Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế hộ tại xã Tú Xuyên – Huyện Văn Quan – Tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.04 KB, 70 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Diễn giải
BQ Bình quân
BQLĐ Bình quân lao động
BQNNK Bình quân nhân khẩu
CC
Cơ cấu
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CN – TNCN
Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp
GO
Tổng giá trị sản xuất
GTSX
Giá trị sản xuất
GTSXNN
Giá trị sản xuất nông nghiệp
KT – XH
Kinh tế xã hội

Lao động
LĐNN
Lao động nông nghiệp
NK
Nhân khẩu
NKNN
Nhân khẩu nông nghiệp
NN
Nông nghiệp
SL


Số lượng
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, đời sống người dân đang ngày
càng được nâng cao. Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh đầy nghiệt
ngã, mỗi con người đều lựa chọn cho mình những cách làm giàu chính đáng,
đối với bà con nông dân tài sản quý giá trong tay không có gì hơn ngoài
những tấc đất, mảnh vườn, mẫu ruộng. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế
còn đang diễn biến phức tạp như hiện nay, nông nghiệp - nông dân - nông
thôn tiếp tục được khẳng định là một động lực quan trọng để giữ vững sự ổn
định và phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Nước ta hiện nay có trên 13 triệu dân, lực lượng này là nền tảng của kinh
tế, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, giữ vững an ninh chính trị - xã hội.
Kinh tế hộ gia đình đã đóng góp lớn cho kinh tế nông nghiệp, sản xuất lúa gạo
đạt tỷ suất hàng hóa khoảng trên 50%, cà phê 45%, cao su 85%, chè trên 60%,.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ hộ gia đình đang loay hoay trong
cảnh sản xuất tự cung tự cấp, thậm chí còn nhiều hộ sản xuất tự nhiên, nhất là ở
vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nền kinh tế hàng hóa phát triển đồng
thời dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Về lương thực thực phẩm, tỷ lệ hộ nghèo
cả nước là 28.9%, trong đó nông thôn chiếm 35.7% (thấp nhất là vùng Đông
Nam Bộ 22%, cao nhất là vùng Tây Bắc 68.7%). Hiện nay, cả nước vẫn còn trên
1 triệu hộ nghèo. Vì vậy, việc nghiên cứu các mô hình kinh tế hộ gia đình sản
xuất hàng hóa nhằm nâng cao năng lực sản xuất của các hộ kinh tế nông nghiệp
trong giai đoạn hiện nay là rất cấp thiết.
Mặc dù trong những năm qua kinh tế hộ đã đạt được những thành tựu
to lớn, song chính trong bản thân nó vẫn đang tồn tại những mâu thuẫn cơ bản

cần được giải quyết đó là:
Sản xuất trong kinh tế hộ hiện nay chủ yếu là họat động sản xuất nông
nghiệp, yêu cầu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất bị kìm hãm bởi diện
tích đất manh mún và quy mô nhỏ lẻ do kết quả của việc chia đất bình quân.
1
Mâu thuẫn giữa tăng dân số và thiếu việc làm, kết hợp với tính thời vụ
trong nông nghiệp tạo ra hiện tượng dư thừa lao động, dẫn đến năng suất lao
động bình quân thấp.
Tình trạng thiếu kiến thức, thiếu vốn đầu tư đang là tình trạng chung
của các hộ gia đình nên khi có chính sách cho vay vốn hộ cũng không biết sử
dụng sao cho có hiệu quả.
Những khó khăn này tồn taị chủ yếu ở các tỉnh miền núi, các vùng dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,…đã gây nhiều trở ngại cho tiến trình phát
triển của đất nước.
Tú Xuyên là một xã miền núi thuộc Huyện Văn Quan – Tỉnh Lạng Sơn
nền sản xuất của xã nói chung vẫn là dựa vào nông nghiệp. Kinh tế nông
nghiệp nói chung và kinh tế hộ của xã nói riêng đang phát triển theo đà phát
triển chung của cả nước nhưng nó cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn
tồn tại cần được giải quyết.
Tú Xuyên là một xã miền núi, đất đai rộng lớn chủ yếu là đất đồi núi,
trình độ sản xuất thấp, việc khai thác và sử dụng các nguồn lực của hộ nông
dân vẫn còn chưa tốt.
Vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân đang được cấp ủy Đảng, chính
quyền, đoàn thể các ngành và các nhà khoa học quan tâm. Những vấn đề cần
làm rõ là: Hiện trạng kinh tế hộ nông dân xã Tú Xuyên- Huyện Văn Quan-
Tỉnh Lạng Sơn ra sao? Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ
nông dân? Đó là một số vấn đề đặt ra cần nghiên cứu giải quyết.
Xuất phát từ thực trạng trên em xin tiến hành nghiên cứu đề tài:”Thực
trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế hộ tại xã Tú Xuyên –
Huyện Văn Quan – Tỉnh Lạng Sơn”.

2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu chung
- Đánh giá được thực trạng và tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân
tại xã từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề khó
khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế hộ tại xã trong thời gian tới.
2
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng phát triển kinh tế hộ tại xã Tú Xuyên.
- Phân tích những thuận lợi khó khăn, các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển
kinh tế hộ tại địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ tại địa bàn nghiên cứu.
3. Yêu cầu của đề tài
Đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế hộ và các đề xuất một
số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Tú Xuyên - Huyện
Văn Quan - Tỉnh Lạng Sơn.
4. Ý nghĩa của đề tài
4.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu.
- Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút ra bài học kinh nghiệm thực tế để
phục vụ trong công tác sau này.
- Vận dụng và phát huy được những kiến thức đã học tập và nghiên cứu.
- Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin của sinh viên
trong quá trình nghiên cứu.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn.
- Đánh giá được đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân xã Tú Xuyên.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân trong xã Tú Xuyên nói riêng, góp phần ổn định xã hội
nói chung.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA ĐỐI TƯỢNG

