ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CHUỖI GIÁ TRỊ NGÀNH SẢN XUẤT
CHÈ CÀNH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ AN KHÁNH
HUYỆN ĐẠI TỪ - TỈNH THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên nghành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2010 – 2014
Thái Nguyên, 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CHUỖI GIÁ TRỊ NGÀNH SẢN XUẤT
CHÈ CÀNH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ AN KHÁNH
HUYỆN ĐẠI TỪ - TỈNH THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên nghành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn : Th.S Trần Cương
Khoa Kinh tế & PTNT – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Thái Nguyên, 2014
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực
tiễn” của các trường chuyên nghiệp nói chung và trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên nói riêng. Thực tập tốt nghiệp là bước quan trọng của sinh
viên cuối khóa. Đây là giai đoạn rất quan trọng nhằm củng cố kiến thức đã
học trên ghế nhà trường đồng thời nâng cao kỹ năng thực hành.
Được sự nhất trí của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, ban
chủ nhiệm khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn, tôi đã tiến hành thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu chuỗi giá trị ngành sản xuất chè cành trên địa bàn
xã An Khánh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”
.
Trong thời gian thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các
thầy cô giáo trong khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn và đặc biệt là sự giúp
đỡ nhiệt tình của giảng viên ThS. Trần Cương, cùng sự giúp đỡ tận tình của các
bộ tại Ủy ban Nhân dân xã An Khánh. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc tới các thầy cô giáo cùng toàn thể các cán bộ UBND xã An Khánh.
Với trình độ và thời gian có hạn, do đó bản đề tài của tôi không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô để bản đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 8 tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Hương
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
1.2.1. Mục tiêu chung 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 3
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3
PHẦN 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
2.1. Cơ sở lý luận 4
2.1.1. Cơ sở lý luận về chuỗi giá trị 4
2.1.2. Cơ sở lý luận về cây chè 12
2.2. Cơ sở thực tiễn 16
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới và Việt Nam 16
2.2.1.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới 16
2.2.1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè ở Việt Nam 20
2.2.1.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè ở Thái Nguyên 25
2.2.2. Bài học kinh nghiệm 28
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 31
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 31
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 31
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 31
3.2. Nội dung nghiên cứu 31
3.3. Phương pháp nghiên cứu 32
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 32
3.3.1.1. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 32
3.3.1.2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 32
3.3.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu 33
3.3.3. Phương pháp phân tích số liệu 33
3.3.3.1. Phương pháp phân tổ thống kê 33
3.3.3.2. Phương pháp so sánh 33
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
4.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã An Khánh huyện
Đại Từ 34
4.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 34
4.1.1.1. Vị trí địa lý 34
4.1.1.2. Địa hình 34
4.1.1.3. Thời tiết, khí hậu 34
4.1.1.4. Thủy văn 35
4.1.1.5. Tài nguyên thiên nhiên 35
4.1.2. Đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội 36
4.1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế 36
4.1.2.2. Dân số và lao động 39
4.1.2.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn của xã An Khánh 41
4.1.2.4. Văn hóa, y tế, giáo dục 42
4.1.3.1. Về thuận lợi 44
4.1.3.2. Về khó khăn 44
4.2. Tình hình phát triển ngành trồng trọt và thực trạng phát triển chè
trên địa bàn xã An Khánh 45
4.2.1 Tình hình chung 45
4.2.2. Thực trạng sản xuất chè cành trên địa bàn xã An Khánh 46
4.3. Thực trạng chuỗi giá trị ngành hàng chè cành trên địa bàn 50
4.3.1. Cấu trúc thị trường chè cành tại xã An Khánh 50
4.3.2. Phân tích những tác nhân trong chuỗi giá trị ngành sản xuất chè
cành tại xã An Khánh 51
4.3.2.1. Hộ sản xuất 51
4.3.2.2. Trung gian thị trường 55
4.3.2.3. Người tiêu dùng 57
4.4. Chi phí sản xuất trong chuỗi giá trị chè cành 57
4.4.1. Hộ trồng chè 57
4.4.2. Chi phí thu mua và bán chè của người thu gom và người bán buôn 59
4.4.3. Chi phí thu mua và bán chè của doanh nghiệp 60
