Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu và phân tích các nguồn lực tác động đến phát triển kinh tế hộ tại xã Nhữ Hán - huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.05 KB, 73 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN HÀ THƯ



Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH CÁC NGUỒN LỰC TÁC ĐỘNG ĐẾN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TẠI XÃ NHỮ HÁN - HUYỆN YÊN SƠN -
TỈNH TUYÊN QUANG”



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : KTNN - K42 N01
Khoa : Kinh tế & Phát triển nông thôn
Khóa học : 2010 - 2014





Thái Nguyên - 2014

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN HÀ THƯ



Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH CÁC NGUỒN LỰC TÁC ĐỘNG ĐẾN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TẠI XÃ NHỮ HÁN - HUYỆN YÊN SƠN -
TỈNH TUYÊN QUANG”



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Lớp : KTNN - K42 N01
Khoa : Kinh tế & Phát triển nông thôn
Khóa học : 2010 – 2014

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Đặng Thị Thái

Khoa Kinh tế & PTNT - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên



Thái Nguyên - 2014

LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian gần bốn năm học tập, được sự chỉ dẫn nhiệt tình, cũng
như sự giúp đỡ của thầy, cô Trường Đại Học Nông Lâm, đặc biệt là các thầy
cô Khoa Kinh Tế - Phát triển nông thôn, cũng với thời gian hơn bốn tháng
thực tập tại UBND xã Nhữ Hán tôi đã học được những bài học kinh nghiệm
quý báu từ thực tiễn giúp ích cho bản thân để nay tôi có thể hoàn thành đề tài
“Nghiên cứu và phân tích các nguồn lực tác động đến phát triển kinh tế hộ
tại xã Nhữ Hán - huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang”.
Tôi xin chân thành biết ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của các thầy cô Khoa
Kinh tế - Phát triển nông thôn, đặc biệt tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô
Đặng Thị Thái đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt thời gian làm đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND xã Nhữ Hán - Yên Sơn - Tuyên
Quang đặc biệt tôi xin cảm ơn bà con nông dân nhiệt tình trả lời các câu hỏi
đã cung cấp những kiến thức quý báu giúp tôi hoàn thành đề tài.
Tuy nhiên, kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài khó tránh
được những sai sót, khuyết điểm. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô.
Cuối cùng tôi xin kính chúc quý thầy cô Khoa kinh tế - Phát triển nông
thôn, UBND xã Nhữ Hán, cũng toàn thể bà con nông dân ở xã Nhữ Hán dồi
dào sức khỏe và luôn thành công trong công việc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014


Sinh viên

Nguyễn Hà Thư

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa
BQ Bình quân
BVTV Bảo vệ thực vật
CN- TTCN- XD Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- xây dựng
ĐH/CĐ Đại học/ cao đẳng
HH Hóa học
NN Nông nghiệp
Tr.Đ Triệu đồng
UBNDX Ủy ban nhân dân xã


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất của địa bàn xã Nhữ Hán từ năm 2011 đến
năm 2013 18
Bảng 3.2: Giá trị sản xuất các ngành của xã Nhữ Hán 3 năm (2011 - 2013) . 21
Bảng 3.3: Thành phần dân tộc trên địa bàn xã Nhữ Hán 23
Bảng 3.4: Tình hình lao động và nhân khẩu 23
Bảng 3.5: Khảo sát thu nhập của các hộ điều tra 27
Bảng 3.6: Phân nhóm thu nhập 28
Bảng 3.7: Trình độ học vấn của chủ hộ 29
Bảng 3.8: Đất sản xuất của hộ 31

Bảng 3.9: Phương tiện phục vụ sản xuất 33
Bảng 3.10: Chi phí trồng một sào chè theo nhóm hộ 36
Bảng 3.11: Chi tiết chi phí chăn nuôi của các nhóm hộ 37
Bảng 3.12: Tổng chi của các nhóm hộ điều tra 38
Bảng 3.13: Tổng thu của các nhóm hộ điều tra 39
Bảng 3.14: summary 41
Bảng 3.15: ANOVA 41
Bảng 3.16: Hệ số co dãn (hồi quy) giữa thu nhập với các yếu tố cơ bản 42


DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Biểu đồ phân bố thu nhập của hộ điều tra 27

Hình 3.2: Biểu đồ nguồn vốn sử dụng cho sản xuất kinh doanh của hộ 30

Hình 3.3: Biểu đồ đất sản xuất của hộ 32

Hình 3.4: Biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa của xã 35


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1

2. Mục tiêu nghiên cứu 2

2.1. Mục tiêu chung 2


2.2. Mục tiêu cụ thể 2

3. Ý nghĩa của đề tài 2

3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2

3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 2

4. Bố cục của khóa luận 2

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 3
1.1. Cơ sở lý luận 3

1.1.1. Khái niệm hộ 3

1.1.2. Hộ nông dân 4

1.1.3 . Kinh tế hộ nông dân 5

1.1.4. Phân loại hộ nông dân 8

1.2. Cơ sở thực tiễn 10

1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước
trên thế giới 10
1.2.2. Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta 12

