Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Đề tài nông thôn trong sáng tác của Kim Lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.36 KB, 129 trang )


1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm hà nội 2






Hoàng thị thanh hải







Đề tài Nông thôn trong sáng tác của kim lân






Luận văn thạc sĩ
văn học










Hà nội, 2011

2

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm hà nội 2






Hoàng thị thanh hải





đề tài Nông thôn trong sáng tác của kim lân

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 32




luận văn thạc sĩ văn học




Ngời hớng dẫn khoa học: TS. Lê Trà My







Hà nội, 2011


3
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS Lê Tr My,
ngời đã tận tình hớng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực
hiện đề tài khoa học này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Tổ Lí luận văn học,
Khoa Ngữ văn, cán bộ Phòng Sau đại học, trờng Đại học S phạm Hà Nội 2
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại
trờng.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn



Hong Th Thanh Hi












4
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của bản thân, không
sao chép của ngời khác. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài
liệu, thông tin đợc xuất bản trong các sách, báo, tạp chí và trên các trang
website theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Tác giả luận văn


Hoàng Thị Thanh Hải




















5
Mục lục
trang

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu
1
Nội dung
8

Chơng 1.
Khái quát về đề tài - đề tài nông thôn trong
Văn học Việt Nam
8

1.1. Khái quát về đề tài 8
1.1.1. Khái niệm đề tài 8
1.1.2. Đặc điểm chung của đề tài 9
1.2. Đề tài nông thôn trong lịch sử văn học Việt Nam 13
1.2.1. Trong văn học Trung đại 13
1.2.2. Trong văn học hiện đại 23
1.3. Kim Lân và đề tài nông thôn 41
Chơng 2.
Bức tranh thế giới về nông thôn - một thực
tại h cấu
46

2.1. Nông thôn - khung cảnh tự sự 47
2.2. Nông thôn nhìn từ cảm hứng sử thi 51
2.2.1. Các xung đột cơ bản 52
2.2.2. Các loại nhân vật 56
2.3. Nông thôn nhìn từ cảm hứng thế sự đời t 62
2.3.1. Các xung đột cơ bản 62
2.3.2. Các loại nhân vật 67

6
Chơng 3.
Một số biện pháp nghệ thuật biểu hiện đề
tài nông thôn trong sáng tác của Kim Lân
78
3.1. Tình huống truyện 78
3.1.1. Tình huống nghiêng về nhận thức 79
3.1.2. Tình huống nghiêng về hành động 81
3.2. Xây dựng biểu tợng 86
3.2.1. Biểu tợng làng 87

3.2.2. Biểu tợng chợ 91
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật 93
3.3.1. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên 94
3.3.2. Từ ngữ gợi cảm, giàu hình ảnh 98
3.4. Giọng điệu 100
3.4.1. Giọng điệu dí dỏm, hóm hỉnh 101
3.4.2. Giọng điệu trầm buồn, thủ thỉ gần với giọng cổ tích hay
truyền thuyết 104
3.4.3. Giọng điệu thân mật, suồng sã 108
3.4.4. Giọng điệu mỉa mai, hài hớc, phê phán nhẹ nhàng 109
3.4.5. Giọng điệu đôn hậu, cảm thơng 111
Kết luận
116
Danh mục các công trình của tác giả
118
Tài liệu tham khảo
119



Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

7
Đề tài là một vấn đề lí luận quan hệ mật thiết tới việc nghiên cứu và
sáng tác văn học. Đề tài phản ánh tài năng, sở trờng phong cách và thế giới
quan của nhà văn trong việc phản ánh hiện thực. Nghiên cứu đề tài chính là đề
cập phơng diện khách quan của thế giới nghệ thuật, đồng thời qua đó có thể
nhận ra tính chủ quan trong sự lựa chọn, tổ chức chất liệu nghệ thuật, cái nhìn

nghệ thuật của ngời cầm bút.
Văn học Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ XX đến nay đã có những bớc
đi mới và có đợc nhiều thành tựu so với thời kỳ văn học trớc đó. Điều trớc
tiên phải kể đến là sự phát triển đề tài đã đem đến cho văn học Việt Nam một
diện mạo mới. Các nhà văn đi sâu khám phá nhiều mảng hiện thực khác nhau.
Đặc biệt đề tài nông thôn là mảng đề tài thu hút đợc nhiều cây bút lớn nh:
Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân Đây
không phải là đề tài mới xuất hiện trong văn học Việt Nam hiện đại. Đề tài
nông thôn là mảng đề tài phổ biến trong văn học Việt Nam từ xa đến nay.
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy, đề tài nông thôn trong văn học hiện đại Việt
Nam đã có những bớc phát triển mới. Nghiên cứu những tác giả hiện đại có
sở trờng về đề tài này có thể thấy đợc xu hớng vận động của đề tài nông
thôn trong văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Đã từ lâu chúng ta biết nhà văn Kim Lân là một trong những tác giả
viết truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhà văn
Nguyễn Khải đã coi những sáng tác của Kim Lân là do: Thần viết, thần
mợn tay để viết những trang sách bất hủ [27]. Tuy đợc đánh giá là một nhà
văn có tài và tâm huyết với nghề viết, nhng Kim Lân chỉ để lại một khối
lợng tác phẩm không nhiều, bao gồm hơn hai mơi truyện ngắn, đề tài chủ
yếu mà ông lựa chọn là đề tài nông thôn. Ông am hiểu và gắn bó với nông
thôn và ngời nông dân, bởi ông đợc sinh ra và lớn lên trong môi trờng văn
hoá của nông thôn, có vốn hiểu biết khá dày dặn về những phong tục tập quán,
những tinh hoa văn hoá của dân gian trong cuộc sống của vùng Kinh Bắc quê

8
hơng ông. Đó là điều kiện thuận lợi, là cơ sở tốt để Kim Lân có thể viết đợc
những trang đặc sắc về nông thôn Việt Nam. Một số tác phẩm có giá trị về nội
dung và nghệ thuật của Kim Lân đã đợc tuyển chọn vào chơng trình văn
học ở nhà trờng phổ thông, nh truyện ngắn Làng đợc đa vào chơng trình
Trung học cơ sở và Vợ nhặt ở chơng trình Trung học phổ thông.

