Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến sinh trưởng và phát triển của giống dong riềng DR1 tại trường ĐHNL Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.04 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



HÀ CHÍ BẢO


Tên đề tài:

“NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ TỔ HỢP NPK ĐẾN
SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIỐNG DONG RIỀNG
DR1 TẠI TRƯỜNG ĐHNL THÁI NGUYÊN”




KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Khoa : Nông học
Lớp : K42 - TT
Khóa học: : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Viết Hưng






Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu và những số liệu trình
bầy trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng để
bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm
ơn. Các thông tin, tài liệu trích dẫn trình bày trong luận văn này đều đã được
ghi rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, ngày 19 tháng 5 năm 2014
Tác giả



Hà Chí Bảo
















LỜI CẢM ƠN

Được sự nhất trí của Nhà trường và BCN Khoa Nông học, tôi tiến hành
thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số tổ hợp
NPK đến sinh trưởng và phát triển của giống dong riềng DR1 tại trường
ĐHNL Thái Nguyên”.
Dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Nguyễn Thị Lân đến nay
luận văn tốt nghiệp của tôi đã được hoàn thành. Để có được kết quả như
hôm nay tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới ban chủ nhiệm
Khoa Nông học cùng toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa, đặc biệt là cô
giáo Nguyễn Thị Lân. Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự động
viên của gia đình và các bạn trong lớp, trong Khoa đã giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này
Đây là dịp đầu tiên tôi được tiếp xúc với việc nghiên cứu thực tế, nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự chỉ bảo, góp ý
bổ sung của các thầy, cô giáo và các bạn để luận văn của tôi được hoàn
chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



Sinh viên



Hà Chí Bảo








DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CT Công thức
CS Cộng sự
ĐC Đối chứng
Ha Hecta
HTX Hợp tác xã
UBND Ủy ban nhân dân
PTNT Phát triển nông thôn
CV Hệ số biến động
LSD Sai khác có ý nghĩa
KHSS Khoa học sự sống
CT Công thức
CS Cộng sự
NSLT Năng suất lí thuyết
NSTT

Năng suất thực thu


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN 1
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1

1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Mục đích nghiên cứu 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Nguồn gốc, đặc điểm thực vật học và yêu cầu sinh thái của cây dong
riềng 3
2.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố của cây dong riềng 3
2.1.2. Phân loại cây dong riềng 3
2.1.3. Đặc điểm thực vật học cây dong riềng 3
2.1.4. Yêu cầu sinh thái của cây dong riềng 5
2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ dong riềng trên thế giới và Việt Nam 6
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ dong riềng trên thế giới 6
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ dong riềng tại Việt Nam 6
2.3. Tình hình nghiên cứu dong riềng trên Thế giới và ở Việt Nam 9
2.3.1. Tình hình nghiên cứu dong riềng trên thế giới 9
2.3.2. Tình hình nghiên cứu dong riềng ở Việt Nam 11
2.4. Một số nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật trồng dong riềng 13
Phần III. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 16
3.1. Đối tượng nghiên cứu 16
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 16
3.3. Nội dung nghiên cứu 16
3.4. Phương pháp nghiên cứu 16
3.5. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 17
3.6. Phương pháp xử lý số liệu 19
Phần IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 20
4.1. Điều kiện khí hậu thời tiết 20
4.2. Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến tỉ lệ nảy mầm và thời gian sinh
trưởng của giống dong riềng DR1 22

4.3. Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến khả năng sinh trưởng của giống
dong riềng DR1. 23
4.3.1. Ảnh hưởng của các tổ hợp NPK đến động thái tăng trưởng chiều cao
cây 23
4.3.2. Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến động thái tăng trưởng đường
kính thân của cây dong riềng 25
4.3.3. Ảnh hưởng của các tổ hợp NPK đến động thái ra lá của giống dong
riềng DR1 28
4.4. Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến đặc điểm hình thái của giống
dong riềng DR1 30
4.5. Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến tình hình sâu bệnh hại và khả
năng chống đổ của giống dong riềng DR1 31
4.6. Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống dong riềng DR1 34
4.7. Hoạch toán hiệu quả kinh tế của một số tổ hợp NPK cho giống dong
riềng DR1 36
Phần V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 37
5.1. Kết luận 37
5.2. Đề nghị 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38

DANH MỤC BẢNG

Bảng 4.1: Diễn biến khí hậu thời tiết năm 2013 tại Thái Nguyên 20
Bảng 4.2: Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến tỉ lệ nảy mầm và thời gian
sinh trưởng của giống dong riềng DR1 22
Bảng 4.3: Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây của giống dong riềng DR1 24
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến động thái tăng trưởng
đường kính thân của giống dong riềng DR1 26

Bảng 4.5: Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến động thái ra lá của giống
dong riềng DR1 28
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến một số đặc điểm hình thái
và độ đồng đều của giống dong riềng DR1 30
Bảng 4.7: Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK tình hình sâu bệnh hại và khả
năng chống đổ của giống dong riềng DR1 33
Bảng 4.8 Ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của giống dong riềng DR1 34
Bảng 4.9: Sơ bộ hạch toán kinh tế cho các công thức thí nghiệm 36

DANH MỤC HÌNH

Biểu đồ 4.1: Động thái tăng trưởng chiều cao cây dong riềng 24
Biểu đồ 4.2. Động thái tăng trưởng đường kính thân cây dong riềng 26
Biểu đồ 4.3. Động thái ra lá của cây dong riềng 29
Biểu đồ 4.4. Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu của giống dong riềng
DR1 34