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Đối tượng, nội dung và phạm vi nghiên cứu 14


2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 14

2.1.2. Nội dung nghiên cứu 14

2.1.3. Phạm vi nghiên cứu 14


2.2. Phương pháp nghiên cứu 14

2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 14

2.2.1.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp. 14

2.2.1.2. Thu thập số liệu sơ cấp. 14

2.2.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 15

2.2.3. Phân tích hồi quy và hàm sản xuất Cobb - Douglas 15

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 16
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 16

3.1.1. Điều kiện tự nhiên 16

3.1.1.1. Vị trí địa lý - hành chính. 16

3.1.1.2. Địa hình 16

3.1.1.3. Khí hậu 16


3.1.1.4. Tài nguyên nước 17

3.1.1.5. Tài nguyên rừng 17

3.1.1.6. Tài nguyên đất 17

3.1.2. Thực trạng kinh tế xã hội trên địa bàn xã 19

3.1.2.1. Tình hình kinh tế. 19

3.1.2.2. Tình hình xã hội. 22

3.1.2.3. Tình hình dân số và lao động. 22

3.1.2.4. Cơ sở hạ tầng 24

3.1.2.5. Thị trường 25

3.2. Tình hình cơ bản của các hộ điều tra 26

3.2.1. Khảo sát thu nhập và phân nhóm hộ nghiên cứu 26

3.2.2. Phân tích nguồn lực của các hộ điều tra 28

3.2.2.1. Nguồn nhân lực 28

3.2.2.2. Nguồn lực tài chính. 30

3.2.2.3. Nguồn lực đất đai 31



3.3. Khí hậu thời tiết và môi trường sinh thái ảnh hưởng đến sản xuất
của hộ 34

3.4. Khái quát tình hình sản xuất của các nhóm hộ điều tra 36

3.4.1. Chi phí chè của các nhóm hộ 36

3.4.2. Chi phí chăn nuôi của các nhóm hộ 37

3.4.3. Tổng chi phí của các nhóm hộ điều tra 38

3.4.4. Tổng thu của các nhóm hộ điều tra 39

3.5. Các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ 40

Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP 44

4.1. Quan điểm định hướng 44

4.1.1. Xây dựng, định hướng kế hoạch chiến lược năm 2020 44

4.1.2. Kế hoạch hằng năm cho địa phương, cho phát triển kinh tế nông nghiệp
của địa phương 44

4.2. Các giải pháp 44

4.2.1. Về nguồn nhân lực 44


4.2.2. Giải pháp về hoạt động tạo thu nhập 45

4.2.3. Phát triển cơ sở hạ tầng 45

4.2.4. Giải pháp về vốn 46

4.2.5. Giải pháp về tiếp cận chính sách 47

KIẾN NGHỊ 48

KẾT LUẬN 49

TÀI LIỆU THAM KHẢO 50

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phát triển kinh tế xã hội cùng với quá trình hội nhập và phát triển của
khu vực và thế giới đã tạo nên những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Đời sống người dân được từng bước nâng lên rõ rệt,
người dân có điều kiện cải thiện đời sống và tiếp cận với những thành tựu của
khoa học công nghệ.
Kinh tế hộ nông dân được coi là một đơn vị kinh tế đặc thù và phù hợp
trong sản xuất nông nghiệp. Nó góp phần giải quyết vấn đề việc làm đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Kinh tế hộ là loại hình kinh tế phổ biến, đang có vai trò, vị trí rất lớn và
là bộ phận hữu cơ trong nền kinh tế, là chủ thể quan trọng trong phát triền
nông nghiệp và đổi mới nông thôn ở nước ta. Cùng với sự phát triển của kinh
tế xã hội nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng thì kinh tế hộ nông dân