1.1. Cơ sở lý luận của đối tượng
1.1.1. Một số khái niệm về hộ, hộ nông dân và kinh tế hộ
Hộ nông dân đã có và tồn tại từ rất lâu đời, nó gắn liền với sự tồn tại
của xã hội loài người và trải qua nhiều hình thức khác nhau. Nó là một trong
những đối tượng được các nhà khoa học, các tổ chức trên các lĩnh vực khác
nhau quan tâm. Đứng ở mỗi góc độ khác nhau, họ đưa ra những quan điểm
khác nhau về hộ.
1.1.1.1. Khái niệm hộ
Trên phương diện thống kê, Liên Hợp Quốc cho rằng:”Hộ là tất cả
những người sống chung một mái nhà, cùng ăn chung và cùng chung một
ngân quỹ”.
Theo Raul Hunnena giáo sư đại học tổng hợp Lisbon thì :”Hộ là những
người cùng chung một huyết tộc, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá
trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính bản thân và cộng đồng”.
1.1.1.2. Khái niệm về hộ nông dân
“Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai
trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để
sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc
trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có xu hướng hoạt động
với mức độ không hoàn chỉnh cao”. [3]
“Nông hộ là tế bào kinh tế của xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong
nông nghiệp và nông thôn”. [7]
“Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa
rộng bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở nông
thôn”. [8]
“Hộ nông nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường
xuyên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi,
dịch vụ nông nghiệp (làm đất, thủy nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật,…)
và thông thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp”. [2]
1.1.1.3. Khái niệm kinh tế hộ nông dân

4
“Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã
hội, trong đó các nguồn lực đất đai, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi là
của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn
chung; mọi quyết định trong sản xuất – kinh doanh và đời sống là tùy thuộc
vào chủ hộ, được nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển” [6]
1.1.1.4.Khái niệm kinh tế hộ:
Tại điểm 1, mục II cả nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000:
“Kinh tế nông hộ là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp
nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao
hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản,
trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản”.
1.1.1.5. Phát triển:
Là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng trưởng mức sống của con
người và phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã hội.
1.1.1.6. Phát triển kinh tế:
“Trước hết là sự gia tăng nhiều hơn về số lượng và chất lượng sản
phẩm, sự đa dạng về chủng loại sản phẩm nền kinh tế” [1].
1.1.1.7.Phát triển nông thôn:
“Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện
sống về kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể là người nghèo ở vùng
nông thôn. Nó giúp những người nghèo nhất trong những người dân sống ở
các vùng nông thôn được hưởng lợi ích từ phát triển” [1].
1.1.1.8. Khái niệm phát triển bền vững:
Là một quá trình thay đổi bền vững có chủ ý về xã hội, kinh tế, văn hóa và môi
trường, nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người dân địa phương.
Phát triển ý tưởng của Liên Hợp Quốc, Ủy ban quốc tế về phát triển và
môi trường (1987) đã định nghĩa: “Phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế
hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ
tương lai”[1].

5
1.1.2. Vai trò của kinh tế hộ
Kinh tế hộ đã có từ lâu đời cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát triển.
Trải qua mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì kinh tế hộ biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, càng ngày nó càng khẳng định được tầm quan trọng và
vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế hộ là tế bào của xã hội, sự phát triển của nó giúp nâng cao đời
sống của người dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đổi mới công
nghệ sản xuất. Hộ là nơi tích lũy kinh nghiệm sản xuất truyền thống cũng là
nơi áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Khi chuyển sang sản xuất hàng hóa,
xuất hiện cạnh tranh thị trường, hộ buộc phải đổi mới công nghệ nhằm tạo ra
sản phẩm có chất lượng tốt hơn với giá thành rẻ hơn. Việc đổi mới công nghệ
trước hết phải nhằm khai thác tốt kinh nghiệm truyền thống từ lâu đời.
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế hộ
- Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu, quá trình quản lý và sử
dụng các yếu tố sản xuất. Sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung, nghĩa là mọi
thành viên trong hộ đều có quyền sở hữu với những tư liệu sản xuất vốn có,
cũng như các tài sản khác của hộ.Mặt khác dựa trên cơ sở kinh tế chung và có
cùng chung ngân quỹ nên mọi người trong hộ đều có ý thức trách nhiệm rất
cao và việc bố trí sắp xếp công việc cũng rất linh hoạt, hợp lý. Từ đó dẫn đến
hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nông hộ rất cao.
- Kinh tế hộ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh rất cao. Do kinh tế
hộ có quy mô nhỏ nên dễ điều chỉnh hơn so với các doanh nghiệp nông
nghiệp khác. Nếu gặp điều kiện thuận lợi hộ có thể tập trung mọi nguồn lực
vào sản xuất để mở rộng sản xuất, khi gặp điều kiện bất lợi họ dễ dàng thu
hẹp quy mô, thậm chí hộ có thể trở về sản xuất tự cung, tự cấp.
- Có sự gắn bó chặt chẽ giữa kết quả sản xuất với lợi ích người lao
động. Trong kinh tế hộ mọi người gắn bó với nhau cả trên cơ sở kinh tế lẫn
huyết tộc và có chung ngân quỹ nên dễ dàng có được sự nhất trí, sự đồng tâm

