nông Lâm 7 trong điều
kiện vụ xuân và vụ mùa 2013 ở Thái Nguyên.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Góp phần xây dựng quy trình kĩ thuật canh tác giống lúa Nông Lâm 7
phù hợp với vùng núi Trung Du phía Bắc.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu để đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng
chống chịu, năng suất và chất lượng của giống Nông Lâm 7 tham gia thí
nghiệm. Từ đó làm cơ sở để xác định được mật độ cấy cho năng suất, chất

lượng cao phù hợp với điều kiện địa phương.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
Xác định được mật độ cấy phù hợp với điều kiện địa phương nhằm có
kế hoạch mở rộng diện tích sản xuất.


3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và Việt Nam
2.1.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới
Cây lúa (Oryza sativa L.) có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, là một loài cây
thân thảo sống hàng năm.Thời gian sinh trưởng của các giống dài ngắn khác
nhau trong khoảng từ 60 – 250 ngày. Lúa trồng hiện nay được thuần hóa từ cây
lúa dại, trải qua một quá trình biến đổi, chọn lọc lâu dài mà tạo thành và đã trở
thành cây lương thực chính của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo nghiên cứu
của nhiều tác giả ở nhiều nước như: Liên Xô (cũ), Ấn Độ, Việt Nam, Nhật Bản,
Trung Quốc… đã cho thấy nguồn gốc cây lúa thuộc vùng đầm lầy Đông Nam
Á và hiện nay được phân bố rộng rãi trên khắp thế giới trải dài từ 530 độ vĩ
Bắc tới 400 độ vĩ Nam, nhưng tập chung chủ yếu ở châu Á.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 114 quốc gia và vùng lãnh thổ trồng
lúa với diện tích khoảng 153,7 triệu ha. Châu Á có diện tích trồng lúa chiếm
tới trên 90% tổng diện tích trồng lúa trên thế giới, châu Mỹ chiếm 3,6%, châu
Phi chiếm 3,1% và châu Úc chiếm 1%. Trong đó, Ấn Độ là nước có diện tích
trồng lúa lớn nhất thế giới với diện tích 37 triệu ha, tiếp theo là Trung Quốc
30,1 triệu ha Bên cạnh đó, cũng có những nước có diện tích trồng lúa nhỏ
như Jamaica 1ha, Swaziland 35ha.
Dưới đây là bảng số liệu về diện tích, năng suất và sản lượng lúa toàn
thế giới giai đoạn 2001 – 2012:



4
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa toàn thế giới
giai đoạn từ năm 2001 – 2012
Năm
Diện tích
(triệu/ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu/tấn)
2001 151,9 39,5 599,8
2002 147,6 38,7 571,4
2003 148,5 39,5 587,1
2004 150,6 40,4 608,0
2005 154,9 40,9 634,4
2006 155,3 41,3 641,2
2007 155,0 42,4 657,2
2008 157,7 43,7 689,0
2009 158,4 43,2 684,8
2010 153,7 43,7 672,0
2011 163,6 44,3 734.9
2012 163.2 44,1 719,7
(Nguồn: FAOSTAT năm 2013)
Qua Bảng 1.1 ta cũng thấy rằng: diện tích, năng suất và sản lượng lúa
qua các năm có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, diện tích năm 2010 so với năm
2009 đã giảm đi 4,7 triệu ha nhưng năng suất tăng thêm 0,5 tạ/ha. Nguyên
nhân của việc này do năm 2010 chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhiều
thiên tai xảy ra liên tiếp (lũ lụt, hạn hán, rầy nâu, khô vằn…) làm cho diện

tích bị thu hẹp đáng kể. Xong đến năm 2012 diện tích tăng 9,6 triệu/ha, năng
suất tăng 0,4 tạ/ha.Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, diện tích
trồng lúa lai được mở rộng làm cho năng suất lúa ngày một nâng cao.
Mặc dù châu Á có diện tích trồng lúa và sản lượng lớn nhất thế giới
nhưng năng suất lúa cao nhất lại tập chung ở các nước phát triển ở châu Úc,


5
châu Âu… Để chứng minh cho điều này, dưới đây là Bảng 1.2, thống kê một
số nước có sản lượng lúa đứng đầu thế giới:
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất và sản lượng của các nước có sản lượng
lúa đứng đầu thế giới năm 2012
Nước
Diện tích
(triệu/ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu/tấn)
Australia 103,1 89,1 918,7
Trung Quốc 30,3 67,4 204,3
Ấn Độ 42,5 35,9 152,6
Indonesia 13,4 51,4 69,0
Banglased 11,6 29,3 33,9
Viet Nam 7,8 56,3 43,7
Mianma 8,2 40,5 33
Thai Lan 12,6 30 37,8
Philipin 4,7 38,4 18
barazil 2,4 47,8 11,5
Nhat Bản 1,6 67,3 10,7