không ngừng phát triển cả về quy mô và tính chất. Một bộ phận hộ nông dân
chuyển từ quy mô nhỏ thành quy mô lớn, từ sản xuất tự cấp tự túc thành sản
xuất hàng hóa, trao đổi sản phẩm trên thị trường.
Xã Nhữ Hán là một xã miền núi thuộc huyện Yên sơn- tỉnh Tuyên
Quang cách huyện lỵ Yên Sơn khoảng 17km về phía Nam. Có vị trí địa lý từ
22
0
04’27 đến 28
0
11’10; vĩ độ Bắc từ 105
0
07’07 đến 105
0
13’14. Nhữ Hán có
điều kiên tự nhiên rất thuận lợi, đất đai màu mở rất phù hợp cho phát triển
nông nghiệp toàn diện. Đa số người dân sống phụ thuộc vào nghề nông, trong
khi đó quỹ đất nông nghiệp thì có hạn, dân số ngày càng tăng, chất lượng lao
động còn thấp, năng suất lao động chưa cao từ đó dẫn đến thu nhập của phần
đông hộ gia đình còn khá thấp. Thực trạng đó đặt ra một áp lực lớn cho việc
phát triển kinh tế - xã hội xã Nhữ Hán. Vì thế, tôi chọn và nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu và phân tích các nguồn lực tác động đến phát triển kinh tế hộ
tại xã Nhữ Hán - huyện Yên Sơn - tỉnh Tuyên Quang” là rất cần thiết nhằm
cũng cấp những cơ sở khoa học cho các cơ quan hữu quan để ra các chính
sách hỗ trợ, tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho người dân, đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của xã ngày càng toàn diện hơn.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kinh tế hộ nông dân.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân tại xã

Nhữ Hán, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế
hộ nông dân.
- Nghiên cứu, phân tích các nhân tố chính ảnh hưởng đến thu nhập của
hộ nông dân tại xã Nhữ Hán.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân
tại địa bàn xã Nhữ Hán.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Củng cố kiến thức từ cơ sở đến chuyên ngành đã học trong trường,
ứng dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin, phân tích, xử lý số liệu và viết
báo cáo.
- Giúp hiểu thêm tình hình kinh tế - xã hội và các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đánh giá được mức độ ảnh hưởng
của các nguồn lực đến kết quả phát triển sản xuất của hộ.
4. Bố cục của khóa luận
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Các giải pháp
Kết luận

3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm hộ
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hộ.
Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên
ngành kinh tế, người ta định nghĩa về hộ như sau: Hộ là tất cả những người
sống chung trong một ngôi nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và
người làm công, người cùng ăn chung. Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có
khái niệm về “hộ” gồm những người sống chung dưới một ngôi nhà, cũng ăn
chung, làm chung và cùng có chung một ngân quỹ.
Giáo sư Mc. Gê (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho
rằng: Hộ là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung
huyết tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.
Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống
các nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối
quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.[13]
Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981,
1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: Hộ là một nhóm người
có cùng cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là
một đơn vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”.[13]
“Hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc, có quan hệ mật
thiết vơi nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân
họ và cộng đồng” (Raul I).[6]
Như vậy, có thể nêu một số điểm cần quan tâm khi phân định hộ. Hộ là:
- Một nhóm người cùng huyết tộc hay không cùng huyết tộc.
- Họ cùng sống chung hay không cùng sống chung dưới một mái nhà.
- Có cùng một nguồn thu nhập (ngân quỹ) và ăn chung.
4
- Cùng tiến hành sản xuất chung.
1.1.2. Hộ nông dân
Tác giả Frank Ellis định nghĩa "Hộ nông dân là

các hộ gia đình làm
nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh
đất của mình, sử dụng
chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống
kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng
bởi sự tham gia cục bộ vào các
thị trường và có xu hướng hoạt động
với mức độ không hoàn hảo cao" [9].
Nhà khoa học Traianốp cho rằng "Hộ nông dân là đơn vị sản xuất rất ổn
định" và ông coi "hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển
nông nghiệp" [11].
Luận điểm trên của ông đã được áp dụng rộng rãi trong chính sách
nông nghiệp tại nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển. Đồng tình
với quan điểm trên của Traianốp, hai tác giả Mats Lundahl và Tommy
Bengtsson bổ sung và nhấn mạnh thêm "Hộ nông dân là đơn vị sản xuất cơ
bản" [11, tr.5]. Chính vì vậy, cải cách kinh tế ở một số nước những thập kỷ
gần đây đã thực sự coi hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ và cơ bản.
Ở nước ta, có nhiều tác giả đề cập đến khái niệm hộ nông dân. Theo
nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993) cho rằng: "Nông hộ là tế bào kinh
tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn" [3, 9].
Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu
hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và
hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn”. Còn theo nhà khoa học Nguyễn
Sinh Cúc, trong phân tích điều tra nông thôn năm 2001 cho rằng: "Hộ nông
nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông
nghiệp (làm đất, thuỷ nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật, ) và thông
thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp" [1, 4].
Nghiên cứu những khái niệm trên đây về hộ nông dân của các tác giả
5

và theo nhận thức cá nhân, tôi cho rằng:
- Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản
xuất chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng
nghề nông. Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các
hoạt
động phi nông nghiệp (như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ ) ở
các mức độ khác nhau.

- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất
vừa là một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị
kinh tế độc lập tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ
thống kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên
mức cao của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thị trường, xã hội càng mở rộng
và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ
thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước. Điều này
càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta trong tình hình hiện nay.
1.1.3 . Kinh tế hộ nông dân

Hộ nông dân là thực thể kinh tế văn hoá xã hội chủ yếu ở nông
thôn, vì vậy cần phải hệ thống lý thuyết về phát triển kinh tế hộ nông dân
làm
nền tảng cho việc phân tích, đánh giá và xây dựng chiến lược phát
triển
kinh tế nông thôn.
Sau các công trình nghiên cứu về kinh tế nông dân của C.Mác và
V.I.Lênin đã xuất hiện một xu hướng nghiên cứu về sự phát triển kinh tế
hộ
nông dân.


Theo Hemery, Margolin (1988) thì “xã hội nông dân lạc hậu không nhất
thiết phải đi lên chủ nghĩa tư bản, mà có thể phát triển lên chế độ xã hội khác
bằng con đường phi tư bản chủ nghĩa” [5, 15].
Các tác giả của thuyết dân tuý cho rằng có nhiều con đường phát triển
của lịch sử, lịch sử không phải chỉ có một con đường phát triển mà nó tiến
hoá bằng các chu kỳ, mang tính chất vùng, có các thời kỳ trì trệ và tiến lên.
6
Do đó các nước đi sau có thể đuổi kịp, thậm chí có thể vượt các nước đi
trước. Phải đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phục hồi nền văn minh nông
dân, chủ yếu là cộng đồng nông thôn và hợp tác xã thủ công nghiệp. Phải tiến
hành công nghiệp hoá do nhà nước. Chỉ có bằng cách này mới công nghiệp
hoá mà tránh được các nhược điểm của chủ nghĩa xã hội.
Trong quyển I của bộ Tư bản, C.Mác đã phân tích kỹ quá trình tước
đoạt ruộng đất của nông dân Anh một cách ồ ạt, làm phá vỡ nền nông nghiệp
truyền thống và sự hình thành của các tầng lớp trại chủ tư bản chủ nghĩa thuê
đất và vay vốn của địa chủ, bóc lột người làm thuê. Người dự đoán, kinh tế hộ
sẽ hoàn toàn bị xoá bỏ trong điều kiện phát triển đại công nghiệp. Nhưng ở
quyển III, C.Mác khẳng định, ngay ở Anh, với thời gian đã thấy hình thức sản
xuất nông nghiệp cơ bản được phát triển không phải là các nông trại lớn mà là
các nông trại gia đình, không dùng lao động làm thuê. Các nông trại lớn
không có khả năng cạnh tranh với nông trại gia đình.
V.I.Lênin cho rằng: “cải tạo tiểu nông không phải là tước đoạt
của họ mà phải tôn trọng sở hữu cá nhân của họ, khuyến khích họ liên
kết với nhau một cách tự nguyện để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của chính họ”. Khi phân tích kết cấu xã hội nông dân nước Nga,
V.I.Lênin đã lưu ý, hộ nông dân khai thác triệt để năng lực sản xuất đáp
ứng những nhu cầu đa dạng của gia đình và xã hội. Ông đã chỉ ra năng lực
tự quyết định của quá trình sản xuất của hộ nông dân trong nền kinh tế tự
cung tự cấp, là mầm mống của những chiều hướng phát triển hàng
hoá khác

nhau, chính nó sẽ tự phá vỡ các quan hệ khép kín của hộ dẫn
đến những
quá trình sự vỡ kết cấu kinh tế" [3, 15].

David (1903) đã nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản không làm phá sản
nền sản xuất tiểu nông, nền kinh tế này có "ưu thế", "ổn định", nếu so với các
nông trại lớn tư bản chủ nghĩa.
Theo Tchayanov (1924), luận điểm cơ bản nhất của Tchayanov là
7
coi kinh tế hộ nông dân là một phương thức sản xuất tồn tại trong mọi
chế
độ xã hội. Mỗi phương thức sản xuất có những quy luật phát triển
riêng
của nó, và trong mỗi chế độ, nó tìm cách thích ứng với cơ chế
kinh tế
hiện hành. Mục tiêu của hộ nông dân là có thu nhập cao không
kể thu
nhập ấy do nguồn gốc nào, trồng trọt, chăn nuôi hay ngành nghề
đó là kết
quả chung của lao động gia đình.
Khái niệm gốc để phân tích kinh tế gia đình là sự cân bằng lao
động - tiêu dùng giữa sự thoả mãn các nhu cầu của gia đình và sự nặng
nhọc của lao động. Sản lượng chung của hộ gia đình hàng năm trừ đi
chi
phí sẽ là sản lượng thuần mà gia đình dùng để tiêu dùng, đầu tư sản xuất và
tiết kiệm. Mỗi hộ nông dân cố gắng đạt được một thoả mãn nhu cầu thiết
yếu bằng cách tạo một sự cân bằng giữa mức độ thoả mãn nhu cầu của gia
đình với mức độ nặng nhọc của lao động. Sự cân bằng này thay đổi theo
thời gian, theo cân bằng sinh học, do tỷ lệ giữa người tiêu
dùng và người