hiệp lực để cùng nhau phát triển kinh tế hộ của mình. Vì vậy có sự gắn bó
chặt chẽ giữa kết quả sản xuất với người lao động. Lợi ích kinh tế đã thực sự
6
trở thành động lực thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, là nhân tố nâng cao
hiệu quả sản xuất của kinh tế hộ.
- Kinh tế hộ là đơn vị sản xuất nhỏ nhưng lại rất hiệu quả, quy mô nhỏ
không đồng nghĩa với sự lạc hậu, năng suất thấp. Trên thực tế, nông hộ vẫn có
khả năng ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật và công nghệ mới để nâng cao năng
suất lao động.
- Kinh tế hộ nông dân sử dụng lao động và tiền vốn của chủ hộ là chủ yếu.
1.1.4. Phân loại hộ nông dân
Trong sản xuất nông nghiệp kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế
được phát triển từ thấp đến cao, từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Vì
vậy, nếu căn cứ vào mức độ phát triển kinh tế hộ ta có thể chia thành các
nhóm sau:
- Nhóm kinh tế hộ sinh tồn: Là dạng phát triển thấp của kinh tế hộ,các
hộ thuộc nhóm này chỉ sản xuất một số loại cây trồng vật nuôi nhằm duy trì
cuộc sống của gia đình họ. Họ hầu như không có hoặc có rất ít vốn, công cụ
sản xuất thì thô sơ, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp và họ tiến hành
sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
- Nhóm kinh tế hộ tự túc: Nhóm này sản xuất ra lương thực thực phẩm
cung cấp cho nhu cầu gia đình hàng ngày, sản xuất còn manh mún, lạc hậu
không chịu tìm tòi học hỏi, luôn bằng lòng với bản thân nên hiệu quả trong
sản xuất của hộ này còn rất thấp.
- Nhóm hộ sản xuất nhỏ: Trong quá trình sản xuất có một bộ phận nông
dân làm ăn khá giả, ngoài phần sản xuất để cung cấp cho bản thân còn thừa để
bán ra ngoài thị trường. Đây là nhóm hộ phần nào biết làm ăn, chịu khó học
hỏi nhưng vẫn chưa thực sự mạnh dạn đầu tư, vay vốn để làm ăn.
- Nhóm kinh tế hộ sản xuất hàng hóa lớn: Đây chính là những loại hộ
sản xuất hàng hóa, nên các hộ thuộc nhóm này đã biết đầu tư phát triển loại

hình kinh tế mang đặc trưng của mô hình kinh tế trang trại.
Trên đây là các nhóm hộ thuần nông. Các hộ có thu nhập chủ yếu từ
ngành trồng trọt và chăn nuôi. Đặc trưng của các hộ này là chịu ảnh hưởng
lớn của điều kiện tự nhiên. Ngoài các hộ thuần nông còn có hộ kiêm ngành
7
nghề, dịch vụ đây là những hộ ngoià sản xuất nông nghiệp còn biết tận dụng
những cái có sẵn của ông cha để lại như ngành nghề truyền thồng được kế
thừa từ đời này sang đời khác nhằm nâng cao thu nhập cho gia đình và tận
dụng lao động lúc nông nhàn ở nông thôn. Vì vậy, loại hình này có vốn để
đầu tư cho sản xuất kinh doanh và có kiến thức về thị trường.
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ
1.1.5.1. Nhóm yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý và đất đai
Vị trí địa lý có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và sự phát
triển của kinh tế hộ nông dân. Những hộ nông dân có vị trí địa lý thuận lợi
như: Gần đường giao thông, gần các cơ sở chế biến nông sản, gần thị trường
tiêu thụ sản phẩm, gần trung tâm các khu công nghiệp, đô thị lớn…sẽ có điều
kiện phát triển kinh tế.
Sản xuất chủ yếu của hộ nông dân là nông nghiệp. Đất đai là yếu tố
quan trọng nhất trong các tư liệu sản xuất của hộ nông dân. Cuộc sống của họ
gắn liền với ruộng đất. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay
thế trong quá trình sản xuất. Do vậy quy mô đất đai, địa hình và tính chất
nông hóa thổ nhưỡng có liên quan mật thiết tới từng loại nông sản phẩm, tới
giá trị sản phẩm và lợi nhuận thu được.
- Khí hậu thời tiết và môi trường sinh thái
Khí hậu thời tiết có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Điều
kiện thời tiết, khí hậu, lượng mưa, nhiệt độ, ánh sáng… có mối quan hệ chặt
chẽ đến sự hình thành và sử dụng các loại đất. Thực tế cho thấy ở những nơi
khí hậu thời tiết khí hậu thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi sẽ hạn chế những
bất lợi và rủi ro, có cơ hội để phát triển kinh tế.

Môi trường sinh thái cũng ảnh hưởng đến phát triển hộ nông dân, nhất
là nguồn nước. Bởi vì những loài cây trồng và gia súc tồn tại theo quy luật
sinh học, nếu môi trường thuận lợi cây trồng, con gia súc phát triển tốt, năng
suất cao còn ngược lại sẽ phát triển chậm, năng suất chất lượng giảm từ đó
dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp kém.
8
1.1.5.2.Nhóm nhân tố thuộc kinh tế và tổ chức, quản lý
Đây là nhóm nhân tố có liên quan đến thị trường và các nguồn lực chủ
yếu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung và phát
triển kinh tế hộ nông dân nói riêng.
- Trình độ học vấn và kĩ năng lao động
Người lao động phải có trình độ học vẫn và kĩ năng lao động để tiếp
thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật và kinh nghiệm sản suất tiên tiến. Trong
sản xuất, phải giỏi chuyên môn, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
Trong sản xuất phải giỏi chuyên môn, kỹ thuật trình độ quản lý mới mạnh dạn
áp dụng thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất nhằm mang lại lợi nhuận
cao. Điều này là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả trong sản
xuất kinh doanh của hộ, ngoài ra còn phải có những tố chất của người dám
làm kinh doanh.
- Vốn
Trong sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng, vốn là điều
kiện đảm bảo cho các hộ nông dân về tư liệu sản xuât, vật tư nông nghiệp cũng
như thuê nhân công để tiến hành sản xuất. Vốn là điều kiện không thể thiếu, là
yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Công cụ lao động
Công cụ lao động có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các biện
pháp kĩ thuật sản xuất. Muốn sản xuất có hiệu quả, năng suất cao cần phải sử
dụng công cụ phù hợp. Ngày nay với kĩ thuật canh tác tiên tiến, công cụ sản
xuất nông nghiệp đã không ngừng được cải tiến và đem lại hiệu quả cao trong
sản xuất. Năng suất cây trồng, vật nuôi không ngừng tăng lên, chất lượng sản