Nghiên cứu sáng tác viết về đề tài nông thôn của Kim Lân, chúng tôi
muốn đi sâu phân tích, đánh giá để tìm ra những đóng góp của Kim Lân về đề
tài nông thôn vốn rất quen thuộc trong lịch sử văn học Việt Nam. Qua đó góp
phần vào việc khẳng định những giá trị của các tác phẩm, khẳng định tài năng
của Kim Lân. Bên cạnh đó quá trình nghiên cứu sẽ giúp ngời viết hiểu thêm
sáng tác của các nhà văn cùng thời, đồng thời giúp cho việc giảng dạy văn học
trong nhà trờng đợc tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề đề tài trong tác phẩm văn học đã đợc nhiều công trình nghiên
cứu lí luận văn học đề cập tới trong mấy thập kỷ qua. Nhìn chung, các công
trình nghiên cứu trên đều cho rằng: Đề tài là phạm vi phản ánh hiện thực của
nhà văn, là phơng diện khách quan của nội dung tác phẩm đợc xác định
theo mối liên hệ bên ngoài hay mối quan hệ bên trong giữa các hiện tợng đời
sống, đợc nhà văn miêu tả, phản ánh trực tiếp trong tác phẩm. Tuy nhiên, vấn
đề đề tài trong sáng tác của nhà văn có sự lựa chọn khác nhau và có những đặc
điểm khác nhau. Vấn đề đề tài trong sáng tác của Kim Lân là một vấn đề lớn
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của ông.
Nghiên cứu về đề tài nông thôn trong truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi
không bắt đầu công việc trên mảnh đất trống. Bởi từ khi nhà văn xuất hiện
trên văn đàn vào đầu những năm 40 của thế kỷ XX, đã thu hút đợc sự quan
tâm của đông đảo độc giả và các nhà nghiên cứu, phê bình.
Trớc cách mạng tháng Tám có Lữ Quốc Văn, Vũ Bằng, Nguyên
Hồng Chúng tôi cha tìm văn bản chính xác của Lữ Quốc Văn viết về Kim

9
Lân, nhng trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân 1996 Lữ Quốc Văn đã
khẳng định: Ngời đã thành công trong một loạt truyện ngắn về thú chơi đặc
biệt nổi tiếng với các truyện viết về phong tục làng quê là Kim Lân [46, tr.18].
Nhà văn Vũ Bằng chính là ngời có công phát hiện, động viên, và
khuyên Kim Lân nên viết về mảng sinh hoạt phong tục. Vũ Bằng khuyên:

Ông viết truyện nghèo khổ cũng đợc, nhng không bằng những ông Nguyên
Hồng, Nguyễn Công Hoan, các ông ấy đã thành rồi. Ông viết những truyện
nh Đôi chim thành, Đấu vật, Chó săn thì không ai tranh đợc chiếc chiếu
của ông.
Trong Những nhân vật ấy đã sống với tôi, nhà văn Nguyên Hồng cũng
đánh giá cao truyện ngắn của Kim Lân. Ông viết: Từ giữa năm 1943 - 1944
ấy, tôi đợc đọc mấy truyện của Kim Lân thoạt tiên tôi chẳng những không
để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chơng chớng thế nào ấy, hình nh định
chọi, định đá chữ nhau với một số tên nh Mộng Ngọc, Mộng Dơng hay
Hoài Trạch, Hoài Tâm lúc bấy giờ.
Nhng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại
ớt át một cách bợm bãi mà trái lại có một cái gì chân chất của đời sống và
con ngời nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm, thắm thiết, đặc biệt
lại gần gũi với mình thì tôi liền tự trách mình và giữ lấy số báo đó.
Sau cách mạng tháng Tám có nhiều bài viết xuất sắc về sáng tác của
Kim Lân. Nh nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: Văn Kim Lân
tỏ ra độc đáo và hấp dẫn hơn khi ông viết về cái gọi là Thú đồng quê hay
Phong lu đồng ruộng. Đó là những phong tục ăn chơi hay đúng hơn, những
sinh hoạt văn hoá của dân quê, nh trồng cây cảnh, đánh vật, chơi chim bồ
câu, nuôi chó săn, gà chọi. Đuổi tà, Đôi chim thành, Con Mã Mái sở dĩ có
sức hấp dẫn, không phải vì ở đấy những tập quán ngộ nghĩnh kỳ lạ, những thú
chơi phiền phức, cầu kỳ đợc trình bày cặn kẽ, mà chính nhà văn đã làm hiện

10
lên đợc những con ngời của làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ,
thiếu thốn mà vẫn yêu đời [43, tr.61].
Trong bài viết Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân
khẳng định: Truyện ngắn là thể loại chính của Kim Lân, mặc dù số lợng
trang viết không nhiều, ông cũng đã góp vào nền văn xuôi của nớc ta những
truyện ngắn xuất sắc đáng đợc coi là mẫu mực [3, tr.56].