1
PHẦN I

MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây dong riềng có tên khoa học là Canna edulis (Indica), họ Dong
riềng (Cannaceae) có nguồn gốc từ Nam mỹ và trồng ở nước ta vào đầu thế
kỷ 19. Dong riềng là cây trồng sinh trưởng, phát triển mạnh, có khả năng
thích ứng rộng, trồng được trên nhiều loại đất kể cả các vùng đất nghèo dinh
dưỡng, có khả năng chống chịu tốt với điều kiện bất thuận đặc biệt là chịu
hạn, năng suất củ tươi có thể đạt từ 45 - 60 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 13,36-
16,4% (Nguyễn Thiếu Hùng và CS, 2010) [6]. Do có hàm lượng tinh bột cao
nên củ dong riềng thường được dùng để chế biến tinh bột, chăn nuôi gia súc,
đặc biệt là được sử dụng để làm miến dong, bánh đa, bánh mì, bánh bao,
kẹo Ngoài ra, thân, lá dong riềng còn dùng cho chăn nuôi gia súc nên góp
phần tận dụng thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Theo đánh giá của người dân,
dong riềng dễ trồng, ít tốn công chăm sóc nên trồng dong riềng có hiệu quả
kinh tế cao. Một ha trồng dong riềng cho doanh thu 80 - 100 triệu, trừ chi
phí đi khoảng 20 - 25 triệu, người dân có thể lãi trung bình khoảng 60-80
triệu đồng/ha (thu từ củ). Trồng dong riềng trên diện tích lớn hoặc chế biến
thành tinh bột thì có thể được lãi nhiều hơn.
Cây dong riềng có thể trồng trên nhiều loại đất, ở nhiều điều kiện sinh
thái khác nhau. Sự mất cân bằng dinh dưỡng trong đất ảnh hưởng xấu đến
sinh trưởng bình thường của cây. Do có năng suất sinh khối lớn (đạt từ 40 –
70 tấn củ và 50 – 60 tấn lá/ha) nên hàng năm dong riềng lấy đi từ đất một
lượng dinh dưỡng khá lớn. Khi năng suất dong riềng ngày càng tăng thì nhu
cầu của phân bón cũng được tăng lên.
Trong những năm gần đây, diện tích trồng cây dong riềng ngày càng
tăng nhưng năng suất vẫn còn thấp và không ổn định, để tăng sản lượng
dong riềng cho nhu cầu trong nước, chế biến và xuất khẩu, bên cạnh việc mở
rộng diện tích, sử dụng giống mới cho năng suất cao….Thì việc sử dụng các
loại phân bón là một yếu tố quan trọng làm tăng năng suất và nâng cao hiệu
quả kinh tế.

Phân bón có một vị trí quan trọng trong việc nâng cao sức sản xuất
của đất, cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng tạo điều kiện cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển, tăng năng suất và chất lượng nông sản. Tuy nhiên,
muốn nâng cao hiệu lực của phân bón cần xác định liều lượng, tỉ lệ giữa các

2
nguyên tố dinh dưỡng phù hợp với từng loại đất và từng vùng tiểu khí hậu
cụ thể.
Xuất phát từ thực tế đó, được sự giúp đỡ của khoa Nông Học trường
Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng sự giúp đỡ tận tình của thầy cô
hướng dẫn, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng
của một số tổ hợp NPK đến sinh trưởng và phát triển của giống dong
riềng DR1 tại trường ĐHNL Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tổ hợp NPK thích hợp nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả
kinh tế trong sản xuất dong riềng.
1.3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến khả năng sinh
trưởng và năng suất của dong riềng.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số tổ hợp NPK đến khả năng chống
chịu của dong riềng.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
Giúp sinh viên củng cố và hệ thống hóa những kiến thức đã học, áp
dụng vào thực tế. Đồng thời tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp cận với
những phương pháp nghiên cứu khoa học, nâng cao kiến thức và tích lũy
kinh nghiệm thực tế.
- Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất:
Qua kết quả nghiên cứu xác định được công thức bón phân phù hợp
với sản xuất dong riềng tại Thái Nguyên và đánh giá hiệu quả kinh tế của

các công thức bón. Từ đó khuyến cáo ra sản xuất.









3
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Nguồn gốc, đặc điểm thực vật học và yêu cầu sinh thái của cây
dong riềng
2.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố của cây dong riềng
Dong riềng có nguồn gốc ở Peru, Nam Mỹ. Được chế biến lấy bột để
làm lương thực, thực phẩn là chính. Người ta đã xác định được 7 loài dong
riềng nguồn gốc phát sinh ở Nam Mỹ và Trung Quốc (Darlington và Janaki,
1945) đó là:
- Canna discolor ở Tây Ấn nhiệt đới,
- C. Flauca ở Tây Ấn và Mêhico,
- C. flaccida ở Nam Mỹ,
- C. edulis ở châu Mỹ nhiệt đới,
- C. Indica ở châu Mỹ nhiệt đới,
- C.libata ở Braxin,
- C.humilis ở Trung Quốc.
Ngày nay dong riềng được trồng rộng rãi ở nhiều nước có khí hậu nhiệt
đới và á nhiệt đới. Trong đó Nam Mỹ là trung tâm đa dạng di truyền nguồn

gen dong riềng, ngoài ra dong riềng được trồng nhiều ở các nước châu Á,
châu Phi, Châu Úc. Dong riềng được trồng ở quy mô thương mại tại các
nước vùng nam Mỹ, châu Phi, và một số nước nam Thái Bình Dương. Tại
châu Á, dong riềng được trồng tại Thái Lan, Indonesia, Nam Trung Quốc,
Úc và Đài Loan (Hermann và CS, 2007) [16].
2.1.2. Phân loại cây dong riềng
- Tên khoa học: Canna Edulis Ker
- Dong riềng thuộc họ chuối hoa Cannacea
- Bộ: Scitaminales
Số lượng nhiễm sắc thể là 9, có 2 dạng nhị bội 2n = 2X = 18 và tam bội
2n = 2X = 27
2.1.3. Đặc điểm thực vật học cây dong riềng

4
Thân: Thân của cây dong riềng gồm 2 loại là thân khí sinh và thân củ.
Thân khí sinh trung bình cao từ 1,2m đến 1,5m có những giống có thể cao
trên 2,5m. Thân cây thường có mầu xanh hoặc xen tím. Thân gồm những
lóng kéo dài, giữa các lóng là các đốt; Thân khí sinh được tính từ đốt tiếp
phần củ. Giải phẫu thân khí sinh cho thấy bên ngoài thân được cấu tạo bởi
lớp biểu bì gồm những tế bào dẹt, dưới biểu bì có những bó cương mô xếp
thành những bó tròn có tác dụng chống đỡ cho cây, tiếp đến là những bó libe
và mạch gỗ và trong cùng là nhu mô.
Củ: Củ cây dong riềng hình thành từ thân rễ phình to, những củ to có
thể đạt chiều dài 60 cm. Thân rễ phân thành nhiều nhánh và chứa nhiều tinh
bột, thân rễ nằm trong đất. Thân rễ gồm nhiều đốt, mỗi đốt có một lá vảy,
lúc mới ra lá vảy có hình chóp nhọn dần dần to ra sẽ bị rách và tiêu dần;
Trên mỗi đốt của thân củ có nhiều mầm có thể phát triển thành nhánh, nhánh
có thể phân chia thành các nhánh cấp 1 hay đến cấp 3. Vỏ của thân có thể có
màu trắng, vàng kem đến màu tía hồng. Kích thước củ biến động khá lớn
phụ thuộc vào giống và điều kiện chăm bón. Giải phẫu thân rễ cho thấy phía