phảm tốt hơn. Do đó, công cụ sản xuất có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả và
hiệu quả sản xuất của các nông hộ.
- Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng chủ yếu trong nông nghiệp nông thôn bao gồm: Đường
giao thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống điện, nhà xưởng, trang thiết bị nông
nghiệp… Đấy là những yếu tố quan trọng trong phát triến sản xuất kinh tế của
9
hộ nông dân. Thực tế cho thấy nơi nào cơ sở hạ tầng phát triển thì ở đó sản xuất
phát triển, thu nhập tăng, đời sống của người dân được ổn định và cải thiện.
- Thị trường
Nhu cầu thị trường sẽ quyết định hộ sản xuất sản phẩm gì? Với số
lượng là bao nhiêu? Và theo tiêu chuẩn chất lượng như thế nào? Trong cơ chế
thị trường, các hộ nông dân hoàn toàn tự do lựa chọn loại sản phẩm mà thị
trường cần trong điều kiện sản xuất của họ. Từ đó, kinh tế hộ nông dân mới
có điều kiện phát triển.
1.1.5.3. Nhóm nhân tố thuộc khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Kỹ thuật canh tác
Do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng là khác nhau, với yêu
cầu giống cây, con giống khác nhau đòi hỏi phải có kĩ thuật canh tác khác nhau.
Trong nông nghiệp, tập quán, kỹ thuật canh tác của từng vùng, từng địa phương
có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế hộ.
- Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ
Sản xuất của hộ nông dân không thế tách rời những tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Vì nó đã tạo ra cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt.
Thực tế cho thấy những hộ nhạy cảm với những tiến bộ kĩ thuật về giống,
công nghệ sản xuất, hiểu biết thị trường, dám đầu tư lớn và chấp nhận những
rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, họ giàu lên rất nhanh. Nhờ có công nghệ
mà các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, sinh vật, máy móc và thời tiết
khí hậu kết hợp với nhau để tạo ra sản phẩm nông nghiệp. Như vậy, ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp có tác dụng thúc đẩy sản

xuất hàng hóa phát triển, thậm chí những tiến bộ kĩ thuật làm thay đổi hẳn
bằng sản xuất hàng hóa.
1.1.5.4. Nhóm nhân tố thuộc quản lý vĩ mô của Nhà nước
Nhóm nhân tố này bao gồm chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà
nước như: Chính sách thuế, chính sách ruộng đất, chính sách bảo hộ, trợ giá
nông sản phẩm, miễn thuế cho sản phẩm mới, chính sách vay vốn, giải quyết
việc làm, chính sách đối với những đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới…
các chính sách này có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế nông hộ là công
10
cụ đắc lực để Nhà nước can thiệp có hiệu quả vào sản xuất nông nghiệp, tạo
điều kiện cho các hộ nông dân phát triển kinh tế.
Tóm lại: Từ các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ nông dân có
thể khẳng định rằng: Hộ nông dân sản xuất tự cung tự cấp muốn phát triển
kinh tế cần phải phá vỡ kết cấu kinh tế khép kín của hộ để chuyển sang sản
xuất với quy mô lớn và chính sách kinh tế là tiền đề, là môi trường để đầu tư
đưa tiến bộ kĩ thuật mới vào sản xuất để kinh tế hộ nông dân hoạt động có
hiệu quả.
1.1.6. Chỉ tiêu phân loại nhóm hộ nghèo từ năm 2001 đến nay
Tiêu chí
Giai đoạn
Thông tư
quyết định
Nghèo Cận nghèo
Thành
thị
Nông
thôn
Thành thị Nông thôn
Năm 2001 –
2005

QĐsố
1143/2000/QĐ
–LĐTBXH
Dưới 150 Dưới 100
Năm 2006-
2010
QĐ số
170/2005/QĐ –
TTg
Dưới 260 Dưới 200
Năm 2011 –
2015
QĐ số
09/2011/QĐ –
TTg
Dưới 500 Dưới 400
501 - 650 401 - 520
Căn cứ vào quyết định ban hành chuẩn hộ nghèo, cận nghèo trên đồng
thời kết hợp với tiêu chí xét hộ nghèo ở xã Tú Xuyên, chia các hộ ra làm 3
nhóm như sau:
- Nhóm hộ khá-giàu: Là những hộ có mức thu nhập bình quân
520.000đ/người/tháng trở lên.
- Nhóm hộ trung bình: Là những hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 - 520.000đ/người/tháng.
- Nhóm hộ nghèo: Là những hộ có mức thu nhập bình quân dưới
400.000/người/tháng.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
11
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ ở thế giới
* Thái Lan