Lữ Huy Nguyên đã tuyển chọn và cho ra đời Tuyển tập Kim Lân năm
1996, là một công trình tập hợp khá đầy đủ những sáng tác của nhà văn. Từ đó
đến nay ngày càng có nhiều bài viết về Kim Lân với nội dung và hình thức đa
dạng.
Nhà giáo Đỗ Kim Hồi khi viết về Vợ nhặt trong Giảng văn Văn học Việt
Nam, đã đề cập nhiều hơn về Kim Lân. Ngoài việc khẳng định Kim Lân ngày
càng đợc khâm phục và Kim Lân có hai trong bốn tác phẩm đợc coi là
thần bút, còn nhấn mạnh Phần tâm huyết sâu xa nhất của tác giả Vợ nhặt,
chắc hẳn đã không đợc dồn cho việc làm biểu hiện những nét thấp kém của
con ngời bộc lộ qua nhân hình và nhân cách. Ngợc lại với việc đặt nhân vật
vào một khoảng sáng và tối, lay lắt, nhà văn đã tìm đợc một cơ hội vô song
để biểu hiện sự bất diệt của nỗi khát thèm đợc sống, đợc yêu thơng và hi
vọng niềm ao ớc ấy cứ âm thầm vơn lên từ đói khát, tối tăm và chính bởi
thế mà nó trở nên đáng cảm động và đáng quí, và cũng còn có thể nói
nhiều điều nữa về Vợ nhặt. Nh về cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có đặc sắc của
Kim Lân, cái lối viết văn tởng nh dễ dàng mà không dễ phỏng theo, giản dị
vô cùng mà sao cứ thấy ánh lên chất hào hoa Kinh Bắc.
Ngoài ra còn nhiều bài viết, bài nghiên cứu, tìm hiểu về nhà văn nh
Phan Hoàng với bài Hỏi chuyện nhà văn Kim Lân: Văn chơng nh một thứ
tôn giáo, Lữ Huy Nguyên: Kim Lân với những thú chơi ngày xuân Kinh Bắc,
Trung Trung Đỉnh có Bố già Kim Lân, Hoài Việt với Đôi điều về Kim Lân,
Hơng Giang có bài viết Nhà văn Kim Lân nói về truyện Vợ nhặt Các bài

11
viết đợc in trên các báo Ngời Hà Nội, Nhân dân chủ nhật, Văn nghệ, Thế
giới mới, Báo Giáo dục và thời đại, Hải quan, Văn học và tuổi trẻ đều thể
hiện thái độ trân trọng, cảm phục tài năng của nhà văn Kim Lân, qua đó khẳng
định những giá trị văn học trong sáng tác của ông. Nhng các bài viết này vẫn
chỉ tìm hiểu, nhận xét về sáng tác Kim Lân ở một phơng diện nhất định nào
đó, nên cha mang tính tổng hợp, khái quát cao.

Đối với các luận văn thạc sĩ, nhà văn Kim Lân đợc tìm hiểu nghiên
cứu một cách quy mô, công phu, có hệ thống trên nhiều phơng diện nh:
Giọng điệu, ngôn ngữ, cốt truyện, kết cấu, nhân vật tiêu biểu là các công trình:
Những giá trị tiêu biểu về t tởng và nghệ thuật của truyện ngắn Kim Lân -
của Nguyễn Văn Bao (Đại học S phạm Hà Nội, 1997), Nguyễn Tiến Đức với
luận văn Những đặc sắc của truyện ngắn Kim Lân (Đại học S phạm Hà Nội,
2002), luận văn Phong cách nghệ thuật Kim Lân của Nguyễn Thị Thu (Đại
học S phạm Hà Nội, 2004), Phạm Thị Nga với Văn hoá Kinh Bắc và phong
cách nghệ thuật Kim Lân (Đại học S phạm Hà Nội, 2005).
Tuy có khá nhiều công trình, bài viết đánh giá về sáng tác của Kim Lân
nhng hầu hết mới chỉ dừng lại ở một số phơng diện hoặc một khía cạnh nào
đó mà cha có công trình nghiên cứu nào về sáng tác của ông dới góc độ đề
tài. Chính vì vậy, trên cơ sở học tập và tiếp thu kết quả nghiên cứu của các tác
giả đi trớc tôi chọn và nghiên cứu: Đề tài nông thôn trong sáng tác của
Kim Lân.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Đề tài nông thôn trong sáng tác của Kim Lân chúng tôi
mong muốn đạt đến hai mục đích.
- Tiếp cận, lý giải, sáng tác Kim Lân từ góc nhìn đề tài.
- Nêu bật những thành tựu sáng tác của Kim Lân và những đóng góp
của nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

12
Nhiệm vụ trọng tâm nghiên cứu nội dung và hình thức các sáng tác viết
về nông thôn của Kim Lân.
Vận dụng lý thuyết đề tài để khám phá bức tranh hiện thực về thiên
nhiên, thế giới nhân vật và các biện pháp nghệ thuật của nhà văn.
Nghiên cứu làm rõ mảng đề tài viết về nông thôn cách nhìn của Kim
Lân trong các thời kỳ lịch sử khác nhau.

5. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tợng nghiên cứu
Đề tài nông thôn trong sáng tác của Kim Lân.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu những sáng
tác của Kim Lân: Làng (1955), Tập truyện ngắn Nên vợ nên chồng (1955),
Ông lão hàng xóm (1957), Tập truyện ngắn Vợ nhặt (1983), Tuyển tập Kim
Lân (1996) và Kim Lân tác phẩm chọn lọc.
6. Phơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp tập hợp và hệ thống: Để có một cái nhìn tổng quát tiến
hành tập hợp những sáng tác trực tiếp hoặc gián tiếp viết về nông thôn của nhà
văn.
- Phơng pháp phân tích và khái quát: Phân tích lần lợt từ bức tranh
hiện thực đến thế giới nhân vật ở cả bình diện nội dung và nghệ thuật từ đó có
cái nhìn toàn diện về các phơng diện nội dung và nghệ thuật về đề tài nông
thôn trong sáng tác của Kim Lân.
- Phơng pháp so sánh và tổng hợp: Nghiên cứu sáng tác viết về đề tài
nông thôn của Kim Lân, có đối sánh với tác phẩm viết về đề tài nông thôn của
các tác giả cùng thời. Đồng thời có những nhận định chung nhất về thành
công và hạn chế của Kim Lân khi viết về đề tài này.