(Nguồn: FAOSTAT năm 2013)
Theo số liệu Bảng 1.2 ta thấy: Trong những nước trồng lúa có sản
lượng lớn nhất thế giới có tới 9 nước nằm ở khu vực châu Á, chỉ có Australia
nằm ở châu Úc, Brazil nằm ở châu Mỹ. Riêng Australia và Trung Quốc là 2
nước có năng suất lúa cao hơn hẳn các nước còn lại 89,1 tạ/ha (Australia) và
67,4 tạ/ha (Trung Quốc). Điều này có thể lý giải như sau: Trung Quốc là nước
đi đầu trong lĩnh vực lúa lai, trình độ thâm canh cao. Thái Lan và Việt Nam là
2 nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, năm 2013 là 6,68 triệu tấn (Thái
Lan) và 6,61 triệu tấn (Việt Nam), nhưng về cơ bản năng suất lúa còn thấp.
Năng suất lúa của Thái Lan đạt 30 tạ/ha năm 2012. Tiêu chí chọn giống lúa


6
của các nhà khoa học Thái Lan là các giống phải có thời gian sinh trưởng từ
trung bình đến dài ngày (vì phần lớn lúa ở Thái Lan chỉ trồng 1 vụ/năm), hạt
gạo dài, trong, ít dập gãy khi xay sát, có hương thơm, coi trọng chất lượng
hơn là năng suất… Chính vì lý do đó ta thấy rằng giá gạo Thái Lan luôn cao
hơn giá gạo Việt Nam. Năng suất lúa ở Việt Nam là 56,3 tạ/ha (2012).
Theo dự báo của Ban nghiên cứu kinh tế - Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ,
trong giai đoạn 2007 – 2017, các nước sản xuất gạo ở châu Á sẽ tiếp tục là
nguồn xuất khẩu gạo chính của thế giới bao gồm Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ.
Riêng xuất khẩu gạo của hai nước Thái Lan và Việt Nam sẽ chiếm khoảng
50% tổng sản lượng gạo xuất khẩu của thế giới.
Trong “Báo cáo chiến lược về an ninh lương thực Quốc gia đến năm
2020 và tầm nhìn 2030” Bộ Nông nghiệp và PTNT năm 2008 đã dự báo tình
hình sản xuất và tiêu thụ gạo trên thế giới đến năm 2020 như sau:
- Trong 10 năm tới, sản xuất lúa gạo trên thế giới tăng chậm do hạn chế
việc mở rộng diện tích gieo cấy, một số nước có diện tích trồng lúa lớn có xu
hướng giảm và năng suất lúa kém ổn định khi phải chịu ảnh hưởng của thiên
tai dịch bệnh.

- Tiêu dùng gạo trên thế giới tiếp tục tăng do tăng dân số, đặc biệt ở
châu Á, châu Phi là hai khu vực sử dụng nhiều lúa gạo. Khu vực Tây bán cầu
và Trung Đông tăng mức tiêu thụ gạo trên đầu người.
- Nhiều quốc gia xuất khẩu gạo lớn giảm lượng gạo xuất khẩu, trong
khi nhu cầu nhập khẩu gạo tăng, nguồn cung thị trường gạo sẽ thiếu hụt so
với cầu, giá gạo trên thị trường thế giới giữ ở mức cao.
Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới đang có xu hướng tăng lên
nhưng cùng với đó là tốc độ gia tăng dân số hiện nay thì để đảm bảo an
ninh lương thực thì cần phải nâng cao hơn nữa cả về năng suất và sản
lượng lúa gạo.


7
2.1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo trong nước Việt Nam
Cây lúa nước giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp lương thực
cho con người ở nhiều nước trên thế giới nói chung và ở nước ta lúa còn
là một nông sản xuất khẩu mang lại giá trị cao cho nông nghiệp. Phương
hướng sản xuất lúa của Việt Nam là tập trung khai thác, đầu tư thâm canh
cho những vùng có điều kiện thuận lợi để cây lúa có thể phát huy tối đa
tiềm năng của giống.
Là nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp gắn bó với cây lúa từ
xa xưa.Với điều kiện tự nhiên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, những
đồng bằng châu thổ phì nhiêu, Việt Nam đã trở thành cái nôi sản xuất lúa
gạo hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam là một nước nông
nghiệp, có tới 75% dân số sản xuất nôngnghiệp và từ lâu cây lúa đã ăn sâu
vào tiềm thức người dân, nó có vai trò rất quan trọng trong đời sống con
người. Lúa gạo không chỉ giữ vai trò trong việc cung cấp lương thực nuôi
sống mọi người mà còn là mặt hàng xuất khẩu đóng góp không nhỏ vào
nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, do có điều kiện tự nhiên thuận lợi phù
hợp cho cây lúa phát triển nên lúa được trồng ở khắp mọi miềncủa đất