Trong những năm gần đây Thái Lan là một nước đứng đầu về xuất
khẩu gạo trên thế giới. Là một trong những nước nông nghiệp phát triển ổn
định. Ở Thái Lan kinh tế hộ phát triển mạnh và hầu hết là những nông trại sản
xuất hàng hoá. Để thúc đẩy kinh tế hộ phát triển chính phủ Thái Lan đã có
những điều tiết vĩ mô như sau: chính sách giá cả thị trường: Khi giá nông sản
thấp, chính phủ thường dung quỹ bình ổn giá cả bằng cách đặt mức giá tối
thiểu, tạo điều kiện dự trữ và điều tiết hạn ngạch xuất khẩu gạo, đặc biệt để
giảm bớt sự bóc lột của tầng lớp trung gian, thương nhân, chính phủ hạ thấp
giá mua vật tư, nâng giá bán buôn nông sản.
Về mặt thị trường chính phủ không ngừng nâng cấp và hoàn thiện hệ
thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, phát triển hệ thống đại lý tạo nên các
kênh phân phối liên tục từ nông thôn đến các thành phố lớn. Tăng cường
thông tin thị trường, quảng cáo và tổ chức các kháo đào tạo để nâng cao kiến
thức về thị trường cho người sản xuất. Chính sách đầu tư cho nông nghiệp:
Đầu tư cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể trong đầu tư của chính phủ và
tập trung vào 3 lĩnh vực lớn đó là: Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn
đối với các trung tâm kinh tế để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tươi
sống . Khoản đầu tư thứ hai mà chính phủ Thái Lan hết sức trú trọng đó là
xây dựng hệ thống thủy lợi. Bên cạnh đó chính phủ Thái Lan còn quan tâm
cung ứng phân bón cho các nông trại. Trong thời kì thực hiện cuộc “cách
mạng xanh” Thái Lan đã cho phép nhập khẩu phân bón không tính thuế.
chính sách tín dụng nông nghiệp: Thái Lan là nước thành công trong việc
cung cấp tín dụng nông nghiệp thông qua các tổ chức tín dụng như ngân hàng
quốc gia, ngân hàng thương mại, ngân hàng nông nghiệp và các hợp tác xã
nông nghiệp. Ngoài ra còn có các tổ chức phi chính phủ khác tham gia cung
cấp tín dụng cho nông dân với lãi suất phải chăng.
Malaysia: Mục tiêu của Malaysia là xây dựng một nền nông nghiệp
hiện đại, sản xuất hàng hóa có giá tri cao. Vì thế chính sách nông nghiệp của
Malaysia tập trung chủ yếu vào khuyến nông và tín dụng. Bên cạnh đó, chính
12

phủ Malaysia cũng trú trọng việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu nông sản.
Nhờ đó một vài năm gần đây kinh tế hộ của người dân nước này có thu nhập
cao và ổn định.
Trung Quốc:
Trung Quốc là một nước đông dân nhất thế giới với hơn 1,3 tỷ dân.
Chính vì vậy kinh tế hộ được chính phủ quan tâm hàng đầu. Trong 15 năm trở
lại đây kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Để đạt đực những thành tựu đó Trung Quốc đã đặc biệt coi trọng kinh tế hộ
với 3 mũi nhọn cơ bản đó là: Dựa vào đầu tư, chính sách, khoa học kĩ thuật.
+ Về chính sách: Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành giao quyền sử
dụng đất lâu dài cho hộ nông dân. Tiếp sau đó là chính sách khuyến khích mở
rộng ngành nghề dịch vụ, phát triển hàng hóa, khuyến khích các thành phần
kinh tế trong nông thôn cùng phát triển.
+ Về đầu tư: Đầu tiên là việc tiến hành nâng cấp cơ sở vật chất kĩ
thuật. Bên cạnh đó còn tăng cường đầu tư tài chính, mở nhiều hình thức tín
dụng để nông hộ có điều kiện vay vốn phát triển sản xuất.
+ Về chuyển giao khoa học kỹ thuật:
Việc kết hợp khoa học kỹ thuật với tiềm năng kinh tế đã huy động và tận
dụng mọi năng lực sẵn có trong dân đặc biệt là nguồn vốn tự bỏ ra để không
ngừng nâng cao mức sống của hộ và xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa.
Trên đây là những kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ ở một số nước
trong khu vực có điều kiện tự nhiên gần giống với nước ta. Qua việc tìm hiểu.
Xem xét những kinh nghiệm đó chúng ta có thể tìm thấy những bài học quý
giá, đồng thời xác định được sự khác biệt về đặc điểm kinh tế xã hội riêng của
nước mình để đưa ra những chủ trương, đường lối phát triển sao cho phù hợp.
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ ở một số địa phương trong nước
- Ninh Bình:
Hội nông dân Ninh Bình đang thực hiện nhiều phương thức giúp người
nông dân phát triển kinh tế hộ: hỗ trợ vốn cho nông dân thông qua quỹ hỗ trợ
nông dân của các cấp hội, phối hợp với ngân hàng chính sách xã hội , Ngân

13
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn giúp hộ nông dân vay vốn trồng
trọt, chăn nuôi và phát triển sản xuất.
Hội nông dân các cấp trong tỉnh đã thành lập được 848 “tổ tiết kiệm”
để thực hiện việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn đến với từng nông dân công
bằng và hiệu quả hơn. Những “tổ tiết kiệm” này sẽ cho các hộ nông dân trong
thôn, xóm vay để phát triển kinh tế theo hình thức quay vòng vốn, đến nay đã
có trên 40 nghìn hộ nông dân được hỗ trợ vay 340 tỷ đồng.
Hội nông dân tỉnh rất trú trọng tới việc mở các lớp tập huấn, chuyển
giao khoa học kỹ thuật giúp bà con có kiến thức và phương pháp để sử dụng
nguồn vốn có hiệu quả.
- Bắc Ninh:
Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Bắc Ninh có nhiều nỗ
lực trong thực hiện chủ trương cho hộ vay sản xuất, trở thành một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, đóng góp tích cực
vào công cuộc xây dựng và phát triển địa phương.
Từ đó đến nay, hàng ngàn hộ nông dân trên địa bàn đã được tiếp cận
nguồn vốn vay ngân hàng. Với thủ tục vay vốn ngày càng đơn giản, thuận
tiện, thời gian nhanh hơn, số tiền vay nhiều hơn, phong cách phục vụ tận tình,
chu đáo hơn, ngân hàng đã luôn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các hộ
nông dân thúc đẩy phát triển trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng các mô hình
trang trại tạo việc làm, thu nhập ổn định, từng bước xóa đói giảm nghèo, vươn
lên làm giàu.
- Hưng Yên: Tư tưởng cần phải chia ruộng tốt-xấu, xa-gần, cao-thấp để
đảm bảo công bằng của thời kì đầu nhận đất nông nghiệp khoán đến hộ nông
dân nay không còn phù hợp. Sự manh mún, nhỏ hẹp dó đã trở thành lạc hậu,
đang bị đẩy lùi để nhường chỗ cho cách làm tiên tiến hơn, đó là nông dân đang
rất cần những thửa ruộng đủ lớn, liền vùng, liền khoảnh để sản xuất, vươn tới
một nền nông nghiệp hàng hóa thực sự. Muốn vậy phải tích tụ ruộng đất.
Ruộng đất manh mún là nguyên nhân chính kìm hãm việc áp dụng cơ