ngoài cùng của củ là biểu bì gồm những tế bào dẹt, tiếp là nhu mô bên trong
có những bó cương mô và những bó mạch dẫn libe và gỗ, tiếp là lớp tế bào
nhu mô chứa ít một số hạt tinh bột, vào trong nữa là lớp trụ bì rất rõ và trong
cùng là nhu mô chứa nhiều hạt tinh bột. So với thân khí sinh thân rễ có ít bó
cương mô hơn.
Năng suất cây dong riềng rất cao. Nếu trồng ở nơi đất tốt, một khóm
dong riềng có thể thu được 15 – 20 kg củ. Trồng thâm canh trên diện tích
lớn dong riềng cho năng suất 50 – 60 tấn/ha.
Lá: Lá dong riềng gồm phiến lá và cuống lá với bẹ lá ở phía gốc, lá của
cây dong riềng thuôn dài, mặt trên của lá có màu xanh hoặc xanh lục xen
tím, mặt dưới màu xanh hoặc màu tím. Lá dài khoảng 35 – 60 cm và có
chiều rộng 22 – 25 cm; Mép lá nguyên, xung quanh mép lá có viền một
đường mỏng mầu tím đỏ hoặc màu trắng trong; Phiến lá có gân giữa to, gân
phụ song song, có màu xanh hoặc tím đỏ; Cuống lá dạng bẹ ôm lấy thân có
chiều dài khoảng 8 – 15 cm.

5
Rễ: Bộ rễ cây dong riềng thuộc loại rễ chùm, rất phát triển; Rễ mọc từ
các đốt của thân củ, từ lớp tế bào trụ bì ở đốt thân củ phát triển ra thành rễ.
Rễ của cây dong riềng phát triển liên tục phân thành rễ cấp 1, cấp 2 và cấp 3
(tùy thuộc vào giống). Do củ phát triển theo chiều ngang nên rễ chỉ ăn sâu
vào đất khoảng 20 – 30 cm.
Hoa: Hoa dong riềng xếp thành cụm, cụm hoa dạng chùm, hoa mọc ở
ngọn cây. Cây thường mang ít hoa lưỡng tính, không đều. Cụm hoa được
bao bởi một mo chung như hoa chuối. Chùm hoa thiết diện hình tam giác, có
từ 6 – 8 đốt, mỗi đốt có 2 hoa, đốt dưới cùng và trên cùng có 1 hoa.
Cấu tạo hoa gồm có 3 lá đài hình cánh rời nhau, 3 cánh hoa dài thon
cuộn theo chiều dài. Hoa có 5 nhị đực, ngoài có 3 nhị thì 2 nhị biến thành
bản hình cánh hoa, 1 nhị biến thành cánh môi cuộn lại phía trước. Vòng
trong có 2 nhị, trong đó 1 nhị bị tiêu biến chỉ còn vết, nhị kia thì một nửa

cánh mang 1 bao phấn, nửa còn lại cũng biến thành hình cánh. Tất cả các nhị
đều có màu sắc sặc sỡ, màu cánh biến động từ màu đỏ tươi đến màu vàng
điểm đỏ. Bầu hoa có 3 ô, mỗi ô có từ 6 – 8 noãn, phía trên bầu có tuyến tiết
mùi. Thời gian từ nụ đến nở hoa từ 3 – 5 ngày, hoa nở theo thứ tự từ thấp
đến cao, từ trong ra ngoài; Hoa nở vào buổi sáng, mỗi hoa nở từ 1 - 2 ngày.
Quả: Quả của cây dong riềng thuộc dạng qủa nang, hình trứng ngược,
kích thước khoảng 3cm, trên quả nang có nhiều gai mềm.
Hạt: Hạt của cây dong riềng có màu đen, hình tròn đường kính 3,5 – 5
mm. Khối lượng 1000 hạt khoảng 12 – 13 g.
2.1.4. Yêu cầu sinh thái của cây dong riềng
Yêu cầu về nhiệt độ: Cây dong riềng thích hợp từ 25-30
0
C, điều kiện
ấm áp dong riềng sinh trưởng phát triển khỏe hơn, tốc độ đồng hóa cao và
đẩy nhanh quá trình hình thành thân củ, thời tiết hanh và hơi lạnh đẩy nhanh
quá trình vận chuyển tinh bột từ thân lá xuống củ. Dong riềng chịu lạnh khá
nên có khả năng trồng ở độ cao trên 2.500 m so với mặt nước biển.
Yêu cầu ánh sáng: Dong riềng không cần nhiều ánh sáng, nên có thể
trồng dưới tán cây ăn quả, cây sinh trưởng bình thường nơi cớm nắng. Ngày
dài có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành củ. Điều kiện ngày ngắn, cường

6
độ ánh sáng mạnh thúc đẩy sự hình thành và phát triển củ, trong khi ngày
dài thúc đẩy sự phát triển thân lá.
Yêu cầu đất trồng: Dong riềng là cây có yêu cầu về đất không khắt khe
so với cây trồng khác, nên có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau. Tuy
nhiên trồng trên đất cát pha, nhiều mùn, đủ ẩm là tốt nhất để cho năng suất
cao. Dong riềng là loại cây chịu úng kém do vậy đất trồng dong riềng phải là
nơi dễ thoát nước. Đất đọng nước làm cho bộ rễ hô hấp kém có thể dẫn đến
thối củ.