lao động quyết định [7, 15].
J.Harris (1982) trong bài giới thiệu cho cuốn sách "Phát triển nông
thôn" đã phân loại các công trình nghiên cứu về nông thôn, nông dân, nông
nghiệp ra ba xu hướng chính, đó là xu hướng tiếp cận hệ thống, mô hình ra
quyết định và tiếp cận cấu trúc lịch sử.
Vấn đề được tranh luận chủ yếu là, trong quá trình phát triển sản xuất
hàng hoá, xã hội nông thôn phân hoá thành tư bản nông nghiệp, người làm
thuê nông nghiệp hay là người nông dân sản xuất nhỏ, có đất đai, tư liệu sản
xuất kinh doanh bằng lao động gia đình vẫn tồn tại vì có được nông sản rẻ
hơn các nông trại tư bản chủ nghĩa.
Nghiên cứu sự phát triển của nền kinh tế nông dân ở các nước đang
phát triển gần đây Georgescu - Roegen (1960) cho thấy, nông trại nhỏ dùng
lao động cho đến lúc thu nhập ròng xuống đến số không và chủ yếu nhằm
tăng sản lượng của một đơn vị ruộng đất.
8
Dandekar (1970) cho rằng có hai kiểu nông dân, một kiểu sản xuất
hàng hoá, chỉ đầu tư lao động đến lúc lãi bằng tiền lương và một kiểu tự túc,
chủ yếu đầu tư lao động nhằm tăng sản lượng đủ sống.
Nhiều công trình nghiên cứu (Vergopoulos - 1978), Taussig - 1978
cho thấy nông trại nhỏ gia đình hiệu quả hơn nông trại lớn tư bản chủ nghĩa,
và chính hình thức sản xuất này có lợi cho chủ nghĩa tư bản hơn vì khai thác
được cao nhất thặng dư lao động ở nông thôn và giữ được giá nông sản thấp.
Hayami và Kikuchi (1981) nghiên cứu sự thay đổi của kinh tế nông
thôn Đông Nam Á và thấy rằng, áp lực dân số trên ruộng đất ngày càng tăng,
lãi do đầu tư thêm lao động ngày càng giảm mặc dù có cải tiến kỹ thuật,
nhưng giá ruộng đất (địa tô) ngày càng tăng.
Năm 1989, Lipton cho rằng trong khoa học xã hội về phát triển
nông thôn hiện nay, phổ biến ba cách tiếp cận, đó là cách tiếp cận macxit
phân tích (Roemer - 1985); tiếp cận cổ điển mới (Krueger, 1974) và tiếp
cận hàng hoá tập thể (Olson, 1982). Ba tiếp cận trên về mặt lý luận, trong

thực tiễn đều thuộc về quan hệ giữa nhà nước và nông dân. Mối quan hệ
đó, thường theo các hướng là tăng thặng dư kinh tế của nông thôn;
chuyển thặng dư từ ngành này sang ngành khác; rút thặng dư và thúc đẩy
việc luân chuyển. Nhìn chung bất cứ một quá trình phát triển nào cũng
phải tăng thặng dư, quá trình này cần sự tác động của Nhà nước.
Tóm lại, có thể thấy kinh tế nông hộ là một hình thức cơ bản và tự chủ
trong nông nghiệp. Nó được hình thành và phát triển một cách khách quan,
lâu dài, dựa trên sự tư hữu các yếu tố sản xuất, là loại hình kinh tế có hiệu
quả, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, thích ứng, tồn tại và phát triển trong
mọi chế độ kinh tế xã hội.
1.1.4. Phân loại hộ nông dân
- Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động
9
Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không phản ứng với thị trường: Loại này
có mục tiêu là tối đa hóa lợi ích, đó là sản phẩm cần thiết để tiêu dùng trong
chính gia đình họ. Để có đủ sản phẩm lao động trong nông hộ phải làm cật lực
và đó cũng được coi như một lợi ích, để có thể tự cấp, tự túc sự hoạt động của
hộ phụ thuộc vào:
+ Khả năng mở rộng diện tích đất đai.
+ Có thị trường lao động để họ bán sức lao động để có thu nhập.
+ Có thị trường vật tư để họ mua nhằm lấy lãi.
+ Có thị trường sản phẩm để họ trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
Hộ nông dân bắt đầu phản ứng với thị trường: Loại hộ này còn gọi là
“nửa tự cấp”, nó không giống như loại doanh nghiệp khác là phụ thuộc hoàn
toàn vào thị trường, vì các yếu tố tự cấp còn lại nhiều và vẫn quyết định cách
thức sản xuất của hộ, ở đây họ có phản ứng với giá cả, với thị trường nhưng ở
mức độ thấp.
Hộ nông dân sản xuất hàng hóa là chủ yếu: Loại này mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận được hiểu rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với các thị trường
vốn, ruộng đất, lao động…