7. Đóng góp mới của luận văn

13
Đây là công trình nghiên cứu tơng đối hệ thống những thành tựu trong
sáng tác viết về đề tài nông thôn của Kim Lân. Với công trình này mong
muốn góp phần làm sáng tỏ thêm vai trò của đề tài trong tác phẩm văn học và
những đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
Đồng thời chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần
vào việc giảng dạy tốt hơn những tác phẩm của Kim Lân trong trờng phổ

thông hiện nay.
8. Cấu trúc nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đợc triển
khai thành 3 chơng.
Chơng 1. Khái quát về đề tài - đề tài nông thôn trong văn học Việt
Nam
Chơng 2. Bức tranh thế giới về nông thôn - một thực tại h cấu
Chơng 3. Một số biện pháp nghệ thuật biểu hiện đề tài nông thôn trong
sáng tác của Kim Lân















Nội dung


14

Chơng 1. Khái quát về đề tài - đề tài nông thôn trong

văn học Việt Nam
1.1. Khái quát về đề tài
1.1.1. Khái niệm đề tài
Đề tài là thuật ngữ gắn liền với nội dung tác phẩm, là vấn đề có ý nghĩa
nền móng để làm nên tác phẩm văn học. Khái niệm về đề tài đợc đề cập đến
trong nhiều cuốn Lí luận văn học. Trong cuốn Lí luận văn học do tác giả
Phơng Lựu chủ biên đã đa ra khái niệm: Đề tài là khái niệm chủ yếu thể
hiện phơng diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học ( ) tác phẩm
văn học bao giờ cũng xuyên qua một phạm vi miêu tả trực tiếp để khái quát
lên một phạm vi hiện thực đời sống nhất định có ý nghĩa sâu rộng hơn
[41, tr.259].
Trong cuốn Lí luận văn học do tác giả Trần Đình Sử chủ biên cũng
cùng quan niệm trên, cho rằng: Thực chất đề tài là một khái niệm về loại của
hiện tợng đời sống đợc miêu tả. Có bao nhiêu loại hiện tợng đời sống, có
bấy nhiêu đề tài [59, tr.194].
Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: Đề tài là khái niệm chỉ loại các
hiện tợng đời sống đợc miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học.
Đề tài là phơng diện khách quan của nội dung tác phẩm [26, tr.110].
Trong cuốn từ điển tác giả cho rằng Cần phân biệt đề tài với t cách là
phơng diện khách quan của nội dung tác phẩm với đối tợng của nhận thức,
chất liệu đời sống hay nguyên mẫu thực tế của sáng tác văn học. Lẫn lộn hai
mặt này sẽ dẫn tới tình trạng biến việc phân tích tác phẩm thành phân tích đối
tợng đợc miêu tả. Đối tợng nhận thức, miêu tả của sáng tác văn học là cái
còn nằm ngoài tác phẩm, đối diện với tác phẩm. Đề tài của tác phẩm là một
phơng diện trong nội dung của nó, là đối tợng đã đợc nhận thức, lựa chọn

15
gắn liền với dụng ý, thế giới quan, lập trờng t tởng, quan điểm thẩm mĩ
của nhà văn [26, tr.111-112].
Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX phát triển với tốc độ nhanh

chóng và đã đạt đợc những thành tựu rực rỡ, bởi sự đóng góp quan trọng của
các nhà văn trong quá trình khám phá đề tài. Có thể kể đến các tác giả: Nam
Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Kim Lân
Có thể nói, phạm vi hiện thực mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm của
mình là những yếu tố mở đờng cho thành công sáng tạo. Không lựa chọn
đợc phạm vi hiện thực, nhà văn không thể thực hiện thành công quá trình
sáng tạo.
Vậy nên, đề tài là phạm vi hiện thực đợc nhà văn phản ánh trong tác
phẩm, là phơng diện khách quan của nội dung tác phẩm thể hiện thế giới
quan của nhà văn, là đối tợng đã đợc nhận thức, kết quả lựa chọn và t duy
của nhà văn. Đó là sự khái quát phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống đợc
phản ánh trong tác phẩm, phản ánh tài năng, vốn sống, tâm huyết của họ đối
với văn học.
1.1.2. Đặc điểm chung của đề tài
Đề tài làm cho hiện tợng đời sống trong tác phẩm không còn giữ
nguyên hiện trạng ban đầu nh hiện thực khách quan đang tồn tại nữa, mà trở
thành tợng trng, kí hiệu, trở thành hình tợng là cuộc sống hiện hình trong
nghệ thuật.
Khi đọc tác phẩm văn học chúng ta thấy những cảnh, ngời, những câu
chuyện cụ thể, sinh động đợc miêu tả trực tiếp trong các tác phẩm. Tính chất
của phạm vi miêu tả trực tiếp trong các tác phẩm có thể hết sức đa dạng nh:
chuyện con thú, cây cỏ, con ngời, đồ vật, hay chuyện quá khứ và tơng lai,
chuyện thần tiên, ma quái. Mục đích của văn học không bao giờ chỉ là giới
thiệu những hiện tợng cụ thể cá biệt của đời sống hay của tởng tợng mà
gợi ra những giá trị thẩm mĩ, t tởng của con ngời bằng hình tợng. Từ

16
những truyện thần thoại xa xa nh thần thoại ấn Độ, Hy Lạp, hay truyền
thuyết về Hùng Vơng, về họ Hồng Bàng đến những truyện cổ tích, những tác
phẩm truyền kì, những tiểu thuyết trong thời trung đại, đến các tác phẩm cận