nước. Theo Nguyễn Văn Hoan (2004) [6], các vùng trồng lúa nước ta
được phân chia theo đặc điểm khí hậu và đất đai. Khí hậu, đất đai là hai
yếu tố chính chi phối các vụ lúa, trà lúa và hình thành nên các vùng trồng
lúa của nước ta.
Theo cách phân chia này nước ta có 8 vùng lúa phân bố theo 3 miền
sinh thái nông nghiệp như sau:
Miền sinh thái nông nghiệp Bắc Bộ có 3 vùng lúa:
- Vùng Đông Bắc
- Vùng Tây Bắc
- Vùng Đồng bằng Bắc Bộ (Đồng bằng Sông Hồng).


8
Miền sinh thái nông nghiệp Đông Trường Sơn có hai vùng:
- Vùng Bắc Trung Bộ
- Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ
Ở Việt Nam có 2 vùng sản xuất rộng lớn nhất đó là vùng Đồng bằng
châu thổ Sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.
Dân số Việt Nam vẫn tăng nhanh, đạt xấp xỉ gần 90 triệu người cuối
năm 2013 trong khi quỹ đất dành cho trồng lúa có hạn, năng suất lúa
nhiều vùng, nhất là ĐB sông Hồng gần như việc tăng năng suất thêm nữa
là rất khó khăn. Tập quán sản xuất nhỏ, quy mô gia đình, tự cung tự cấp,
chạy theo năng suất xem nhẹ chất lượng gạo vẫn phổ biến trong hầu hết
các hộ gia đình. Trình độ khoa học công nghệ, kiến thức thị trường của
nông dân còn nhiều hạn chế.
Đứng trước tình hình đó, chiến lược sản xuất lúa của Việt Nam trong
thời gian tới là: Phấn đấu đạt và duy trì sản lượng lúa hàng năm là 40 triệu
tấn/năm, đẩy mạnh sản xuất các giống lúa có chất lượng cao, dành 1 triệu ha
để sản xuất lúa phục vụ mục tiêu xuất khẩu, duy trì, chọn lọc, lai tạo và nhập
khẩu các giống lúa có chất lượng cao phục vụ cho yêu cầu của sản xuất là một

nhiệm vụ sống còn và phải đạt thành chương trình cấp quốc gia và phải huy
động cả “4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và nhà doanh nghiệp)
cùng tham gia thì mới hy vọng đạt được kết quả như mong đợi.
Cần tập chung phát triển sản xuất lương thực ở những vùng và tiểu
vùng trọng điểm, phấn đấu tăng sản lượng lương thực bình quân đầu người
trên 450 kg/người/năm, nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến lương thực
đáp ứng nhu cầu tiêu dung, dự trữ và xuất khẩu.
Trước năm 1945, diện tích đất trồng lúa của nước ta là 4,5 triệu ha, năng
suất trung bình đạt 1,3 tấn/ha, sản lượng 5,4 triệu tấn. Hiện nay, với những tiến
bộ kỹ thuật vượt bậc trong nông nghiệp, người dân đã được tiếp cận với những


9
phương thức sản xuất tiên tiến nên họ đã dám mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, dùng các giống lúa mới, các giống lúa ưu thế lai, các giống
lúa cao sản, các giống lúa thích nghi với điều kiện đặc biệt của từng vùng,
cácgiống lúa chất lượng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu… kết hợp đầu tư thâm canh
cao, hợp lý. Nhờ vậy ngành trồng lúa nước ta đã có bước nhảy vọt về năng suất,
sản lượng và giá trị kinh tế. Năm 1996, nước ta xuất khẩu được 3,2 triệu tấn
lương thực, năm 1999, nước ta vươn lên đứng hàng thứ 2 trên thế giới về xuất
khẩu gạo. Năm 2002, tổng sản lượng lương thực đạt 36,4 trệu tấn, trong đó lúa
chiếm 70%.Tuy nhiên, con số này bị chững lại vào năm 2003 giảm xuống còn
34,5 triệu tấn. Điều này đang đặt ra những yêu cầu điều kiện hiện nay, xu hướng
đô thị hoá, công nghiệp hoá đang diễn ra mạnh, dân số liên tục tăng làm diện tích
đất nông nghiệp nói chung và diện tích đất trồng lúa nói riêng ngày càng bị thu
hẹp. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra ở đây là cần phải nâng cao hơn nữa năng suất
và chất lượng lúa, nhằm đáp ứng được nhu cầu lương thực cho người dân và cho
xuất khẩu (Nguyễn Hữu Tề, 2004) [6].
2.2. Đặc điểm của cây lúa
2.2.1. Đặc điểm lá lúa