Yêu cầu nước: Dong riềng có đặc điểm chịu hạn tốt, có thể bố trí trên
đất có độ dốc trên 15
0
, ít ẩm, nhưng dong riềng không chịu được ngập úng,
nếu bị ngập úng cây thường bị vàng lá, thối củ. Vùng trồng dong riềng ở
vùng có lượng mưa thích hợp 900 - 1200 mm.
Chất dinh dưỡng: Cũng như các cây có củ khác, dong riềng yêu cầu có
đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng NPK, trong đó K có ý nghĩa trong việc
tăng khối lượng củ. Cây dong riềng yêu cầu đất tốt giàu mùn để cho năng
suất cao. Những nơi đất quá cằn cỗi cần bón thêm phân hữu cơ. Phân bón rất
có ý nghĩa trong việc tăng năng suất củ của cây dong riềng.
2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ dong riềng trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ dong riềng trên thế giới
Trên thế giới dong riềng được trồng ở quy mô thương mại tại các nước
vùng nam Mỹ, châu Phi, châu Á và một số nước nam Thái Bình Dương.
Diện tích dong riềng trên thế giới khoảng 3.000.000 ha. Năng suất trung
bình đạt 30 tấn/ha. Châu Phi là châu lục có diện tích trồng dong riềng lớn
nhất thế giới.
Tại châu Á, dong riềng được trồng tại Thái Lan, Indonesia, nam Trung
Quốc, Úc, và Đài Loan (Hermann và CS, 2007) [16]. Trung Quốc là nước có
diện tích dong riềng lớn nhất châu Á.
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ dong riềng tại Việt Nam
Diện tích dong riềng của Việt Nam đạt khoảng 30.000 ha. Sản lượng
hàng năm đạt 450.000 tấn củ tươi. Dong riềng được trồng ở những chân đất
khô hạn, trên đất dốc hoặc những nơi sản xuất tinh bột và miến. Các tỉnh

7
trồng nhiều dong riềng để sử dụng làm miến là Hà Nội, Hưng Yên, Hòa
Bình và Đồng Nai.
Tại những vùng có diện tích trồng đáng kể, dong riềng hầu hết được

chế biến thành tinh bột, sau đó làm miến (Nguyễn Khắc Quỳnh và Trương
Văn Hộ, 1995) [7]. Tuy nhiên, các quy trình chế biến miến dong ở nước
ta hiện nay vẫn mang tính thủ công chưa đảm bảo chất lượng và chỉ có
một số ít nhà máy sử dụng tinh bột dong để sản xuất miến ăn liền. Dong
riềng hiện nay được chế biến với khối lượng lớn chủ yếu tại một số làng
nghề tại Quốc Oai, Hoài Đức, Ba Vì (Hà Nội), Trảng Bom (Đồng Nai),
Yên Mỹ, Khoái Châu (Hưng Yên). Hiện nay nhu cầu sử dụng miến ngày
càng tăng, trong khi đó nguồn nguyên liệu cho chế biến lại chưa đủ nên
hàng năm nước ta vẫn phải nhập hàng ngàn tấn tinh bột dong ẩm từ tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc.
* Sản xuất dong riềng tại Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh miền núi phía Bắc, có địa hình phức tạp, độ dốc cao.
Việc đưa các loại cây trồng vào địa bàn Bắc Kạn trong những năm qua đã có
nhiều nghiên cứu, nhiều mô hình được áp dùng để tạo vùng sản xuất phù
hợp với điều kiện địa lý, thổ nhưỡng và cả tập quán canh tác của đồng bào
dân tộc thiểu số.
Ở Bắc Kạn, nhiều vùng mùa đông nhiệt độ dưới 10
0
C các loại cây trồng
khác như lúa, ngô, khoai lang, sắn không trồng được nhưng dong riềng vẫn
phát triển tốt, ngoài ra cây dong riềng có thể trồng xen trên các núi đá mà ở
đó các cây trồng khác không thể canh tác. Cây dong riềng cũng chịu hạn tốt
hơn ngô, khoai lang và sắn, trên 1 đơn vị diện tích thì dong riềng cũng cho
thu nhập cao hơn một số cây trồng khác. Chính vì vậy trong những năm
gần đây, cây dong riềng đang được người dân các địa phương quan tâm và
phát triển rộng trên toàn tỉnh.
Nhận thấy dong riềng là cây phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa
phương lại cho hiệu quả kinh tế cao, những năm gần đây, tỉnh Bắc Kạn đã
đẩy mạnh việc sản xuất dong riềng. Diện tích trồng và quy mô chế biến nông
sản này ngày càng tăng: năm 2010, toàn tỉnh trồng được 270 ha, năng suất

100 tấn/ha, năm 2011 trồng được 551 ha (tăng 2 lần so với 2010), sản lượng

8
đạt 51.000 tấn củ, năm 2012, diện tích trồng dong riềng của tỉnh tăng lên
1.324 ha (tăng 2,4 lần so với 2011).
Để giải quyết vấn đề đầu ra cho sản phẩm dong riềng, vấn đề phát triển
các cơ sở chế biến dong riềng luôn được tỉnh chú trọng. Đến hết năm 2011
trên địa bàn tỉnh có gần 70 cơ sở chế biến, tiêu thụ sản phẩm dong riềng với
quy mô từ 10 đến 20 tấn dong riềng/ngày. Trong những tháng đầu năm
2012, toàn tỉnh Bắc Kạn đã có thêm 10 hợp tác xã (HTX) chế biến tinh bột
dong riềng, miến dong, nâng tổng số các hợp tác xã chế biến dong riềng trên
địa bàn tỉnh lên 21 HTX (trong đó có 17 HTX chế biến tinh bột, 4 HTX chế
biến tinh bột và miến dong). Với sự thành lập mới 10 HTX, tính đến thời
điểm hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có gần 80 cơ sở chế biến tinh bột
dong riềng và sản xuất miến dong.
Các cơ sở sản xuất miến từ nguyên liệu dong riềng lớn nhất của tỉnh
Bắc Kạn là: Nhất Thiện (huyện Ba Bể), HTX miến dong Côn Minh, Kim
Lư, Cư Lễ, Lạng San (huyện Na Rì). Sắp tới, Bắc Kạn sẽ có những cơ sở sản
xuất miến dong quy mô lớn hơn, thực hiện sự cam kết giữa doanh nghiệp và
người dân trong việc trồng và tiêu thụ sản phẩm dong riềng.
Cùng với việc các hợp tác xã chế biến dong riềng được thành lập mới,
hiện nay một số cơ sở chế biến dong riềng hoạt động với quy mô nhỏ đang
chuẩn bị đầu tư mới để sản xuất với quy mô lớn hơn. Theo số liệu thống kê
của Sở Công Thương, trên địa bàn tỉnh hiện có 26 cơ sở đang dự kiến đầu tư
dây chuyền chế biến tinh bột với tổng công suất 940 tấn củ/ngày; 04 đơn vị
đang dự kiến đầu tư mới dây chuyền sản xuất miến dong với tổng công suất
đạt 13,7 tấn củ/ngày. Như vậy, năm 2012 tổng công suất chế biến tinh bột
dong riềng (bao gồm cả hiện có và dự kiến đầu tư mới) trên địa bàn toàn tỉnh
có thể đáp ứng được 99,04%, nếu tăng thêm thời gian chế biến thì công suất
hiện tại sẽ đủ để chế biến hết khối lượng củ dong riềng năm nay. Theo số

liệu báo cáo của các địa phương, năm tới tổng diện tích người dân đăng
ký trồng dong riềng là 2.200 ha.
Bên cạnh đó, được sự quan tâm của UBND tỉnh Bắc Kạn, Sở Khoa học
và Công nghệ tỉnh Bắc Kạn đang tiến hành làm hồ sơ đề nghị bảo hộ sản
phẩm trí tuệ tập thể miến dong Bắc Kạn (một loại hàng hóa có giá trị, được