giới hóa và tiến bộ khoa họckĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp, kìm hãm tiến
trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa cũng như tiêu thụ nông sản theo hợp
14
đồng. Chính vì thế, để phát huy những thành tựu đã đạt được sau khi dồn thửa
đổi ruộng năm 2003 cũng như khắc phục những hạn chế trong quá trình
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tiến đến xây dựng nền nông nghiệp phát triển
bền vững. Định hướng đến năm 2020, Ban thường vụ tỉnh ủy chỉ đạo tiếp tục
thực hiện dồn thửa đổi ruộng, khuyến khích tích tụ đất đai trên cơ sở thỏa
thuận, góp vốn bằng đất để sản xuất nông nghiệp theo đúng pháp luật. Cùng
với đó, tỉnh ban hành nhiều cơ chế, chính sách đồng bộ hỗ trợ cho chủ có
ruộng đất phát huy được tư liệu sản xuất. Lối mở này đang mở ra tương lai tốt
đẹp hơn cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của tỉnh, thêm cơ hội làm giàu và
từng bước giải phóng sức lao động cho người nông dân.
1.2.3. Xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở nước ta
Theo quy luật tất yếu của mọi sự vật hiện tượng thì nhu cầu của con
người ngày càng tăng trong khi đó nguồn lực sản xuất thì có giới hạn đặc biệt
là đất đai. Vì thế trong cơ chế kinh tế mới, nông nghiệp nông thôn sẽ phải có
những bước đi mới. Hiện nay ở nông thôn quá trình chuyển quyền sử dụng
đất và tích tụ đất dang diễn ra và dần diễn ra ở quy mô càng lớn hơn.Việc tích
tụ ruộng đất tạo điều kiện thuận lợi cho việc cơ giới hóa trong việc sản xuất
nông nghiệp, tiến tới một nền sản xuất hàng hóa với quy mô lớn. Cùng với xu
hướng chung của nền kinh tế nông nghiệp, để khẳng định mình kinh tế hộ có
thể phát triển theo 2 xu hướng sau:
+ Xu hướng 1: Một bộ phận nông dân sẽ trở thành các chủ thể sản xuất
kinh doanh độc lập, sẵn sàng chuyển từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng
hóa. Kết quả của quá trình tích tụ ruộng đất sẽ dẫn đến sự hình thành các
trang trại nông nghiệp, các trang trại này sẽ có điều kiện đầu tư tiến bộ khoa
học, kĩ thuật mới, đầu tư vốn đem lại lợi nhuận cao, đưa nền nông nghiệp
nước ta sang một giai đoạn mới.
+ Xu hướng 2: Một bộ phận nông hộ còn lại sau khi thực hiện quá trình

chuyển quyền sử dụng đất, sẽ chuyển lao động sang các ngành nghề phi nông
nghiệp hoặc đi làm thuê. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn là sự hình thành các dịch vụ kinh tế kỹ thuật, phục vụ
15
cho nghề nông thương phẩm và đời sống của dân cư nông thôn. Đây là quá
trình kinh doanh tách khỏi ruộng đất.
Ở nông thôn hiện nay, hiện tượng một số hộ chuyển quyền sử dụng đất
hoặc đi làm thuê đang diễn ra và dần tăng lên. Quá trình tích tụ ruộng đất càng rõ
nét ở đồng bằng Sông Cửu Long, còn ở đồng bằng sông Hồng sự tích tụ ruộng
đất chưa diễn ra trên quy mô hộ mà chỉ là các lao động trên cùng một hộ. Toàn
bộ ruộng đất chỉ do một hoặc hai lao động, đảm nhận, các lao động còn lại
chuyển sang làm ngành nghề khác.Đây là xu hướng chung của quá trình phát
triển kinh tế hộ nói riêng và kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung. Quá trình
chuyển đổi này chỉ là bước đi đầu tiên của nền nông nghiệp hiện đại, nó ra đời
đòi hỏi chính sự nỗ lực của bản thân nông hộ với sự kết hợp đồng bộ của hệ
thống chính sách về nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới.
1.2.4. Các bài học kinh nghiệm rút ra đối với phát triển kinh tế hộ nông
dân ở Việt Nam nói chung và cho xã Tú Xuyên nói riêng
* Đối với Việt Nam
Chủ trương, chính sách về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho
kinh tế hộ (đất nông nghiệp 20 năm, đất lâm nghiệp 50 năm) đã nhanh chóng
đi vào cuộc sống của hàng triệu hộ dân. Có như vậy các hộ nông dân mới yên
tâm sản xuất và tập trung đầu tư trên đất đai được giao lâu dài của mình.Từ đó
diện mạo của kinh tế hộ nông dân Việt Nam đã thay đổi một cách căn bản,
nhất là ngày càng có nhiều đóng gópcho việc giải phóng sức sản xuất, nâng
cao sản lượng nông nghiệp, mở mang ngành nghề mới, nâng cao thu nhập.
Trong kinh tế thị trường việc tìm ra cây gì, con gì để cho sản xuất hàng
hóa lớn đã khó, thì việc tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp
mấy năm gần đây cũng khó khăn không kém. Đã thế thị trường đầu vào của
sản xuất nông nghiệp biến động rất bất lợi cho các hộ nông dân, giá lên cao