- Theo tính chất của ngành sản xuất
+ Hộ thuần nông: Là loại hộ chỉ thuần túy sản xuất nông nghiệp.
+ Nông hộ kiêm: Là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ
công nghiệp.
+ Nông hộ chuyên: Là loại nông hộ chuyên làm các ngành nghề như cơ
khí, mộc, nề, rèn, sản xuất vật liệu, vận tải, thủ công mỹ nghệ, may, dệt, làm
dịch vụ kỹ thuật cho nông nghiệp.
+ Nông hộ buôn bán: Có quầy hàng riêng, bán hàng ở chợ hoặc nơi
đông dân cư.
Các loại nông hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện
cho phép. Vì vậy xây dựng công nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng
10
sản xuất và xã hội ở nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn để chuyển hộ độc canh
thuần nông sang đa ngành hoặc chuyên môn hóa. Từ đó làm cho lao động
nông nghiệp giảm, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay làm lao
động phi nông nghiệp tăng lên.[12]
- Căn cứ vào thu nhập của nông hộ bao gồm
+ Hộ giàu
+ Hộ khá
+ Hộ trung bình
+ Hộ nghèo
- Căn cứ vào tính chất ổn định của tình trạng ăn ở và canh tác.
+ Hộ du canh, du cư
+ Hộ định canh, du cư
+ Hộ định cư, du canh
+ Hộ định canh, định cư
Sự phân loại này còn tồn tại ở các huyện vùng cao phía Bắc, Tây Nguyên…
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới

Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử và trải qua nhiều
bước thăng trầm cùng với các hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nó chỉ
thực sự phát triển mạnh mẽ ở ba thế kỷ trở lại đây khi mà các cuộc cách mạng
khoa và công nghệ đã tạo ra hàng loạt những công nghệ, kỹ thuật và công cụ
sản xuất mới, tạo ra bước đột phá trong nền nông nghiệp của thế giới. Hộ
nông dân cho đến nay đã tồn tại phổ biến trên thế giới, ở tất cả các nước có
sản xuất nông nghiệp.
Sau đây, để giúp cho việc nghiên cứu và việc định hướng phát triển cho
kinh tế hộ nông dân ở nước ta phù hợp với quy luật phát triển nông nghiệp nói
11
chung, chúng ta sẽ xem xét tình hình phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại ở
một số nước trên thế giới.
Đài Loan: Ý thức được xuất phát điểm của mình có vị trí quan trọng là
nông nghiệp nhưng ở trình độ thấp, nhưng ngay từ đầu Đài Loan đã coi trọng
và chú ý đầu tư cho nông nghiệp. Trong những năm 1950 đến 1960 chủ
trương “lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp phát triển nông
nghiệp”. Từ những năm 1951 đã có chương trình cải cách ruộng đất theo ba
bước: giảm tô, giải phóng đất công, bán đất cho tá điền, thực hiện người cày
có ruộng (1953- 1954).[2]
Theo đạo luật cải cách ruộng đất của Đài Loan, địa chủ chỉ được giữ lại
3ha nếu là ruộng đất thấp và 6ha nếu là ruộng đất cao, số còn lại nhà nước
mua và bán lại cho tá điền với giá thấp và được trả dần, trả góp. Chính sách
phát triển nông nghiệp của Đài Loan trong thời kỳ này đã làm cho nông dân
phấn khởi, lực lượng sản xuất trong nông thôn được giải phóng, sản xuất đã
tăng với tốc độ nhanh.[2]
Tại Đài Loan hiện có 30 vạn người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng
cao, song đã có đường đi lên núi là đường nhựa, nhà có đủ điện nước, có ô tô
riêng. Từ năm 1974 họ thành lập nông trường, nông hội, trồng những sản phẩm
quý hiếm như “cao sơn trà”, bán các mặt hàng sản phẩm của rừng như cao các
loại, thịt hươu nai khô… cùng các sản phẩm nông dân sản xuất được trong