Lá lúa giữ vai trò quan trọng trong đời sống của cây. Thông qua sự sinh
trưởng và màu sắc của lá ta biết được cây lúa sinh trưởng nhanh hay chậm, tốt
hay xấu. Màu sắc, kích thước phiến lá, góc lá thay đổi theo giống lúa, thời kỳ
sinh trưởng và hàm lượng dinh dưỡng trong đất. Hướng chọn giống là chọn
những giống lá có phiến lá to, bản lá dày, màu xanh đậm, góc lá hẹp sẽ có lợi
cho quang hợp và tăng hiệu quả sử dụng ánh sáng.
Trong quần thể ruộng lúa tồn tại lá của nhánh mẹ và lá của nhánh
con. Tất cả tạo nên chỉ số diện tích lá (LAI) của quần thể. Chỉ số diện tích
lá của ruộng lúa đạt cao nhất vào lúc trước trỗ 7 ngày, vì lúc đó số lá đạt
tối đa và diện tích từng lá tương đối ổn định. Chỉ số diện tích lá của ruộng


10
lúa có thể đạt đến 10 hoặc hơn chút ít, sau khi trỗ bông thì giảm xuống
bởi một số lá già và chết đi.
Trên thân chính của lúa có tổng số lá nhất định, tùy từng giống mà có
tổng số lá khác nhau. Mỗi lá đều có chức năng nhất định tùy từng giai đoạn
sinh trưởng. Trong cùng một thời kỳ thì lá hoạt động động mạnh nhất là lá thứ
hai từ trên xuống (lá công năng). Quan sát hình thái và sức sống của lá công
năng, ta biết được sinh trưởng của cây lúa tốt hay xấu.
2.2.2. Đặc điểm sự đẻ nhánh của lúa
Đẻ nhánh là một đặc tính sinh học của cây lúa, liên quan chặt chẽ đến
quá trình hình thành số bông và năng suất cây lúa. Cây lúa non hoặc cây mạ
(người ta gọi là thân chính hay cây mẹ). Các nhánh mọc ra từ thân chính được
gọi là nhánh nguyên thuỷ (cây lúa thường có từ 5 - 7 nhánh nguyên thuỷ). Các
nhánh mọc ra từ nhánh nguyên thuỷ được gọi là nhánh cấp 2 và các nhánh
mọc ra từ nhánh cấp 2 được gọi là nhánh cấp 3. Nhánh nguyên thuỷ phát triển
ở giữa thân chính và lá thứ hai kể từ gốc.
Mặc dù vẫn dính liền vào thân cây mẹ tới tận những giai đoạn phát
triển sau, những nhánh nguyên thuỷ vẫn độc lập kể từ khi nó có rễ riêng. Thời

gian đẻ nhánh của cây lúa được tính từ khi lúa bén rễ hồi xanh đến khi làm
đốt, làm đòng. Tuy nhiên ở ruộng mạ cũng có hiện tượng đẻ nhánh nếu mạ
gieo thưa hoặc những cây mạ quanh bờ có thể đẻ 1 - 2 nhánh đầu tiên khi có
4 - 5 lá (gọi là mạ ngạnh trê), nhưng ngay lúc đó mật độ cây trong ruộng mạ
tăng lên và quá trình đẻ nhánh ngừng lại. Về khả năng đẻ nhánh của cây lúa
thì phụ thuộc vào phạm vi mắt đẻ (tức là số lá trên cây mẹ, tuổi mạ và số lóng
đốt kéo dài) và điều kiện ngoại cảnh. Người ta cũng phân biệt thời gian đẻ
nhánh hữu hiệu và vô hiệu. Trên cây lúa, thông thường chỉ có những nhánh đẻ
sớm, ở vị trí mắt đẻ thấp, có số lá nhiều, điều kiện dinh dưỡng thuận lợi mới
có điều kiện phát triển đầy đủ để trở thành nhánh hữu hiệu (nhánh thành