đại, hiện đại, tác phẩm văn học bao giờ cũng xuyên qua một phạm vi miêu tả
trực tiếp các hiện tợng đời sống trong tác phẩm để khái quát lên một phạm vi
hiện thực nhất định, có ý nghĩa khái quát sâu rộng hơn. Trong phong trào
Thơ mới, đóng góp nổi bật của các nhà thơ là những trang viết về làng quê của
các tác giả tiêu biểu nh: Anh Thơ, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ. Ngời đọc
gặp trong thơ họ thế giới nhân vật phong phú, đa dạng, đó là những ngời dân
quê giản dị, hồn nhiên, những ngời làng xóm, những ngời chị, ngời mẹ, cô
hái mơ, ngời lái đò bên cạnh việc vẽ lên những bức tranh về cuộc sống con
ngời nơi làng quê.
Từ hiện thực cuộc sống của nông dân trong cảnh thuế thúc trống dồn,
Ngô Tất Tố đã khái quát lên trong Tắt đèn hình ảnh làng Đông Xá với gia
đình chị Dậu, tiêu biểu cho cuộc sống cực khổ của ngời nông dân trớc cách
mạng. Ngoài ra chúng ta biết đến thành thị qua những trang viết của Vũ Trọng
Phụng, Nguyên Hồng, Thạch Lam, Nhất Linh , những chuyện nông thôn qua
Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, từ thực tế văn học: cha nhận ra đề tài
thì cha bớc vào tiếp nhận hình tợng [41, tr.259]. Từ hiện tợng nghệ thuật
sinh động nhận ra loại con ngời và các hình thái cuộc sống đợc phản ánh
trong tác phẩm không phải là đơn giản, song có nhận ra đợc nó ta mới có thể
tiếp nhận đợc hình tợng.
Phạm vi của đề tài đợc xác định rộng hay hẹp ở biên độ của nó. Đó có
thể là một giới hạn bề ngoài hoặc phơng diện bên trong của đề tài. Các
hiện tợng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại theo mối liên hệ bề
ngoài hoặc mối quan hệ bên trong giữa chúng. Giới hạn bề ngoài của phạm vi
hiện thực đợc phản ánh trong tác phẩm có thể xác định các đề tài văn học

17
nh: Đề tài kháng chiến chống Mĩ (Dấu chân ngời lính của Nguyễn Minh
Châu), đề tài bộ đội Trờng Sơn (Trờng Sơn đông, Trờng Sơn tây của Phạm
Tiến Duật), đề tài sản xuất (Cái sân gạch của Đào Vũ), đề tài cải cách ruộng

đất (Mời năm của Tô Hoài), đề tài thiên nhiên (Tràng giang của Huy Cận),
hay đề tài loài vật (Dế Mèn phiêu lu ký của Tô Hoài). ở đây, các phạm trù xã
hội, lịch sử giữ vai trò quan trọng, bởi vậy ngời ta có thể xác định các đề tài
nh: đề tài thành thị, đề tài công nhân, nông dân, đề tài nông thôn, bộ đội, tiểu
t sản trí thức, lịch sử, cuộc sống hiện đại có thể kể tới đề tài nông thôn trong
thơ Nguyễn Khuyến, trong sáng tác của Kim Lân, đề tài nông dân trong sáng
tác của Nam Cao.
Đề tài văn học cũng có thể xác định theo giới hạn bên trong của phạm
vi hiện thực đợc phản ánh trong tác phẩm. Đó là cuộc sống nào, con ngời
nào đợc miêu tả trong tác phẩm. Đôi khi đề tài gắn liền với một hiện tợng
xã hội - lịch sử xuất hiện và trở thành phổ biến trong đời sống tinh thần của
một thời hay một giới nào đó. Ví dụ: đề tài ngời tài hoa (Chữ ngời tử tù -
Nguyễn Tuân), đề tài số phận ngời chinh phụ (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần
Côn, Đoàn Thị Điểm), ngời cung nữ (Cung oán ngâm - Nguyễn Gia Thiều),
đề tài những con ngời trung nghĩa Giới hạn bên trong của đề tài, bản chất
xã hội của cuộc sống, tính cách và số phận con ngời giữ vai trò quan trọng.
Không có các phạm vi hiện thực dài rộng khác nhau đó, không thể có những
kết quả sáng tác phong phú và đa dạng trong các tác phẩm của các nhà văn.
Song phạm vi hiện thực còn quan hệ mật thiết với thời gian và không gian
trong tác phẩm. Đi sâu vào phạm vi hiện thực trong tác phẩm của Kim Lân, ta
thấy nhà văn thờng có sự phối hợp linh hoạt cả giới hạn bên trong và bên
ngoài của đề tài để sáng tạo nên thế giới nghệ thuật. Một tác phẩm văn học, có
thể có nhiều đề tài, một hệ thống đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau tạo
thành đề tài của tác phẩm. Con đờng nhận thức đề tài tác phẩm là đi từ nội
dung trực tiếp của tác phẩm, xác định những đờng nét xã hội lịch sử của nó.

18
Do nhân vật có thể tiêu biểu cho một hiện tợng đời sống, một tầng lớp xã
hội, một loại tính cách xã hội, hoạt động trong một lĩnh vực đời sống cụ thể
nên nhân vật có thể gắn liền với một đề tài tác phẩm. Chẳng hạn trong tác