vùng. Về chính sách thuế và ruộng đất của chính quyền có sự phân biệt giữa
hai đối tượng “nông mại nông” thì miễn thuế (nông dân bán đất cho nông dân
khác), “nông mại bất nông” thì phải đóng góp thuế gấp ba lần tiền mua (bán đất
cho đối tượng phi nông nghiệp). Nguồn lao động trẻ ở nông thôn rất dồi dào
nhưng không di chuyển ra thành thị, mà dịch vụ tại chỗ theo kiểu ‘ly nông bất
lương’. Các cơ quan khoa học ở Đài Loan rất mạnh dạn nghiên cứu cải tạo
giống mới cho nông dân và họ không phải trả tiền.[2]
12
Thái Lan: Một nước trong khu vực Đông Nam Á, Chính phủ Thái Lan
đã thực hiện nhiều chính sách để đưa từ một nước lạc hậu trở thành nước có
nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Một chính sách có liên quan đến việc phát
triển kinh tế vùng núi ban hành (từ 1950 đến 1980).[2]
Thứ nhất: Xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Mạng lưới đường
bộ bổ sung cho mạng lưới đường sắt, phá thế cô lập các vùng ở xa (Bắc,
Đông, Bắc, Nam ) đầu tư xây dựng đập nước ở các vùng.
Thứ hai: Chính sách mở rộng diện tích canh tác và đa dạng hóa sản
phẩm như cao su ở vùng núi phía Nam, ngô, mía, bông, sắn, cây lấy sợi ở
vùng núi phía Đông Bắc.
Thứ ba: Đẩy mạnh công nghiệp hóa chế biến nông sản để xuất khẩu
như ngô, sắn sang các thị trường như Châu Âu và Nhật Bản.
Thứ tư: Thực hiện chính sách đầu tư nước ngoài và chính sách thay thế
nhập khẩu trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ. Nhà nước cũng thực hiện chính
sách trợ giúp tài chính cho nông dân như: Cho nông dân vay vốn với lãi suất
thấp, ứng trước tiền cho nhân dân, và cam kết mua sản phẩm với giá định
trước cùng với nhiều chính sách khác đã thúc đẩy vùng núi Thái Lan phát
triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Hàng năm có 95% sản lượng cao su, hơn
4 triệu tấn dầu cọ do nông dân sản xuất ra. Song trong quá trình thực hiện có
bộc lộ một số vấn đề còn tồn tại: Đó là việc mất cân bằng sinh thái, là hậu quả
của một nền nông nghiệp làm nghèo kiệt đất đai. Kinh tế vẫn mất cân đối giữa
các vùng, xu hướng nông dân rời bỏ nông thôn ra thành thị lâu dài hoặc rời bỏ

nông thôn theo mùa vụ ngày càng gia tăng.
1.2.2. Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta
Bắc Ninh: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Ninh
có nhiều nỗ lực trong thực hiện chủ trương cho hộ vay sản xuất, trở thành một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, đóng góp tích
cực vào công cuộc xây dựng và phát triển địa phương.[2]
13
Từ đó đến nay, hàng ngàn hộ nông dân trên địa bàn đã tiếp cận nguồn
vay vốn ngân hàng. Với thủ tục vay vốn càng đơn giản, thuận tiện, thời gian
nhanh, số tiền vay nhiều hơn, phong cách phục vụ tận tình, chu đáo hơn ngân
hàng đã luôn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các hộ nông dân thúc đẩy phát
triển trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng các mô hình trang trại tạo việc làm, thu
nhập ổn định, từng bước xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu.
Phong trào hộ nông dân thi đua sản xuất giỏi của Trung ương Hội Nông
dân Việt Nam phát động được các cấp hội và nông dân trong tỉnh Bắc Ninh
hưởng ứng. Các cấp hội nông dân xác định đây là phong trào trọng tâm, nòng
cốt có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
xây dựng nông thôn mới của hội viên. Thực hiện tốt phong trào này sẽ góp
phần xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Ninh Bình: Hội nông dân tỉnh Ninh Bình đang thực hiện nhiều phương
thức giúp người nông dân phát triển kinh tế hộ: hỗ trợ vốn cho nông dân
thông qua quỹ hỗ trợ nông dân của các cấp hội, phối hợp với ngân hàng chính
sách xã hội, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giúp cho hộ nông
dân vay vốn chăn nuôi, trồng trọt và phát triển sản xuất.[2]
Hội nông dân các cấp trong tỉnh đã thành lập được 848 “tổ tiết kiệm”
để thực hiện việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn đến từng nông dân được
công bằng và hiệu quả hơn. Những “tổ tiết kiệm” này sẽ cho các hộ nông dân
trong thôn, xóm vay để phát triển kinh tế theo hình thức quay vòng vốn, đến
nay đã có trên 40 nghìn hộ nông dân được hỗ trợ vay 340 tỷ đồng.
Hội nông dân tỉnh rất chú trọng tới việc mở các lớp tập huấn, chuyển

giao khoa học kỹ thuật giúp bà con có kiến thức và phương pháp để sử dụng
nguồn vốn có hiệu quả.