4.4.4. Sự phân chia lợi nhuận của các tác nhân trong chuỗi giá trị
chè cành 61
4.5. Tiếp nhận thông tin, cung ứng các dịch vụ đầu vào của các hộ
điều tra 64
4.5.1. Tiếp nhận thông tin, tập huấn kĩ thuật của hộ sản xuất chè cành 64
4.5.2. Cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất chè cành 66
4.5.2.1. Cung ứng cây giống 66
4.5.2.2. Cung ứng thuốc bảo vệ thực vật 66
4.5.2.3. Cung ứng phân bón 67
4.5.2.4. Cung ứng máy móc thiết bị phục vụ sản xuất 68
4.6. Những yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ chè cành 68
4.6.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất chè cành 68
4.6.2. Phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) trong
sản xuất chè cành 69
4.7. Đánh giá chung về thuận lợi khó khăn của các tác nhân trong chuỗi
giá trị chè cành trên địa bàn xã An Khánh huyện Đại Từ 71
4.7.1. Về thuận lợi 71
4.7.2. Về khó khăn 71
4.8. Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện và phát triển chuỗi giá trị
sản xuất chè cành 72
4.8.1. Những định hướng 72
4.8.2. Những giải pháp 73
4.8.2.1. Giải pháp đảm bảo quy trình kĩ thuật 73
4.8.2.2. Giải pháp về vốn 73
4.8.2.3. Giải pháp về thị trường, sự liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi
giá trị 74
4.8.2.4. Giải pháp về quản lý và tổ chức sản xuất 75
4.8.2.5. Về công tác tuyên truyền 76
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 77
5.1. Kết luận 77
5.2. Kiến nghị 78
5.2.1. Kiến nghị đối với cấp tỉnh 78
5.2.2. Kiến nghị đối với cấp huyện 78
5.2.3. Kiến nghị đối với cấp xã 79
5.2.4. Kiến nghị đối với hộ sản xuất 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
I. Tài liệu tiếng Việt 80
II. Tài liệu từ Internet 80
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng chè một số nước trên thế giới
năm 2013 16
Bảng 2.2: Số liệu xuất khẩu chè tháng 9 và 9 tháng năm 2013 25
Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất của xã An Khánh năm 2013 35
Bảng 4.2: Kết quả sản xuất của xã qua 3 năm 2011 - 2013 37
Bảng 4.3: Tình hình dân số và lao động của xã năm 2011-2013 40
Bảng 4.4: Diện tích, năng xuất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu 45
giai đoạn 2011 – 2013 45
Bảng 4.5: Diện tích chè của xã qua 3 năm 2011 – 2013 47
Bảng 4.6: Diện tích, năng suất, sản lượng chè của xã qua 3 năm
2010 - 2013 49
Bảng 4.7: Đặc điểm chung của các hộ điều tra 52
Bảng 4.8: Phương tiện phục vụ sản xuất chè của các hộ điều tra năm 2013
53
Bảng 4.9: Nguồn vốn sản xuất trung bình của các hộ điều tra 54
Bảng 4.10: Tình hình lao động của các hộ điều tra năm 2013 55
Bảng 4.11: Chi phí sản xuất bình quân của các hộ điều tra/ sào năm 2013 58
Bảng 4.12: Bảng hạch toán lợi nhuận bình quân của hộ trồng chè 59
Bảng 4.13: Chi phí thu mua và bán chè của người thu gom và người
bán buôn 60
Bảng 4.14: Chi phí thu mua và bán chè của doanh nghiệp 61
Bảng 4.15: Sự hình thành giá qua các tác nhân khác nhau trong chuỗi
giá trị chè cành 62
Bảng 4.16: Tình hình nắm bắt thông tin về chỉ đạo sản xuất của các hộ
trồng chè cành 65
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Trang
Hình 4.1: Biểu đồ diện tích chè của xã qua 3 năm 2011 – 2013 48
Hình 4.2: Biểu đồ
phương tiện phục vụ sản xuất chè của các hộ
điều tra năm 2013 53
Hình 4.3: Biểu đồ sự hình thành giá qua các tác nhân khác nhau trong
chuỗi giá trị chè cành (Kênh 1) 62
Hình 4.4: Biểu đồ sự hình thành giá qua các tác nhân khác nhau trong
chuỗi giá trị chè cành (Kênh 2) 63
Hình 4.5: Biểu đồ tình hình nắm bắt thông tin về chỉ đạo sản xuất của các
hộ trồng chè cành 65
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 4.1: Chuỗi giá trị ngành hàng chè cành tại xã An Khánh 50
Sơ đồ 4.2: Các kênh tập huấn kỹ thuật cho lao động tham gia sản xuất chè 64
Sơ đồ 4.3: Chuỗi cung cấp thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất chè cành 67
Sơ đồ 4.4: Chuỗi cung cấp phân bón trong sản xuất chè cành 67
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, nông nghiệp được xác định là ngành mũi nhọn trong
chiến lược phát triển nền kinh tế của đất nước. Trong những năm qua, ngành
nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn, đóng góp một phần
quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bên cạnh sự lớn mạnh của
ngành chăn nuôi ở nước ta thì ngành trồng trọt cũng ngày càng khẳng định
được vị trí của mình từng bước vươn lên cải tiến cách thức sản xuất, nâng cao
chất lượng và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Trồng trọt không chỉ cung cấp, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
mà còn mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu tới các nước trên thế giới,
điển hình là các mặt hàng như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su và một trong
những mặt hàng không thể không nhắc tới đó là chè.