phẩm Chí Phèo của Nam Cao, Chí Phèo là một nông dân lơng thiện, hiền
lành bị đẩy vào con đờng lu manh hóa, bị cự tuyệt quyền làm ngời cuối
cùng phải tự sát khi ý thức đã trở về, thì đề tài của tác phẩm là tình trạng nông
dân bị lu manh hoá trong xã hội trớc cách mạng. Tuy vậy, trong tác phẩm
không chỉ có một nhân vật Chí Phèo, khi đọc tác phẩm ta còn thấy hình ảnh
của giai cấp thống trị nh: Bá Kiến, Lý Cờng, Đội Tảo. Bọn chúng nh một
đàn cá tranh mồi câu kết với nhau bóc lột dân lành thì đề tài ở đây là bộ mặt
tham lam, tàn ác, bỉ ổi của giai cấp thống trị đơng thời.
Vậy, đề tài có thể tồn tại ở nhiều cấp độ khác nhau, thực chất đề tài là
một khái niệm về loại của hiện tợng đời sống đợc miêu tả. Có bao nhiêu
loại hiện tợng đời sống, có bấy nhiêu đề tài [41]. Cho nên có đề tài về ngời
nông dân bị lu manh hoá (Chí Phèo - Nam Cao), có đề tài về cuộc sống bế
tắc của ngời trí thức nghèo trớc cách mạng (Sống mòn - Nam Cao), hay có
đề tài về tình yêu làng quê của ngời nông dân trớc cách mạng (Làng - Kim
Lân) phản ánh các bình diện khác nhau trong cuộc sống. Nói đến đề tài tác
phẩm, không chỉ nói tới một đề tài riêng rẽ mà thực chất là một hệ thống đề
tài liên quan tới nhau, bổ sung cho nhau tạo thành đề tài của tác phẩm.
Đề tài tác phẩm văn học không những gắn với hiện thực khách quan,
mà còn do lập trờng t tởng và vốn sống của nhà văn qui định. Cùng viết về
ngời nông dân trớc cách mạng tháng Tám, tác phẩm của Ngô Tất Tố tập
trung vào tình cảnh khốn cùng của ngời nông dân trớc cảnh su cao thuế
nặng. Nam Cao lại nêu ra tình trạng bị tha hoá về mặt tâm hồn, bị biến dạng
về nhân hình nhân tính. Kim Lân lại tập trung thể hiện những phong tục
truyền thống của dân tộc qua những thú vui nơi làng quê. Khi phần lớn các tác
giả của Tự lực văn đoàn nh Nhất Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo viết về đề

19
tài xung đột trong các gia đình phong kiến địa chủ, khẳng định quyền tự do
luyến ái của lớp thanh niên tân thời thì các nhà văn Ngô Tất Tố, Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan, Kim Lân lại chọn đề tài là đời sống nông dân ở nông

thôn với những thuần phong mĩ tục của dân tộc, bộ mặt thối nát của giai cấp
địa chủ phong kiến để phản ánh.
Có thể nói, đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát những chủ đề và xây
dựng những hình tợng, những tính cách điển hình và kết cấu nghệ thuật trong
tác phẩm.
1.2. Đề tài nông thôn trong lịch sử văn học Việt Nam
1.2.1. Trong văn học Trung đại
Đề tài nông thôn từ xa đến nay là một đề tài lớn xuyên suốt lịch sử văn
học Việt Nam. Đây là vấn đề đợc nhiều nhà văn quan tâm, thử sức và gặt hái
đợc nhiều thành công. Việt Nam là nớc nông nghiệp với đa số là nông dân.
Họ sống ngàn đời sau luỹ tre làng, với những thuần phong mĩ tục, những nếp
sinh hoạt văn hoá cổ truyền. Nông thôn cũng là nơi tập trung, thể hiện đầy đủ
và trung thực mâu thuẫn của xã hội. Qua bức tranh nông thôn ngời đọc thấy
đợc hình ảnh chân thực về đời sống con ngời ở một cộng đồng lớn. Vì vậy,
viết về đề tài nông thôn là nói đến những gì Việt Nam nhất, bởi những đặc
trng của dân tộc đều thể hiện ở đây: từ tình yêu thơng giữa ngời với ngời,
đến tình yêu quê hơng đất nớc, lòng căm thù giặc sâu sắc và những tình
cảm đời thờng khác, tâm lí sống hồn nhiên mộc mạc, giản dị, đến những sinh
hoạt văn hoá lành mạnh nh chọi gà, chơi cây cảnh, chơi hoa.
Đề tài nông thôn từ lâu đã đợc thể hiện trong hầu hết các thể loại văn
học. Cảnh vật tơi đẹp của nông thôn Việt Nam truyền thống đã đợc nhiều
tác giả trung đại đề cập đến. Trong thực tế văn chơng, một số tác giả không
có ý định viết về nông thôn, nhng qua thơ họ, vô tình vẫn hiện lên cảnh vật
cuộc sống, con ngời nông thôn một cách khá ấn tợng. Nông thôn cha thực
sự trở thành đối tợng thẩm mỹ để nhà thơ phản ánh. Do đó ở đây, tuy các nhà

20
thơ có nhắc đến cảnh vật con ngời nông thôn nhng đó chẳng qua chỉ là
phơng tiện để họ bộc bạch lý tởng, đạo đức hay thể hiện cái chí của mình.
Tiêu biểu cho sự phản ánh nông thôn ở hình thức gián tiếp này có thể kể đến

các nhà thơ nh: Trần Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ngợc lại với phản ánh gián tiếp là sự phản ánh trực tiếp, các nhà thơ đã
có ý thức viết về nông thôn với tất cả những gì vốn đã tồn tại một cách hiện
hữu. Họ miêu tả cảnh vật, con ngời, cuộc sống nông thôn để từ đó thể hiện
tình cảm, cảm xúc trữ tình. ở dạng phản ánh trực tiếp này các tác giả dờng
nh có xu hớng vợt ra khỏi tính khuôn mẫu qui phạm của văn chơng trung
đại mặc dù điều đó không dễ. Nông thôn trong sáng tác của họ hiện lên rất đa
dạng. Một nông thôn Việt Nam gắn bó máu thịt với từng con ngời đất Việt,
với tất cả vẻ đẹp thơ mộng. Có thể đó là dòng sông, một bến nớc, một cánh
diều tuổi thơ, một đồng lúa ngào ngạt.
Đó là cuộc sống của ngời nông dân quanh năm vất vả, chân lấm tay
bùn, một nắng hai sơng để làm ra hạt gạo, song họ lại có một cuộc sống tinh
thần phong phú, lành mạnh. Chú ý đi vào miêu tả hiện thực của nông thôn
Việt Nam, các nhà thơ đều thể hiện tình cảm đối với thôn quê, nơi cội nguồn
của mình, đồng thời thể hiện sự thông cảm, thơng yêu sâu sắc với cuộc sống
còn nhiều đau khổ của ngời nông dân. ở đây, có thể thấy một qui luật là từ
sự phản ánh gián tiếp đến sự phản ánh trực tiếp là cả một quá trình phát triển
và càng về sau các tác giả càng có ý thức đa văn chơng nghệ thuật đến gần
cuộc sống hiện thực, gần với đời thờng hơn. Tiêu biểu cho dạng phản ánh
nông thôn một cách trực tiếp có thể kể đến các tác giả: Ngô Thì Sỹ, Nguyễn
Du, Cao Bá Quát.
Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, hai vị vua đời Trần, ngoài chính
sự, còn là những nhà thơ tài hoa. Một số thơ phẩm của hai ông viết về thiên
nhiên, nông thôn Việt Nam còn đợc truyền tụng. ở Trần Nhân Tông có các
bài thơ nh: Hạ Cảnh (Cảnh mùa hạ), Hạnh Thiên Trờng hành cung (Đi đến