11
bông). Còn những nhánh đẻ muộn, thời gian sinh trưởng ngắn, số lá ít thường
trở thành nhánh vô hiệu [20].
Nhánh lúa được hình thành từ các mắt trên cây mẹ tại đốt của thân.
Theo thuyết của Katayama thì cây lúa ra được 4 lá thật đều có khả năng đẻ
nhánh và cứ ra được một lá thì đẻ thêm được một nhánh và có khả năng lớn
lên thành nhánh, có trên 4 lá xanh để sống hoàn toàn tự lập, trở thành nhánh
hữu hiệu. Đẻ nhánh là tập tính, là đặc điểm sinh vật học của cây lúa. Quần thể
ruộng lúa có khả năng tự điều tiết. Khi cấy thưa, đủ dinh dưỡng lúa đẻ nhiều.
Khi cấy dày, quần thể rậm rạp thì nhánh đẻ ra sẽ bị lụi tàn bớt.
Khả năng đẻ nhánh của lúa nhiều hay ít phụ thuộc nhiều vào đặc điểm
của giống. Một giống lúa đẻ ít hay nhiều còn phụ thuộc vào tuổi mạ, kỹ thuật
cấy, điều kiện dinh dưỡng, nước và điều kiện ngoại cảnh. Khi cấy mạ non,
cấy nông tay sẽ làm tăng phạm vi mắt đẻ và tăng khả năng đẻ nhánh. Lợi
dụng khả năng đẻ nhánh của lúa, trong thâm canh muốn tăng số bông trên
ruộng lúa ngoài việc cấy đúng mật độ, chúng ta nên xúc tiến các biện pháp kỹ
thuật để lúa đẻ sớm, đẻ tập trung, làm tăng sức đẻ hữu hiệu, không để quần
thể quá rậm rạp, tốn dinh dưỡng của cây mẹ.

Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đẻ nhánh: Có rất nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến sự đẻ nhánh, nhưng có 4 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp là: giống
lúa, khoảng cách cấy, mùa vụ gieo cấy và mức phân đạm.
Về giống lúa: Các giống thường có sự khác nhau về khả năng đẻ nhánh.
Khả năng đẻ nhánh của một giống có thể đạt được mức tối đa bằng cách cấy
thưa trên đất giàu dinh dưỡng. Nhưng trong những điều kiện thực tế đồng
ruộng thì không thể nào đạt tới đích ấy.
Về khoảng cách cấy: Khi ta tăng khoảng cách cấy giữa các cây (tức là
mật độ cấy càng thưa) thì số nhánh lúa trên 1 cây càng tăng nhưng có giới hạn
nhất định. Nếu cấy với mật độ quá thưa đến bất hợp lý thì số nhánh lúa trên


12
một đơn vị diện tích sẽ bị giảm đi. Vì vậy với một giống lúa nhất định, ngay
từ khi nghiên cứu chọn, tạo giống thì tác giả đã phải nghiên cứu để đưa ra một
mật độ cấy cùng với điều kiện chăm sóc thích hợp trong quy trình kỹ thuật
của giống lúa đó.
Về mùa vụ gieo cấy: Thời gian đẻ nhánh của một giống lúa dài hay
ngắn phụ thuộc vào thời vụ gieo cấy. Vụ chiêm xuân có thời gian đẻ nhánh
dài hơn vụ mùa và trong cùng một vụ thì vụ sớm sẽ có thời gian đẻ nhánh dài
hơn vụ muộn. Tuy nhiên, tuy có thời gian đẻ nhánh ngắn hơn nhưng trong vụ
mùa số nhánh lúa vẫn nhiều hơn trong vụ đông xuân.
Về mức phân đạm: Có một nguyên tắc, nếu bón lượng cao hơn và sớm
hơn thì số đẻ cũng nhiều hơn. Nếu bón thúc đạm sớm, quá trình đẻ nhánh sẽ
diễn ra sớm hơn. Nếu bón phân nhiều, bón thúc muộn, thời gian đẻ nhánh sẽ
kéo dài hơn.
2.3. Những nghiên cứu về mật độ cấy của lúa
2.3.1. Mật độ cấy ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, phát triển, năng suất và
chất lượng lúa
Mật độ là một kỹ thuật làm tăng khả năng quang hợp của cá thể và

quần thể ruộng lúa, do tăng khả năng tiếp nhận ánh sáng, tạo số lá và chỉ số
diện tích lá thích hợp cho cá thể và quần thể ruộng lúa, ảnh hưởng đến khả
năng đẻ nhánh và số nhánh hữu hiệu/khóm, khả năng chống chịu sâu bệnh…
từ đó mà ảnh hưởng mạnh mẽ đến năng suất lúa.
Trên một đơn vị diện tích nếu mật độ càng cao (cấy dầy) thì số bông
càng nhiều, song số hạt/bông càng ít (bông bé) tốc độ giảm số hạt/ bông mạnh
hơn tốc độ tăng của mật độ. Vì thế cấy dầy quá sẽ làm cho năng suất giảm
nghiêm trọng.
Tuy nhiên nếu cấy với mật độ quá thưa đối với các giống lúa có thời
gian sinh trưởng ngắn thì rất khó hoặc không thể đạt được số bông tối ưu. Các