Chè là cây công nghiệp thế mạnh ước đã có ở nước ta từ rất lâu đời,
với điều kiện tự nhiên thích hợp cho cây chè phát triển, cây chè ở Việt Nam
luôn cho năng xuất, sản lượng tương đối ổn định và có giá trị kinh tế cao, là
một cây trồng thế mạnh trong xuất khẩu cũng như tạo việc làm thu nhập
cho hàng nghìn người lao động. Nước chè là thức uống tốt, rẻ tiền hơn cà
phê, ca cao, có tác dụng giải khát, chống lạnh, kích thích hoạt động của hệ
thần kinh, hệ tiêu hóa… Chính vì các đặc tính ưu việt trên chè đã trở thành
một sản phẩm đồ uống trên toàn thế giới. Hiện nay, trên thế giới có 58
nước trồng chè, 115 nước sử dụng chè làm đồ uống nhu cầu tiêu thụ chè
trên thế giới ngày càng tăng. Đây chính là lợi thế tạo điều kiện cho việc sản
xuất ngày càng phát triển.
Thái Nguyên là vùng chè trọng điểm của cả nước với tổng diện tích
chè hơn 18.500 ha, 9 huyện thành thị đều có sản xuất chè. Riêng huyện Đại
Từ nằm ở vùng tây bắc của tỉnh Thái Nguyên, là vùng đất mưa thuận gió
hòa, đất đai màu mỡ, phù hợp với nhiều loại cây trồng đặc biệt là cây chè,
toàn huyện có 30/31 xã, thị trấn trồng chè. Đại Từ tạo dựng được cả một
vùng chè lớn nhất tỉnh với diện tích đến hết năm 2013 là trên 5.380 ha
2
chiếm 30% tổng diện tích chè của toàn tỉnh, đứng thứ 2 so với các huyện
trong cả nước (sau huyện Bảo Lâm-tỉnh Lâm Đồng) [1].
An Khánh là một xã nằm ở cực đông của huyện Đại Từ tỉnh Thái
Nguyên, ngành sản xuất chè cành là cây trồng mang lại nguồn thu nhập
tương đối ổn định, cũng có thể nói chè cành là nguồn thu nhập chính của
người dân xã An Khánh- Đại Từ, tuy nhiên người dân vẫn gặp phải nhiều
khó khăn trong quá trình sản xuất và nhất là khó khăn trong quá trình tiêu
thụ. Trong nền kinh tế thị trường, với xu hướng hội nhập, người sản xuất
không chỉ quan tâm đến thị trường tiêu dùng trong nước mà còn hướng tới
thị trường xuất khẩu. Từ đó, hình thành nên các chuỗi trong các ngành
hàng. Riêng ngành sản xuất chè cành, các chuỗi đã bắt đầu được hình thành
nhưng còn đơn giản, có ít các tác nhân tham gia
Sự liên kết và trách nhiệm của các tác nhân trong kênh tiêu thụ chưa
hình thành nên khái niệm về chuỗi hàng hóa dịch vụ còn mang tính lý
thuyết. Mặt khác, sản xuất chè hiện nay còn manh mún, đơn lẻ và tự phát,
thiếu các mối liên kết gần gũi thân thiện giữa những người sản xuất với nhà
cung ứng các hàng hóa dịch vụ đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm. Hay
nói cách khác, mối liên kết, sự tương tác nhiều mặt giữa các tác nhân tham
gia và trách nhiệm của họ trong chuỗi cung ứng các hàng hóa dịch vụ đầu
vào và tiêu thụ sản phẩm với người sản xuất còn yếu. Đây là hạn chế rất
lớn tới việc giảm chi phí sản xuất, tối đa hóa lợi ích kinh tế của từng tác
nhân trong chuỗi cũng như khó khăn trong phát triển mở rộng quy mô, tăng
diện tích chè.