21
nơi hành cung ở Thiên Trờng), Hạnh An Bang Phủ (Đi đến phủ An Bang).
Bài thơ Thân Trờng vãn vọng (Chiều trông cảnh Thiên Trờng) của Trần
Nhân Tông là một trờng hợp đặc sắc.

Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên
Bán vô, bán hữu, tịch dơng biên
Mục đồng địch lý quy ngu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Xóm trớc, sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều dờng có, lại dờng không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)
Bài thơ tác giả đã vẽ đợc một bức tranh về cuộc sống thanh bình qua
những gì là đặc trng nhất: Xóm làng, đồng ruộng con cò, con trâu, mục đồng,
tiếng sáo. Dẫu rằng đó là thi dĩ ngôn chí thì một bức tranh sinh động về
nông thôn nh thế ở một vị vua quả là rất hiếm.
Nguyễn Trãi, trong 99 bài thơ ở tập thơ chữ Hán ức Trai thi tập chỉ
có 3 bài ông đề cập đến cuộc sống làng quê. Đó là bài: Thôn xá thu chẩm
(Tiếng đập vải mùa thu nơi thôn xóm), Trại đầu xuân độ (Bến đò xuân đầu
trại) và bài Vân đồn. Cả 3 bài mới chỉ là những nét sơ lợc, mới chỉ là cái nhìn
thoáng qua về làng quê. Đó là một làng quê có nghề nhuộm vải, những d âm
của cuộc chiến tranh còn nh đâu đây, thông qua nỗi niềm oán hận của ngời
phụ nữ hậu phơng có chồng chiến chinh nơi biên ải. Đó là cảnh mùa xuân có
cỏ xuân, ma xuân đợm một nỗi buồn man mác. Cuộc sống nơi đây lặng lẽ,
u buồn nh tâm sự cuộc đời chìm nổi của tác giả. Cũng có lúc ông viết những
vần thơ tơi màu cuộc sống
Lao xao chợ cá làng Ng Phủ
Dắng dỏi ve cầm lầu tịch dơng
(Bảo kính cảnh giới)

22
Song cũng vẫn là để nói đến cái chí của mình:
Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân gian đủ khắp đòi phơng

(Bảo kính cảnh giới)
Cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng sống trong thời tao
loạn, hiếm hoi ông mới có những bài thơ tả cảnh sinh hoạt làng quê. Có thể kể
đến bài Vấn ng giả (Hỏi ngời đánh cá). Bài thơ thể hiện một vẻ đẹp hiện
thực song đầy ý vị lãng mạn:
Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng
Cô phàm minh nguyệt tuý chung quy
(Sáo diều theo gió nhàn bay
Buồm khuya chở bóng trăng say cùng về)
Trong bài Nhàn thôn (Chốn thôn quê nhàn rỗi) tính hiện thực đã rõ hơn.
Bài thơ khẳng định cuộc sống của ngời nông dân thật đa dạng. Nơi đâu có
làng xóm, nơi ấy có niềm vui, có tình ngời.
Tổng tổng, lâm lâm sinh chí phồn
Sở c, xứ xứ hữu hơng thôn
Hào hoa hấp nhĩ tỉ lân hội
Nhân hậu y nhiêu mỹ tục phồn

(Nờm nợp xum xuê khắp sản sinh,
Thành làng mọi chốn có dân đinh.
Hào hoa tụ hội nhà liền vách,
Nhân hậu theo lề tục tốt lành.)
Các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá
Quát đều ít nhiều có viết về làng quê Việt Nam. Song hình ảnh làng quê trong
thơ của các thi nhân đó hiện lên trong hoài niệm mang tâm trạng lữ thứ tha
hơng. Nên đề tài viết về làng quê cha trở thành cảm hứng chủ đạo của họ.

23
Sau này nối tiếp cảm hứng ấy là nhà thơ Nguyễn Khuyến, ông có một vị trí
quan trọng trong tiến trình lịch sử thơ ca dân tộc. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng
coi ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Trong thơ Nguyễn Khuyến

chúng ta thấy phảng phất những làng cảnh, cuộc sống con ngời gắn với mảnh
đất Bình Lục - Hà Nam quê ông. Giáo s Nguyễn Đình Chú nhận xét về bức
tranh làng quê trong thơ Nguyễn Khuyến: Bức tranh làng quê này đại thể có
hai mảng; cảnh vật của đất trời và cuộc sống con ngời. Cảnh đất trời thì
thanh sơ xinh đẹp đáng yêu biết bao, nhng phơn phớt một sắc buồn toả ra từ
nỗi buồn thời thế của Nguyễn Khuyến ở buổi ấy. Còn cuộc sống con ngời thì
tiêu điều, xơ xác quá đỗi. Nguyễn Khuyến có ảnh hởng bởi nỗi buồn thế sự
của một nhà nho thất thế, nên thơ về làng quê của ông đặc biệt mới chỉ dừng
lại ở sự phản ánh, tố cáo một cách thâm thuý xã hội thực dân phong kiến
đơng thời bằng những bài thơ nói về cuộc sống của ngời nông dân.
Sáng tác viết về nông thôn của Nguyễn Khuyến đợc thể hiện trên hai
bình diện: khách thể (phản ánh hiện thực nông thôn) và chủ thể (thể hiện t
tởng, cảm xúc của tác giả). Vợt ra khỏi tính chất của những bài thơ đề vịnh
thiên nhiên đơn thuần, thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến là bức
tranh quê chân thực, sinh động, mang đậm màu sắc, hơng vị làng quê.
Tiểu cúc tân tài lộ vị can
Hà xứ cô hồng thê dã thụ
Vô cùng thuỷ tháo nhập giang can
Âm vân vị áp thiên sơn hoạ
(Xuân hứng)
(Khóm trúc nhỏ mới trồng, sơng hãy còn cha khô.
Con chim hồng lẻ loi ở chốn nào về, đậu trên cây ngoài nội.
Cỏ xanh mơn mởn, ngút mắt trải tới tận bờ sông.
Mây mù cha lấp đợc đờng nét nh vẽ của núi non.)