13
kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học với các giống lúa khác nhau đều
khẳng định: Khi các khâu kỹ thuật khác được duy trì thì chọn một mật độ vừa
phải là phương án tối ưu để đạt được số lượng hạt thóc nhiều nhất trên đơn vị
diện tích gieo cấy.
Xác định được mật độ gieo cấy lúa hợp lý là biện pháp kỹ thuật làm
giảm sự phá hoại của sâu, bệnh, tăng đáng kể năng suất, chất lượng lúa cuối
vụ. Xác định mật độ gieo cấy căn cứ vào các yếu tố sau:
- Mật độ gieo cấy lúa phụ thuộc vào đặc điểm của giống lúa định gieo cấy:
+ Giống lúa chịu thâm canh càng cao, tiềm năng năng suất lớn mật độ
gieo cấy càng dày và ngược lại, giống lúa chịu thâm canh thấp mật độ gieo
cấy thấp hơn. Ví dụ mật độ gieo cấy giống lúa lai chịu thâm canh cao, tiềm
năng năng suất lớn sẽ cao hơn mật độ gieo cấy các giống lúa nếp chịu thâm
canh kém, tiềm năng năng suất trung bình.
+ Những giống lúa có bộ lá gọn, góc lá nhỏ, thế lá đứng gieo cấy mật
độ dày hơn những giống lúa có phiến lá to, góc lá lớn.
- Mật độ gieo cấy lúa phụ thuộc vào tuổi mạ: Tuổi mạ càng ngắn (mạ
non) khả năng đẻ cao cấy thấp hơn mạ già, tuổi mạ cao.

- Xác định mật độ gieo cấy lúa hợp lý căn cứ vào độ phì của đất, khả
năng thâm canh của hộ nông dân: Đất tốt, khả năng thâm canh cao mật độ
gieo cấy thấp hơn loại đất xấu, khả năng thâm canh thấp.
- Xác định mật độ gieo cấy lúa hợp lý căn cứ vào mùa vụ: Vụ mùa, thời
tiết nắng nóng cây lúa sinh trưởng nhanh, đẻ sớm, đẻ nhiều cấy thưa hơn vụ
đông xuân nhiệt độ thấp, cây lúa lâu đẻ, đẻ kém như kinh nghiệm lâu năm
của người nông dân "chiêm ăn dảnh, mùa ăn bông".
Bùi Huy Đáp (1999) [4] cho rằng: Đối với lúa cấy, số lượng tuyệt đối
về số nhánh thay đổi nhiều qua các mật độ nhưng tỷ lệ nhánh có ích giữa các
mật độ lại không thay đổi nhiều. Theo tác giả thì các nhánh đẻ của cây lúa


14
không phải nhánh nào cũng cho năng suất mà chỉ những nhánh đạt được thời
gian sinh trưởng và số lá nhất định mới thành bông.Về khả năng chống chịu
sâu bệnh đã có rất nhiều nghiên cứu của nhiều tác giả và đều chung nhận xét
rằng: gieo cấy với mật độ dày sẽ tạo môi trường thích hợp cho sâu bệnh phát
triển vì quần thể ruộng lúa không được thông thoáng, các lá bị che khuất lẫn
nhau nên bị chết lụi đi nhiều. Một trong những biện pháp canh tác phòng trừ
sâu bệnh và cỏ dại trong nông nghiệp là gieo cấy với mật độ thích hợp với
từng giống lúa, tránh gieo cấyquá dày sẽ tạo điều kiện cho khô vằn, rầy nâu
và đạo ôn phát triển mạnh.
Mật độ và năng suất lúa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc tăng
mật độ cấy trong giới hạn nhất định thì năng suất sẽ tăng. Vượt quá giới hạn
đó thì năng suất sẽ không tăng mà thậm chí có thể giảm đi.
Theo Nguyễn Văn Hoan (2004) [6] thì tùy từng giống để chọn mật độ
thích hợp vì cần tính đến khoảng cách đủ rộng để làm hàng lúa đủ thông
thoáng, các khóm lúa không chen nhau. Cách bố trí khóm lúa theo hình chữ
nhật (hàng sông rộng hơn hàng con) là phù hợp nhất vì như thế mật độ trồng
được đảm bảo nhưng lại tạo ra sự thông thoáng trong quần thể, tăng khả năng