liên tục, giao thông khó khăn, vốn ít nên gây khó khăn trong việc mua giá
thấp với khối lượng lớn(mua buôn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu những nhà
cung cấp tin cậy và ổn định và còn thiếu cả thông tin để có cơ hội lựa chọn
phương án tối ưu. Vì thế, để thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển, nhà
16
nước cần có chế độ chính sách hỗ trợ cho người nông dân về giá vật tư nông
nghiệp và thông tin về nhu cầu của thị trường.
Từ thực tế cho thấy để phát triển kinh tế hộ nông dân bền vững và có
hiệu quả cao cần phát triển theo chiều sâu, trên cơ sở phát triển khoa học nông
nghiệp, những tiến bộ kỹ thuật mới, nhất là lĩnh vực ứng dụng công nghệ sinh
hoc, công nghệ thông tin trong lựa chọn và tạo giống.
Cần phá vỡ tính tự phát trong sản xuất trong sản xuất nông nghiệp của
người nông dân, để làm được điều này nhà nước cần định hướng, hõ trợ, tư
vấn cho người nông dân trong phát triển kinh tế nông hộ.
Đối với xã Tú Xuyên:
Xã Tú Xuyên là một xã thuộc khu vực miền núi, so với các xã khác về
điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn thách thức về thiên tai , hạn hán lũ
lụt bất thường, mùa đông rét đậm rét hại kéo dài. Nhưng trên tinh thần đó,
được sự quan tâm của cấp ủy đảng, sự giám sát của hội đồng nhân dân cùng
với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ và nhân dân trên địa bàn xã đã đạt
được một số chỉ tiêu về phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội kinh tế tiếp tục phát triển và đời sống của người dân
từng bước được nâng lên, các vấn đề xã hội được giải quyết kịp thời. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém
như cơ sở hạ tầng nông thôn còn thấp kém , tỷ lệ hộ nghèo còn cao nên còn
ảnh hưởng nhiều về nền kinh tế - xã hội và mọi lĩnh vực liên quan đến sản
xuất. Để phá vỡ được tính tự phát trong sản xuất của người nông dân hạn chế
được những bất lợi cho các hộ nông dân, giá chi phí lên cao liên tục lại thiếu
những nhà cung cấp tin cậy và ổn định, thiếu thông tin để có cơ hội lựa chọn
tối ưu. Vì giao thông khó khăn, nguồn vốn có ít, việc bán sản phẩm với khối

lượng lớn nhưng giá cả thấp không tườn xứng với sản phẩm làm ra.
Nhà nước cần phát huy vai trò định hướng, hỗ trợ, tư vấn cho người
nông dân trong phát triển kinh tế hộ nông dân phải gắn liền với việc giải
quyết các vấn đề xã hội, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Coi
phát triển con người là động lực để phát triển sản xuất, phát triển xã hội và
tiến bộ xã hội thực hiện mục tiêu cơ bản của nhà nước đã đặt ra:”Dân giàu
17
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Nắm vững đường lối, chủ trương
của Đảng và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tế của xã để đẩy mạnh phát
triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân.Trong quá trình sản xuất
nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân, đang bộ UBND xã đã chỉ đạo các ban
ngành tìm mọi cách góp phần tăng năng suất cây trồng vật nuôi, xây dựng cơ
cấu giống cây trồng hợp lý, phù hợp với từng loại đất, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong canh tác.
Xã cần có chủ trương, giải pháp đúng đắn là khuyến khích nông dân
tích cực sản xuất, khai thác triệt để nguồn đất hiện có, thực hiện các chính
sách hỗ trợ cho người dân có thể mở rộng khai hoang ruộng đất, có chính sách
vay vốn hợp lý để người dân yên tâm đầu tư sản xuất. Tập trung thực hiện,
chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện chuyển dịch đất trồng lúa kém hiệu quả
sang trồng cây hoa màu khác thực hiện đa dạng cây trồng, vật nuôi.
Cán bộ khuyến nông xã Tú Xuyên xuống tận các hộ nông dân để tìm
hiểu những khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế của các hộ để có thể
giúp các hộ đưa ra các giải pháp khắc phục. Phát triển các ngành dịch vụ phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp để thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển.
18
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là kinh tế hộ nông dân của các dân tộc trên địa

bàn xã Tú Xuyên - Huyện Văn Quan- Tỉnh Lạng Sơn.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu kinh tế hộ gia đình tại xã Tú Xuyên – Huyện Văn Quan –
Tỉnh Lạng Sơn.
2.1.2.1. Không gian
Đối tượng nghiên cứu 3 thôn: Bó Cáng, Hang Nà, Lũng Cải thuộc xã
Tú Xuyên mang những đặc trưng đại diện cho xã.
2.1.2.2. Thời gian
- Đề tài tập trung nghiên cứu, thu thập số liệu về sự phát triển kinh tế
hộ từ năm 2011-2013, số liệu khảo sát thực trạng được điều tra năm 2013.
- Thực tập từ tháng 2/2014 đến tháng 5/2014
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng tình hình phát triển kinh tế của các hộ tại
xã Tú Xuyên.
- Đánh giá quá trình sản xuất kinh doanh của các nhóm hộ điều tra.
- So sánh các nguồn lực và mức độ đầu tư giữa các hộ.
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển
của hộ nông dân.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân tại
địa phương.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
2.3.1.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Tài liệu thu thập được từ ủy ban nhân dân xã Tú Xuyên, các tổ chức xã
hội trong xã, các công trình khoa học, các báo cáo của cơ quan chức năng về
mặt dân số, lao động, đất đai, vốn và kết quả sản xuất kinh doanh. Tình hình
19
hộ nông dân như sản xuất, đời sống, nguồn vốn, việc làm, mở rộng ngành
nghề phi nông nghiệp, nhà ở, trình độ văn hóa,…
Thu thập số liệu từ các báo cáo tổng kết năm của UBND xã Tú Xuyên