9
người nội trợ nhiều nơi tin dùng vì chất lượng đặc biệt). Theo đó, dự án
thành công sẽ bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng; cũng
như quảng bá nhãn hiệu tập thể nói riêng trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó,
gắn kết nhau cùng xây dựng, bảo vệ và phát triển nhãn hiệu tập thể cho sản
phẩm đặc thù của địa phương, tạo việc làm và tăng thu nhập cho nhiều lao
động, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần vào công cuộc xóa đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế và thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia
về xây dựng nông thôn mới.
2.3. Tình hình nghiên cứu dong riềng trên Thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu dong riềng trên thế giới
Cây dong riềng có tên khoa học là Canna edulis (Indica), thuộc nhóm
cây nông nghiệp có nguồn gốc phát sinh ở Nam Mỹ. Ngày nay dong riềng
được trồng rộng rãi ở các nước nhiệt đới và á nhiệt đới trên thế giới. Nam
Mỹ là trung tâm đa dạng của dong riềng nhưng châu Á, châu Úc và châu Phi
là những nơi trồng và sử dụng dong riềng nhiều nhất (Cecil, 1992; Hermann,
1999). Dong riềng được gọi bằng một số tên khác nhau như Queenland
Arrowroot, Canna Indica (L.), Canna Edulis (Kerr- Gawl) (Cecel, 1992).
Trên thế giới dong riềng được trồng ở quy mô thương mại tại các nước
vùng Nam Mỹ, Châu Phi, và một số nước Nam Thái Bình Dương. Tại Châu
Á, dong riềng được trồng tại Thái Lan, Indonesia, Nam Trung Quốc, Úc, và
Đài Loan. Mặc dù vậy đến nay chưa có số liệu thống kê chính xác về diện
tích loại cây trồng này.
Nghiên cứu về dong riềng ở các nước còn nhiều hạn chế. Theo

(Hermann và CS, 2007) [16], cây dong riềng là loài cây triển vọng cho hệ
thống nông lâm kết hợp vì nó có những đặc điểm quí như chịu bóng râm,
trồng được những nơi khó khăn như thiếu nước, thời tiết lạnh. Củ dong riềng
có nhiều công dụng: Luộc để ăn, làm bột, nấu rượu. Bột dong riềng dễ tiêu
hoá nên có thể làm nguồn thức ăn rất tốt cho trẻ nhỏ và người ốm. Bột dong
riềng có thể dùng làm hạt trân châu, miến, bánh đa, bánh mì, bánh bao, mì
sợi, kẹo và thức ăn chăn nuôi. Đối với miền núi, những nơi kinh tế còn khó
khăn, dong riềng cũng là cây có thể đảm bảo an ninh lương thực. Trong thân
cây dong riềng có sợi màu trắng, có thể được sử dụng để chế biến thành sợi

10
dệt thành các loại bao bì nhỏ. Củ dong riềng có thể dùng làm thức ăn chăn
nuôi, tuy nhiên cả củ, thân, lá đều dùng được vào mục đích này.
Những vùng có truyền thống trồng dong riềng chế biến thành bột thì
bã có thể dùng để nấu rượu, nấu rượu xong có thể dùng bã rượu (hèm)
phục vụ chăn nuôi. Bã thải của chế biến tinh bột cũng có thể ủ làm phân
bón cho cây trồng và làm giá thể trồng nấm ăn. Ngoài ra, hoa dong riềng
có màu sắc sặc sỡ, bộ lá đẹp nên cũng có thể sử dụng dong riềng làm cây
cảnh trong vườn nhà.
Ở Ecuador, dong riềng được trồng trên đất cát pha, ở độ cao 2340 m
trên mực nước biển, trong điều kiện nhiệt độ bình quân 15 - 17
0
C. Trong 6
tháng đầu người ta trồng xen với khoai tây, sau 12 tháng thu hoạch cho năng
suất củ trung bình 56 tấn/ha.
Nghiên cứu đánh giá 26 mẫu giống dong riềng từ ngân hàng gen dong
riềng quốc tế của CIP tại Ecuador, trong nhà lưới ở độ cao 2400 m, biên độ
12- 27
0
C với mật độ 2 cây/m

2
, trên nền đất cát pha, không bón phân,
Hermann và cộng sự đã thu được kết quả rất thú vị. Năng suất củ tươi đạt từ
17-96 tấn/ha, hàm lượng tinh bột trong củ tươi đạt 4 - 22% và đạt 12 - 31%
qui về chất khô, hàm lượng đường hòa tan trong củ tươi là 5 - 11 độ Brix.
Nghiên cứu hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu kinh tế cho thấy có sự
tương quan thuận cao giữa hàm lượng chất khô của củ với hàm lượng đường
hòa tan và hàm lượng tinh bột trong củ tươi r = 0,66, trong khi số chồi tương
quan nghịch với hàm lượng chất khô trong củ r = -0,57.
Nhóm tác giả trong công bố của mình đã kết luận, mặc dù hàm lượng
tinh bột trong củ dong riềng thấp nhưng do năng suất củ rất cao nên vẫn có
năng suất tinh bột đạt 2,8 - 14,3 tấn/ha và chỉ số thu hoạch cao nên dong
riềng là cây tăng thu nhập của nông dân nghèo ở các vùng cao nhiệt đới. Tuy
nhiên cho đến nay, tại các nước có trồng dong riềng thì nó vẫn chưa được
quan tâm nghiên cứu. Ở châu Á, Trung Quốc và Việt Nam là những nước
trồng và sử dụng dong riềng hiệu quả nhất (Hermann và CS, 2007) [16].
Hiện nay trên thế giới chọn tạo giống dong riềng chủ yếu chọn lọc từ
nguồn gen hoang dại, sau đó tiến hành cải tiến nguồn gen để chọn lọc giống