24
Dờng nh không giây phút nào nhà thơ ngừng theo dõi và tái hiện
những bức tranh thiên nhiên sống động quanh mình. Đặc sắc hơn cả trong thơ
Nguyễn Khuyến là vẻ đẹp của thiên nhiên làng quê vào thu. Ông trở thành
một thi nhân mùa thu. Sáng tác về mùa thu có lẽ là mạch cảm hứng và cũng

là đề tài hợp với Nguyễn Khuyến. Dờng nh cứ mỗi lần đọc lại chùm thơ thu
của Nguyễn Khuyến, ta lại phát hiện thêm nhiều điều mới lạ.
Viết về thiên nhiên, Nguyễn Khuyến hớng tới miêu tả hiện thực cảnh
sắc nông thôn quê hơng mình, với một sự cảm nhận tinh tế, sâu sắc, giàu chất
trữ tình, tiếp cận và mô tả hiện thực nh nó vốn có. Thiên nhiên làng cảnh
trong thơ ông là vẻ đẹp để muôn đời say mê, yêu mến.
Ngoài việc phản ánh, mô tả thiên nhiên trên bình diện khách thể.
Nguyễn Khuyến còn thể hiện thiên nhiên trên bình diện chủ thể. Đó là cảm
xúc trữ tình là tâm sự thầm kín của nhà thơ gửi gắm trong đó.
Bài thơ Thu Vịnh có hồn rất riêng của Nguyễn Khuyến. Hình ảnh song
tha để mặc bóng trăng vào là nét vẽ trong thơ, hay chính tâm trạng nhà thơ?
Cảnh và tình trong thơ mờ ảo, thật mà h, quen mà lạ. Ta hình dung tiếng lòng
thi sĩ đang thảng thốt, cô đơn, ngơ ngác sững sờ.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Thu ẩm thể hiện rõ nỗi buồn, tâm trạng tự trách, tự thẹn thành một nỗi
chán chờng gần nh buông thả, khoảnh khắc thu có lẽ vì thế là những giây
phút chập tối, đêm sâu nhạt mờ, h ảo. Hình ảnh một căn "nhà cỏ thấp le te ở
các nét sâu của một ngõ tối. Đóm lập loè, những dấu hiệu đích thực của
làng quê Việt Nam. Nếu bài Thu vịnh còn có chút tỉnh táo thì đến đây tâm
trạng nhà thơ thành chếnh choáng, ngất ng câu thơ dăm ba hoe say
nhoè, oà ra nh những dòng nớc mắt.
Đến bài Thu điếu thể hiện rõ nhất nhân vật trữ tình Nguyễn Khuyến
trong vai trò của ngời câu cá.

25
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đợc
Cá đâu đớp động dới chân bèo.
Nhà thơ tự họa mình vào bức tranh với một dáng ngồi bất động. Tất cả
thu nhỏ lại gần nh tan vào h không. Đi câu là cái cớ để đợc tĩnh lặng mà

suy ngẫm sự đời. Yêu thiên nhiên, ca ngợi cảnh đẹp của quê hơng cũng là
biểu hiện của lòng yêu nớc. Cảnh là cảnh của trời đất, quê hơng, còn tình là
tấm lòng riêng của thi sĩ. Ông yêu mến sâu sắc làng quê mình, gắn bó với làng
quê nên những vần thơ ông viết về cuộc sống, con ngời dân quê thật chân
thực và sinh động. Đó là những cảnh sinh hoạt thân quen với bao làng quê
Việt Nam từ ngàn xa, gắn liền với không gian, thời gian cụ thể. Sự hiện diện
không gian, thời gian có tính chất xác định càng làm tăng màu sắc hiện thực
của bức tranh sinh hoạt làng quê, vốn đã sinh động trong thơ Nguyễn Khuyến.
Mất mùa, cái đói, cái nghèo, xồng xộc tới, lan ra khắp làng, khắp xóm.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng nếm trải điều đó, thực là hoạ vô đơn chí một
loạt tai họa bủa vây ông. Đời loạn, mất mùa, nhà nghèo, tuổi già thân ốm,
ngời đói cái cảnh Bạc đầu mà vẫn tấm cám lần hồi của nhà thơ khiến ta
trào nớc mắt.
Hiện thực nông thôn Việt Nam luôn tồn tại hai mảng sáng - tối. Một
nông thôn vô cùng tơi đẹp nhng cũng là một nông thôn còn nhiều vất vả,
đau khổ. Nếu coi chùm ba bài Thơ thu thể hiện cho mảng sáng của nông
thôn Việt Nam thì chùm thơ hung niên của ông thể hiện mảng tối của nông
thôn thời đó.
Tuy vậy, sáng tác của các tác giả thời kỳ này vẫn là nhằm tải đạo hay
ngôn chí nhng vô tình một nông thôn Việt Nam đã thấp thoáng hiện ra khá
sinh động và có ấn tợng. Chỉ trong chừng mực ấy những phản ánh của các
tác giả đã có thể coi nh là nền móng đầu tiên cho một bức tranh toàn cảnh về
nông thôn Việt Nam tơi đẹp trong thơ ca giai đoạn sau này.

×