thu thập thông tin từ tạp chí, tổng hợp từ internet…
2.3.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện qua những phương pháp sau:
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Chọn hộ điều tra: Sau khi khảo sát điều tra tình hình kinh tế, dân số,
chính trị,…của xã Tú Xuyên tôi thấy có 3 thôn: Bó Cáng, Hang Nà, Bản Mù
là 3 thôn mang những nét đặc trưng đại diện được chọn để tiến hành điều tra.
Những tiêu chí và kết quả lựa chọn thôn:
Thôn Bó Cáng Thôn Lũng Cải Thôn Hang Nà
- Dân số đông nhất toàn xã.
- Nằm xa trung tâm xã.
- Trình độ dân trí thấp.
- Đời sống người dân còn
gặp nhiều khó khăn.
- Thuần nông là chủ yếu.
- Dân số thấp nhất xã.
- Nằm xa trung tâm xã.
-Trình độ dân trí khá cao.
- Đời sống người dân còn
hạn chế.
- Các hộ làm nông nghiệp
kiêm ngành nghề như
làm gạch.
- Dân số khá đông.
- Nằm gần trung tâm
xã.
- Dân trí khá cao.
-Đời sống người dân
đa phần khá giả.
- Các hộ chủ yếu là

cán bộ viên chức,
làm nông nghiệp
kiêm ngành nghề
như sửa chữa và
kinh doanh.
Kết quả chọn hộ: Toàn xã có 625 hộ trong đó tỷ lệ hộ nghèo chiếm
34,56%, cận nghèo chiếm 31,52%, trung bình chiếm 21,76% và 12,16% hộ
khá. Dựa vào đó tôi chọn 60 hộ điều tra tương ứng với 3 thôn mang tính đại
diện cho xã dựa trên tỷ lệ nhóm hộ khá, trung bình, cận nghèo và nghèo của
xã. Số lượng hộ điều tra bao gồm 8 hộ khá, 14 hộ trung bình, 18 hộ cận nghèo
và 20 hộ nghèo.
20
- Xây dựng phiếu điều tra: Phiếu điều tra được xây dựng cho hộ điều
tra, nội dung của phiếu điều tra bao gồm những thông tin chủ yếu về tên giới
tính, dân tộc, trình độ học vấn, tình hình hoạt động sản xuất, giá cả và đời
sống cũng như nhận thức của hộ…
+ Phương pháp PRA
Trực tiếp tiếp xúc với người dân tại địa bàn nghiên cứu đặt ra những
câu hỏi, những vấn đề người dân quan tâm từ đó tiến hành đàm thoại, phỏng
vấn nhằm thu những thông tin, nắm được thực trạng của sản xuất, kinh doanh,
đời sống vật chất tinh thần, những khó khăn và nhu cầu của người dân.
+ Phân tích SWOT
Xác định những thuận lợi và khó khăn bằng cách phân tích những ảnh
hưởng bên trong (mặt mạnh, mặt yếu) và những ảnh hưởng bên ngoài (cơ hội,
thách thức) mà nó tác động đến quá trình phát triển.
2.3.2. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
Từ các nguồn số liệu điều tra thu thập được trên địa bàn nghiên cứu, tôi
tiến hành tổng hợp, xử lý và phân tích số liệu.
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá và tổng hợp, phương
pháp so sánh.

Toàn bộ số liệu sau điều tra và thu thập được lưu giữ và xử lý bằng
phần mềm Excel.
2.4. Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình kinh tế
Trong quá trình xử lý số liệu để đánh giá tình hình phát triển của kinh
tế hộ tôi có sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Tổng giá trị sản xuất: GO (Gross Output) là toàn bộ các giá trị hàng hóa
và dịch vụ do các hộ đạt được trong một thời gian nhất định (thường là 1
năm). Là tổng thu của hộ.
Công thức tính:
GO =∑Qi * Pi
Trong đó:
Qi: Số lượng sản phẩm thứ i
Pi: Giá bán sản phẩm thứ i
21
GO: Tổng giá trị của cải vật chất hộ thu được
Chi phí trung gian (Intermediate Costs) Chi phí trung gian là toàn bộ
các khoản chi phí vật chất và dich vụ được sử dụng trong quá trình sinh hoạt,
sản xuất ra sản phẩm trong một thời kỳ nhất định.
Công thức tính:
IC=∑Ci
Trong đó:
Ci là các khoản chi phí thứ i trong quá trình sản xuất.
Giá trị gia tăng: VA (Valu-Added) là chỉ số phản ánh kết quả cuối cùng
của quá trình sản xuất kinh doanh.
Công thức tính:
VA=GO-IC
Trong đó:
GO là giá trị sản xuất
IC là chi phí trung gian
Giá trị gia tăng (VA) phản ánh bộ phận giá trị mới tạo ra của các hoạt

động sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà những người lao động của hộ làm ra.
Giá trị gia tăng/người/tháng: Chỉ số phản ánh mức thu nhập của hộ
trong năm.
Giá trị tích lũy của hộ: Là chỉ số phản ánh giá trị tích lũy được của hộ
sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất và sinh hoạt.
Công thức tính:
Giá trị tích lũy= VA-chi phí sinh hoạt
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung về địa bàn nghiên cứu
22

×