11
mới. Nhưng cũng có một số ít công trình đã nghiên cứu chọn giống dong
riềng bằng chỉ thị phân tử.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu dong riềng ở Việt Nam
Dong riềng Canna edulis Ker là cây thân thảo, họ dong riềng
(Cannaceae). Dựa vào tính chất củ, thân lá và hoa dong riềng, được chia
ra 3 loại: Cây chuối hoa (Canna indica L.), cây dong đao (Canna sp), cây
dong riềng (Canna Edulis ker). Dong riềng có tên nhiều địa phương khác
nhau như khoai chuối, khoai lào, dong tây, củ đao, khoai riềng, củ đót,
chuối nước.
Dong riềng được nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ 19. Năm 1898, người

Pháp đã trồng thử dong riềng ở nước ta nhưng công việc đã bị dừng lại vì
thời đó chưa biết cách chế biến tinh bột dong riềng (Lý Ban, 1963) [1]. Từ
năm 1961 đến 1965 một số nghiên cứu về nông học với cây dong riềng đã
được thực hiện tại Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp (INSA) nhằm mục
đích mở rộng diện tích dong riềng, tuy nhiên vấn đề trồng dong riềng vẫn
không được quan tâm vì thiếu công nghệ chế biến và tiêu thụ thấp. Từ năm
1986 do nhu cầu sản xuất miến từ bột dong riềng ngày càng tăng nên diện
tích loại cây này đã được người dân tự phát mở rộng. Những địa phương
trồng dong riềng với diện tích lớn là Hoà Bình, Ngoại thành Hà Nội, Sơn La,
Lai Châu, Thanh Hoá, Hưng Yên, Bắc Kạn, Thái Nguyên và Đồng Nai.
Theo một số tài liệu, vì trong thân lá dong riềng có một lượng dự trữ
chất dinh dưỡng khá cao (ép 7 cây khoai riềng cho 1,5 lít nước, trong đó
dinh dưỡng chiếm 86%) do đó dong riềng chịu hạn tốt hơn lúa, khoai lang
và sắn. Dong riềng có sức sống rất mạnh, có khả năng thích nghi cao với
điều kiện ngoại cảnh, có sức chống đỡ tốt với sâu bệnh. Cây không có nhu
cầu nhiều về ánh sáng nên có thể sinh trưởng bình thường nơi cớm nắng.
Cây dong riềng có khả năng chống chịu tốt nhiệt độ thấp, có thể trồng ở
những nơi mà khoai lang, sắn không trồng được. Hơn nữa, dong riềng còn là
cây trồng dễ tính, yêu cầu đất không nghiêm khắc nên có thể trồng trên
nhiều loại đất khác nhau như: đồi, sườn núi dốc trên 15
0
, vườn nhà và bãi
cao ven sông vẫn cho năng suất củ cao. Nếu trồng ở nơi đất tốt, một khóm
có thể thu được 15-20 kg. Trồng trên diện tích lớn dong riềng có thể cho

12
năng suất đạt tới 45-60 tấn củ/ha nếu thâm canh. Với những đặc điểm này,
dong riềng đã trở thành một loại mặt hàng có nhiều triển vọng phát triển ở
vùng miền núi nước ta, có thể phát triển cây dong riềng trên một phạm vi
rộng lớn ở nhiều vùng để tăng nguồn vật liệu cho sản xuất ngành hàng miến,

tinh bột và các sản phẩm khác (Nguyễn Ngọc Huệ và Đinh Thế Lộc,
2005)[3].
Dong riềng có nhiều đặc tính sinh học quý như kích thước hạt tinh bột
lớn nhất trong nhóm cây có củ, tới 150 micron (tinh bột sắn là 35 micron).
Điều này giúp cho việc tách chiết tinh bột dong riềng dễ dàng hơn so với
một số cây có củ khác. Hàm lượng amiloza trong tinh bột dong riềng cao đạt
từ 38% - 41%, gần bằng hàm lượng amiloza trong tinh bột đậu đỗ (46% -
54%) (Lê Ngọc Tú và CS, 1994) [9]. Điều này làm cho sợi miến dong riềng
dai và giòn tương tự miến đỗ xanh, trong khi giá thành miến dong chỉ bằng
một nửa so với miến đậu xanh. Đây là lợi thế cạnh tranh của miến dong so
với miến đậu xanh. Dong riềng chế biến thành bột lãi gấp 2-3 lần trồng lúa
trong điều kiện khó khăn.
Dong riềng đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong việc xoá đói,
giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn miền núi.
Trong những năm qua, sản xuất dong riềng và các sản phẩm chế biến đã thu
hút nhiều ngày công lao động của nông dân, thợ thủ công, góp phần tạo việc
làm cho nhiều người lao động, đồng thời đã góp một phần quan trọng trong
việc nâng cao nguồn thu cho người sản xuất.
Dong riềng là cây tăng thu nhập cho nông dân tại một số vùng sinh thái
đặc thù như nơi đất khô hạn (vùng đồi núi của Huế, Sơn Tây), đất dốc, khí
hậu lạnh như Mộc Châu, Sơn la, Hòa Bình Tuy nhiên trong những năm
gần đây do không có sự đầu tư về chọn lọc, phục tráng giống cũng như
các kỹ thuật canh tác phù hợp, các giống dong riềng có tiềm năng và chất
lượng cao đang bị suy giảm. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng làm cho diện tích trồng dong riềng đang có xu hướng giảm
khiến cho nguồn cung cấp nguyên liệu ngày càng bị cạn kiệt trong khi
nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm của nó vẫn không ngừng tăng lên ở Việt
Nam cũng như trên thế giới.