quang hợp, chống bệnh tốt và tạo ra hiệu ứng rìa sẽ cho năng suất cao hơn.
Theo Trương Đích (1999) [4], thì mật độ cấy còn phụ thuộc vào mùa
vụ và giống: vụ xuân hầu hết các giống cải tiến cấy mật độ thích hợp 45-50
khóm/m
2
nhưng vụ mùa thì cấy 55 - 60 khóm/m
2
.
Theo Nguyễn Thị Lẫm (1999) [8], cấy với mật độ bao nhiêu là tùy
thuộc vào giống lúa, mùa vụ, tuổi mạ, đất đai và phân bón. Ngoài ra còn phụ
thuộc vào tập quán canh tác của từng địa phương.
Trong thực tế cấy với mật độ bao nhiêu thì vừa ? Có một số người cho
rằng dù cấy dày hay cấy thưa thì cũng ít ảnh hưởng đến năng suất, vì tuy mật
độ có ảnh hưởng đến số bông/đơn vị diện tích nhưng nếu số bông nhiều thì số


15
hạt/bông ít và ngược lại, nên cuối cùng số hạt/bông đơn vị diện tích cũng
không hoặc ít thay đổi.
Thực ra thì quan hệ giữa mật độ và năng suất không hẳn như vậy. Dựa
vào sự phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành năng suất, Đinh Văn
Lữ (1978) [8], đã đưa ra lập luận là các yếu tố cấu thành năng suất có liên
quan chặt chẽ với nhau, muốn năng suất cao phải phát huy đầy đủ các yếu tố
mà không ảnh hưởng lẫn nhau. Theo ông, số bông tăng lên đến một phạm vi
mà số hạt/bông và tỷ lệ hạt chắc giảm ít thì năng suất đạt cao, nhưng nếu số
bông tăng quá cao, số hạt/bông và tỷ lệ hạt chắc giảm nhiều thì năng suất
thấp. Trong 3 yếu tố cấu thành năng suất: số bông/m
2
, số hạt chắc/bông và
khối lượng 1000 hạt thì 2 yếu tố đầu giữ vai trò quan trọng và thay đổi theo

cấu trúc của quần thể còn khối lượng 1000 hạt của mỗi giống ít biến động.
Vì vậy năng suất sẽ tăng khi tăng mật độ cấy trong một phạm vi nhất
định. Phạm vi này phụ thuộc nhiều vào đặc tính của giống, đất đai, phân bón
và thời tiết.
Mật độ cấy cũng ảnh hưởng đến sử dụng phân bón. Kết quả nghiên cứu
của Vũ Văn Liết và cộng sự (2006) [12] cho thấy: công thức bón cân đối NPK
cho năng suất lúa cao nhất là 67,3 tấn/ha, không bón đạm làm giảm 9,1
tấn/ha, không bón kali làm giảm 4,9 tấn/ha, không bón lân năng suất giảm
không có ý nghĩa thống kê so với bón đầy đủ NPK.
Như vậy mật độ cấy có ý nghĩa quan trọng đến cấu trúc quần thể ruộng
lúa. Một quần thể ruộng lúa tốt phải đảm bảo được những chỉ tiêu nhất định về
độ thông thoáng trong suốt thời kỳ sinh trưởng và phân bố không gian trên một
ruộng lúa, đặc biệt là thời kỳ sinh trưởng mạnh nhất. Mật độ thích hợp tạo cho
cây lúa phát triển tốt, tận dụng hiệu quả chất dinh dưỡng, nước và ánh sáng. Mật
độ thích hợp còn tạo nên sự tương tác hài hòa giữa cá thể cây lúa và quần thể
ruộng lúa và mục đích cuối cùng là cho năng suất cao trên một đơn vị diện tích.


16
Mật độ thích hợp còn hạn chế được quá trình đẻ nhánh lai rai, hạn chế
được thời gian đẻ nhánh vô hiệu, lãng phí chất dinh dưỡng. Cấy dày các cây
con cạnh tranh nhau về dinh dưỡng, ánh sáng sẽ vươn cao lá nhiều, rậm rạp
ảnh hưởng đến hiệu suất quang hợp thuần, sâu bệnh phát triển nhiều, cây có
khả năng chống chịu kém và năng suất cuối cùng không cao. Hạt chín không
đều, mầm mống sâu bệnh trên hạt có thể tăng do độ ẩm hạt tăng nhanh trong
quá trình bảo quản… ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hạt lúa.
2.3.2. Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy trên thế giới
Ở Nhật Bản, mạ tốt là mạ non, cấy xuống cây mạ bén rễ rất nhanh, mật
độ cấy tiêu chuẩn ở Hokkaido là 35 x 15 cm, mỗi khóm 3 dảnh. Theo kết quả
nghiên cứu của trạm thí nghiệm nông nghiệp ở Hokkaido cho thấy trong một