14
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, nội dung và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Nguồn thu và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tại các hộ
nông dân tại địa bàn xã Nhữ Hán.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Nhữ Hán.
- Nghiên cứu nguồn lực phục vụ sản xuất tại các nông hộ
- Phân tích các nhân tố chính tác động đến phát triển kinh tế của các
nhóm hộ
- Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế hộ tại địa phương.
2.1.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu tại xã Nhữ Hán
- Phạm vi thời gian:
+ Số liệu thứ cấp về tình hình chung được thu thập trong 3 năm 2011 - 2013
+ Số liệu khảo sát được điều tra năm 2013.
+ Thời gian thực tập từ ngày 31/1/2014 đến ngày 15/04/2014.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
2.2.1.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp.
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp là phương pháp thu thập các
thông tin, số liệu có sẵn hoặc từ các số liệu đã được công bố. Các thông tin
này thường được thu thập từ các cơ quan, tổ chức, văn phòng, dự án, các tài

liệu trên Internet…
Trong phạm vi đề tài này, phương pháp thu thập thông tin thứ cấp sử
dụng để có được các số liệu về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của xã Nhữ
Hán, tình hình sản xuất phát triển kinh tế của xã Nhữ Hán qua các năm.
2.2.1.2. Thu thập số liệu sơ cấp.
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp là phương pháp thu thập thông tin,
số liệu chưa từng được công bố, ở bất kỳ tài liệu nào người thu thập có được
15
thông tin qua tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nghiên cứu bằng các phương
pháp khác nhau như: Tìm hiểu, quan sát thực tế, đánh giá nông thôn, phỏng
vấn trực tiếp, phỏng vấn bán cấu trúc, …
Trong phạm vi đề tài này, để thu thập được các thông tin sơ cấp phục
vụ cho kết quả nghiên cứu, tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp các hộ nông dân
bằng bảng hỏi, với bộ câu hỏi này, số liệu thu thập trong quá trình điều tra
được tổng hợp bằng bảng biểu.
2.2.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
- Xử lý số liệu đã công bố: Dựa vào các số liệu đã được công bố,
tôi tổng
hợp, đối chiếu để chọn ra những thông tin phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài.
- Xử lý số liệu điều tra: Sử dụng phần mềm MICROSOFT EXCEL để
tập hợp, phân tích và sử lý thông tin, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế hộ và mối quan hệ giữa phát triển kinh tế hộ với các yếu tố về tự
nhiên, điều kiện sản xuất
2.2.3. Phân tích hồi quy và hàm sản xuất Cobb - Douglas
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng
trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng
lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài
nguyên và khoa học - công nghệ. [8,10]
Y = f(K, L, R, T)
Trong đó:

Y:

K:

L:
R:

T:
Đầu ra
Vốn sản xuất
Số lượng lao động
Nguồn tài nguyên thiên nhiên
Vốn nhân lực
Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb - Douglas, hàm này có dạng:
Y = T . Kα . Lβ . Rγ
Ở đây α, β, γ là các số lũy thừa, phản ảnh tỷ lệ cận biên của các yếu tố
đầu vào.
(α + β + γ = 1)
16
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý - hành chính.
Xã Nhữ Hán là một xã miền núi nằm ở phía Tây - Nam của huyện Yên
Sơn- tỉnh Tuyên Quang cách huyện lỵ Yên Sơn khoảng 17km. Có vị trí địa lý từ
22
0
04’27 đến 28

0
11’10; vĩ độ Bắc từ 105
0
07’07 đến 105
0
13’14. Xã có 15 xóm.
Phía Bắc giáp xã Phú Lâm, xã Hoàng Khai - huyện Yên Sơn.
Phía Nam giáp xã Đông Khê, xã Nghinh Xuyên, xã Hùng Quan thuộc
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
Phía Đông giáp xã Nhữ Khê, xã Đội Cấn huyện Yên Sơn.
Phía Tây giáp xã Mỹ Bằng huyện Yên Sơn.
3.1.1.2. Địa hình
Nhữ Hán có địa hình chia cắt mạnh, phức tạp, diện tích đồi núi nhiều
và xen kẽ với đất sản xuất nông nghiệp. Có những đỉnh núi cao, thấp dần về
phía nam đã hình thành nên các thung lũng đan xen chân đồi bát úp, nên đất
đai ở đây tương đối mầu mỡ thuận lợi cho sự phát triển cây trồng. Đất khu
dân cư và đất canh tác chủ yếu phân bố ở dưới chân thấp dọc theo suối và dọc
theo trục đường tỉnh lộ.
3.1.1.3. Khí hậu
Nhữ Hán nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa hè nóng
ẩm, mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình là 30
o
C, mùa
đông lạnh và khô hanh nhiệt độ trung bình là 15
o
C, nhiệt độ trung bình cao
nhất là tháng 6 và lạnh nhất vào tháng 2. Nằm trong khu vực nhiệt đới gió
mùa, có độ ẩm cao.

×