13

Tại Việt Nam trong những năm 60 cây dong riềng đã được một số tác
giả nghiên cứu về đặc điểm thực vật học, giải phẫu lá và một số biện pháp
kỹ thuật trồng (Bùi Công Trừng và Nguyễn Hữu Bình, 1963) [10]; (Tổ
nghiên cứu cây có củ, 1969) [11]. Theo Mai Thạch Hoành (2003) [2], nước
ta thường trồng 3 nhóm giống: Nhóm dong đỏ, nếu thâm canh tốt năng suất
đạt 40 tấn/ha, bột ướt chiếm 27% củ tươi, thời gian sinh trưởng 8,5 – 10
tháng; Nhóm dong xanh năng suất đạt 40-42 tấn/ha nếu thâm canh tốt, bột
ướt chiếm từ 25 – 27% củ tươi, thời gian sinh trưởng 9-12 tháng; Nhóm
Việt-CIP năng suất đạt trên diện tích nhỏ thâm canh có thể tới 60 tấn/ha, bột
ướt chiếm 23% củ tươi, thời gian sinh trưởng 7,5 tháng. Những năm 1993-
1994, Trung tâm Nghiên cứu khoai tây rau, nay là Trung tâm Nghiên cứu và
phát triển cây có củ với sự hợp tác tài trợ của Trung tâm Nghiên cứu và phát
triển quốc tế Canada (IDRC), đã bước đầu thu thập nguồn gen dong riềng tại
nhiều vùng sinh thái trong cả nước, đây là cuộc thu thập có quy mô lớn nhất
và rộng nhất từ trước đến nay. Hiện tại Ngân hàng gen cây trồng quốc gia có
71 mẫu giống dong riềng gồm cả địa phương và nhập nội từ CIP, tuy nhiên
vẫn chưa khai thác hiệu quả tài nguyên này do điều kiện kinh phí hạn hẹp
chỉ đủ cho hoạt động bảo quản lưu giữ và đánh giá ban đầu (Nguyễn Thị
Huệ và CS, 2006) [4].
2.4. Một số nghiên cứu về phân bón cho dong riềng
Phân tích các chất dinh dưỡng trong đất trồng và trong cây, các nhà
khoa học cho biết, để thu được 1 tấn củ tươi, cho 120-130 kg tinh bột khô ở
mật độ 20.000cây/ ha, cây dong riềng cần 0,54 kg N, 0,53 kg P, 3,11 kg K,
2,47 kg Mg và 0,37 kg Ca. Dong riềng là cây sử dụng rất hiệu quả nguồn N và
nước trong đất.
Nitơ(N) là chất dinh dưỡng cần cho sinh trưởng và phát triển của cây
trồng. Mặc dù hàm lượng trong cây không cao, nhưng nitơ lại có vai trò
quan trọng bậc nhất. Thiếu nitơ cây không thể tồn tại. Nitơ là thành phần
quan trọng cấu tạo nên tất cả các axit amin và từ các axit amin tổng hợp nên
tất cả các loại protein trong cơ thể thực vật. Vai trò của protein đối với sự

sống của cơ thể thực vật là không thể thay thế được. Nitơ có mặt trong axit
nucleic, tham gia vào cấu trúc của vòng porphyril, là những chất đóng vai
trò quan trọng trong quang hợp và hô hấp của thực vật. Nói chung, nitơ là

14
dưỡng chất cơ bản nhất tham gia vào thành phần chính của protein, vào quá
trình hình thành các chất quan trọng như amino axit, men, nhiều loại
vitamin trong cây như B1, B2, B6…Nitơ thúc đẩy cây tăng trưởng, đâm
nhiều chồi, lá to và xanh, quang hợp mạnh. Nếu thiếu đạm, cây sinh
trưởng chậm, còi cọc, lá ít và có kích thước nhỏ và hơi vàng. Nhưng nếu
bón thừa đạm cũng gây tác hại cho cây. Biểu hiện của triệu chứng thừa
đạm là cây sinh trưởng quá mức, cây dễ đổ ngã, nhiều sâu bệnh, lá có màu
xanh đậm vì diệp lục được tổng hợp nhiều (Trịnh Xuân Vũ, 1975 [12];
Viện thổ nhưỡng nông hóa, 1998 [13]; Ekta Khurana and J.S. Singh,
2000[15]; Thomas D. Landis, 1985[17]).
Lân (P) là yếu tố quan trọng trong quá trình trao đổi năng lượng. Lân
có tác dụng làm tăng tính chịu lạnh cho cây trồng, thúc đẩy sự phát triển của
hệ rễ. Lân cần thiết cho sự phân chia tế bào, mô phân sinh, kích thích sự
phát triển của rễ, ra hoa, sự phát triển của hạt và quả. Cây được cung cấp đầy
đủ lân sẽ tăng khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi như lạnh, nóng, đất
chua và kiềm. Nếu thiếu lân, kích thước cây nhỏ hơn bình thường, lá cây
phồng cứng, lá màu xanh đậm, sau chuyển dần sang vàng; thân cây mềm,
thấp; năng xuất chất khô giảm. Ngoài ra, thiếu lân sẽ hạn chế hiệu quả sử
dụng đạm. Một vài loại lá kim khi thiếu lân lá sẽ đổi màu xanh thẫm, tím,
tím nâu hay đỏ. Ở những loài cây lá rộng, thiếu lân sẽ dẫn đến lá có màu
xanh đậm, xen kẽ với các vết nâu, cây tăng trưởng chậm. Khi thừa lân không
thấy tác hại nghiêm trọng như thừa nitơ (Trịnh Xuân Vũ, 1975 [12]; Viện
thổ nhưỡng nông hóa, 1998 [13]; Ekta Khurana and J.S. Singh, 2000[15];
Thomas D. Landis, 1985[17]).
Kali (K) đóng vai trò chủ yếu trong việc chuyển hóa năng lượng, quá

trình đồng hóa của cây, điều khiển quá trình sử dụng nước, thúc đẩy quá
trình sử dụng đạm ở dạng NH4+, giúp cây tăng sức đề kháng, cứng chắc, ít
đổ ngã, chống sâu bệnh, chịu hạn và rét . Do vậy, nếu thiếu kali, thì cây có
biểu hiện về hình thái rất rõ như lá hơi ngắn, phiến lá hẹp và có màu lục tối,
sau chuyển sang vàng, xuất hiện những chấm đỏ, lá bị khô (cháy) rồi rủ
xuống (Trịnh Xuân Vũ, 1975 [12],Viện thổ nhưỡng nông hóa, 1998 [13]).
Về kỹ thuật trồng dong riềng đạt năng suất cao, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Kạn khuyến cáo: Thời vụ trồng dong riềng từ
tháng 1 đến tháng 3 dương lịch, tốt nhất là tháng 2. Mật độ từ 1,6 – 2,5 vạn
cây, hàng cách hàng 0,8 – 1 m, cây cách cây 0,5 – 0,6 m. Phân bón: 15 – 25