phạm vi mật độ nhất định thì năng suất hầu như không thay đổi. Mật độ cấy
thích hợp nhất thay đổi tùy theo lượng phân bón và đặc tính giống. Ở vùng
nhiệt đới như Ấn Độ, cấy lúa chín sớm với mật độ 15 x 15cm, mỗi khóm lúa
2 dảnh, với giống lúa chín muộn khoảng cách 20 x 20cm hoặc 15 x 23cm,
mỗi khóm 2 dảnh. Còn những nơi đất tốt có thể cấy 30 x 15cm (Tanaka
Akira, 1981) [18].
Ở Nhật Bản khoảng cách cấy ngày càng được mở rộng dần. Tương lai
sau này áp dụng những giống tốt, bón nhiều phân thì có thể cấy khoảng cách
25 x 25cm hoặc 30 x 30cm (Tanaka Akira, 1981) [18].
Trong công bố gần đây của các tác giả như Yuan Qianhua, Lu
Xinggui, Cao Bing và cộng sự, Ban Nghiên cứu tiêu chuẩn và phát triển
cây trồng chuyển gen thuộc chương trình Công nghệ cao Trung Quốc
(2002) đã sử dụng tổ hợp lai hai dòng PA64S/9311 để nghiên cứu ảnh
hưởng của mật độ cấy đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của
tổ hợp lai. Các tác giả sử dụng hai công thức cấy thưa (90.000 khóm/ha) và
công thức cấy truyền thống ở Trung Quốc (300.000 khóm/ha). Kết quả


17
nghiên cứu cho thấy số nhánh đẻ của công thức cấy thưa giảm đáng kể so
với công thức cấy dày vào thời điểm trước 10 tháng 5, nhưng đến 25 tháng
5 thì sự sai khác chỉ còn rất nhỏ. Kích thước nhánh đẻ ở công thức cấy thưa
lớn hơn cấy dầy 8,86%, tỷ lệ kết hạt thấp hơn 2,35% và khối lượng 1000
hạt cũng thấp hơn 0,86g. Năng suất của công thức cấy thưa giảm 17 - 19%.
Trong một thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố khí tượng tại
Nam Kinh cho kết quả nhiệt độ không khí thấp ở giai đoạn đẻ nhánh mạnh là
yếu tố ảnh hưởng chính đến sự sai khác về số hoa giữa hai công thức cấy. Nhiệt
độ thấp ở giai đoạn trước và sau trỗ 10 ngày, cùng với số hoa trên m
2
lớn, chỉ số

diện tích lá lớn của công thức cấy thưa là những nguyên nhân sinh lý làm giảm
tỷ lệ kết hạt. Sự sai khác về khối lượng 1000 hạt có liên quan chủ yếu đến nhiệt
độ ở giai đoạn chín sữa. Số lượng hạt và số lá tính trên m
2
liên quan với nhau rất
chặt. Kết quả nghiên cứu về yếu tố khí hậu phù hợp cho mật độ cấy thưa phải ở
độ cao thấp hơn mực nước biển, đó là yếu tố mang tính quyết định cho đẻ nhánh
sớm và tránh sự tổn thương của hạt trong giai đoạn chín sữa ở vùng trồng lúa
phía Nam Trung Quốc. Đối với các vùng dịch dần lên phía Bắc một chút, do
nhiệt độ thấp nên không đủ ấm cho một số loại giống lúa, nên công thức cấy
thưa không thể thực hiện được ở vùng nhiệt độ thấp.
Ngoài ra các tác giả còn quan tâm đến vấn đề quản lý tổng hợp bao gồm
khoảng cách cấy rộng hơn, kỹ thuật tưới không liên tục với lượng nước tiết kiệm
hơn, sử dụng đạm hợp lý theo nhu cầu của mức năng suất mong muốn, đã rút ra
nhận xét việc giảm mật độ bằng cách dãn thưa khoảng cách hàng để tăng sinh
khối là do tăng khả năng tổng hợp lân trong đất. Việc áp dụng kỹ thuật tưới
không liên tục đã làm tăng sự phát triển và hoạt tính của bộ rễ trong quá trình
vào chắc của hạt. Sử dụng đạm hợp lý sẽ làm cho thế lá đứng hơn, nên lúa không
bị đổ. Bằng cải tiến quản lý tổng hợp đã làm tăng năng suất và giảm khoảng
cách giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực thu.

×