15
tấn phân hữu cơ + 200 – 400 kg đạm + 500 – 650 kg lân + 200 kg kali. Phân
hữu cơ và lân bón 1 lần trước khi trồng, phân đạm bón 3 lần (trước trồng,
sau trồng 1 và 4 – 5 tháng), kali bón 2 lần (sau trồng 1 và 4 – 5 tháng). Làm
cỏ và vun gốc 3 lần (sau mọc 1, 2 và 4 – 5 tháng). Thu hoạch sau trồng 10-
11 tháng, nếu thu sớm củ non giảm năng suất và hàm lượng tinh bột, nếu thu
muộn cây có thể ra mầm mới làm giảm hàm lượng tinh bột.
Theo Nguyễn Thiếu Hùng (2012) [5], dong riềng có thể trồng quanh
năm trừ những tháng quá nóng hoặc quá rét, nhưng thích hợp nhất là từ
tháng 2 đến tháng 5. Dong riềng có thể trồng trên rất nhiều loại đất, từ đất
bạc màu, đất đồi núi, đất mặn… nhưng tốt nhất là đất xốp, nhiều mùn. Nếu
trồng dong riềng trên đất đồi núi, đất đá, bãi thoát nước thì không cần phải
làm đất mà sau khi dọn cỏ, bổ hốc đường kính khoảng 20 cm, sâu khoảng 20
đến 25cm sau đó mới trồng. Trồng trên đất ruộng, vườn, bãi đọng nước thì
cần lên luống rộng 1,4 đến 2 m; cao 15 cm- 20 cm và rãnh rạch ngang luống
sâu khoảng 15 cm. Mật độ trồng từ 4 đến 5 vạn cây/ha, khoảng cách khóm
cách khóm là 45 đến 50 cm, hàng cách hàng: 50 cm, nếu trồng xen với ngô
và đậu tương thì giảm mật độ trồng. Lượng phân bón: 10 đến 15 tấn phân
hữu cơ + 200 kg N + 100 kg P

2
0
5
+ 200 kg K
2
O chia làm 3 lần. Bón lót
100% phân hữu cơ + 100% P
2
0
5
+ 1/3 N; sau trồng 1 tháng bón thúc lần 1:
1/3 N + 1/2 K
2
O kết hợp với xới đất và vun nhẹ vào gốc; sau trồng 4 tháng
bón lượng phân còn lại kết hợp với vun cao gốc. Thu hoạch để ăn tươi sau
khi trồng 6 đến 8 tháng, còn thu hoạch để chế biến tinh bột phải sau trồng 10
đến 12 tháng.
Như vậy trên thế giới và ở Việt nam có rất ít các công trình nghiên cứu
về cây dong riềng, hiện nay chưa có nghiên cứu được tiến hành ở Thái
Nguyên. Vì vậy việc nghiên cứu để xác định biện pháp kỹ thuật phù hợp đặc
biệt là xác định chế độ bón phân hợp lý là hết sức cần thiết góp phần nâng
cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong sản xuất dong riềng ở
Thái Nguyên nói riêng và ở vùng miền núi phía Bắc nói chung.



16
Phần III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Một số tổ hợp NPK
- Giống dong riềng DR1 được Cục Trồng trọt - Bộ NN&PTNT cho
phép sản xuất thử tại các tỉnh phía Bắc theo Quyết định số 608/QĐ-TT-CLT
ngày 14/12/2010. Giống DR1 có thời gian sinh trưởng ngắn: 250-280 ngày,
sinh trưởng phát triển mạnh, chiều cao cây trung bình: 165-185 cm, ít đổ. Củ
nạc, đồng đều, ruột trắng được nông dân ưa chuộng. Năng suất củ tươi đạt:
45 - 60 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 13,36- 16,4%, có khả năng chịu hạn tốt,
chịu rét khá và chống chịu bệnh khô lá. Khả năng thích ứng rộng, có thể
trồng được ở nhiều loại đất, kể các các vùng đất nghèo dinh dưỡng
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2
đến tháng 12 năm 2013.
- Địa điểm: Thí nghiệm được bố trí tại khu cây trồng cạn, Viện KHSS,
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các tổ hợp NPK đến khả năng sinh
trưởng và năng suất của dong riềng.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các tổ hợp NPK đến tình hình sâu bệnh
hại và khả năng chống đổ của dong riềng.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, 3 lần nhắc
lại, diện tích ô thí nghiệm: 20 m
2
, diện tích toàn thí nghiệm: 300 m
2
không
kể rãnh và dải bảo vệ.
Công thức thí nghiệm:
CT1- 150N : 60P

2
O
5
: 150K
2
O

17
CT2- 175N : 80P
2
O
5
: 175K
2
O
CT3- 200N : 100P
2
O
5
: 200K
2
O (đối chứng)
CT4- 225N : 120P
2
O
5
: 225K
2
O
CT5- 250N : 140P

2
O
5
: 250K
2
O
(Lượng phân vi sinh bón lót: 3 tấn/ha)
Sơ đồ thí nghiệm

3 2 4
4 1 2
1 5 3
2 4 5
5 3 1
I II III
- Ngày trồng 21/2/2013.
3.5. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
Các chỉ tiêu theo dõi theo phương pháp nghiên cứu của Viện Tài
nguyên Di truyền Thực vật Quốc tế, Trung tâm Khoai tây Quốc tế (CIP) và
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây có củ (kèm theo quy định chung đã
được Trung tâm NC&PT Cây có củ biên soạn).
- Tỷ lệ mọc: tính bằng % số cây mọc trên tổng số cây trồng.
- Thời gian mọc: tính từ khi trồng đến khi có ít nhất 50% khóm mọc
mầm, đơn vị tính là ngày.
* Các chỉ tiêu về sinh trưởng của cây dong riềng: Theo dõi 10 cây
liên tục/hàng giữa ô; Thời gian theo dõi: 10 ngày theo dõi 1 lần, bắt đầu từ
ngày thứ 10 sau mọc.
- Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây: đo từ sát mặt đất đến mút lá dài nhất
- Tốc độ ra lá: đếm các lá/thân chính bằng phương pháp đánh dấu (lá
3, 5, 7).

- Tốc độ tăng trưởng đường kính: dùng thước Panme đo cách gốc của
thân chính 10 cm.

×