Việc nghiên cứu chuỗi giá trị đang mở ra một hướng nghiên cứu mới
cho tác nhân tham gia trong chuỗi. Đặc biệt với những hộ nông dân – người
được coi là đối tượng luôn thiếu những thông tin trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Thực tế cho thấy đã có lúc người dân gặp nhiều khó khăn trong
hoạt động kinh doanh. Đã có nhiều quan điểm cho rằng phát triển nông thôn
chỉ đơn thuần là việc nâng cao năng suất vật nuôi, cây trồng mà quên mất một
điều quan trọng rằng những sản phẩm đó tiêu thụ ở đâu? Thị trường có ổn
định không? Họ sẽ được lợi gì khi tham gia vào quá trình đó?
Hàng loạt các câu hỏi đã được đặt ra buộc chúng ta phải có cái nhìn
đúng hơn trong công cuộc phát triển nông nghiệp nông thôn. Xuất phát từ
3
những lí do trên, tôi xin chọn đề tài: “Nghiên cứu chuỗi giá trị ngành sản
xuất chè cành trên địa bàn xã An Khánh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên”. Với mong muốn cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho các
hộ nông dân cũng như các tác nhân trong chuỗi giá trị đó để có thể phát
triển ngành sản xuất chè cành, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân
trong quá trình sản xuất.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các tác nhân
trong chuỗi giá trị ngành sản xuất chè cành tại xã An Khánh huyện Đại Từ,
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết một số vấn đề tác nhân
nông dân sản xuất chè cành đang gặp phải.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa được lý luận và thực tiễn về phân tích chuỗi giá trị nói
chung và chuỗi giá trị chè cành nói riêng.
Lập sơ đồ chuỗi giá trị.
Đánh giá được thực trạng hoạt động và mối quan hệ giữa các tác
nhân tham gia trong chuỗi giá trị sản xuất chè cành trong thời gian qua.
Phát hiện được những tồn tại và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát
triển chuỗi giá trị chè cành.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hình thành, hoàn thiện và phát triển
chuỗi giá trị ngành sản xuất chè cành trong những năm tới.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Củng cố kiến thức từ cơ sở đến chuyên ngành đã học trong trường,
ứng dụng kiến thức đó trong thực tiễn.
Rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin và xử lý số liệu, viết báo cáo.
Giúp hiểu thêm về tình hình sản xuất chè cành trên địa bàn xã An
Khánh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Nhận thấy những gì đã làm được và chưa làm được khi đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất chè, góp phần tăng thu nhập,
nâng cao hiệu quả kinh tế cho các tác nhân trong chuỗi giá trị.
Là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên khóa sau có cùng hướng
nghiên cứu.
4
PHẦN 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Cơ sở lý luận về chuỗi giá trị
2.1.1.1. Những khái niệm cơ bản
a. Chuỗi sản xuất – cung ứng
Thuật ngữ chuỗi cung ứng sử dụng để mô tả các kênh phân phối
hoặc kênh thị trường qua đó sản phẩm được chuyển tới tay người tiêu
dùng. Người nông dân ít khi bán trực tiếp sản phẩm của mình cho người
tiêu dùng. Sau khi rời khỏi trang trại, các sản phẩm thường được chuyển
qua rất nhiều đại lý khác nhau (qua các kênh thị trường khác nhau) trước
khi đến với người tiêu dùng cuối cùng. Chuỗi sản xuất hoặc thị trường đề
cập tới hệ thống bao gồm các tác nhân và tổ chức, quan hệ, chức năng và
sản phẩm, tiền và dòng giá trị tạo nên sự luân chuyển hàng hóa hoặc dịch
vụ từ người sản xuất tới người tiêu dùng cuối cùng. Một chuỗi sản xuất
được tạo nên từ các mối liên kết nội bộ là sản xuất nói chung, sau thu
hoạch và chế biến, tiếp thị và tiêu dùng [1].
b. Chuỗi giá trị
Theo Kaplinsky và Morris (2001): Chuỗi giá trị là một loạt các hoạt
động cần thiết để biến một sản phẩm hoặc một dịch vụ từ lúc còn là khái
niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau, đến khi phân phối đến
người tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng. Một chuỗi giá trị
tồn tại khi tất cả những người tham gia trong chuỗi hoạt động và có trách
nhiệm tạo ra giá trị tối đa trong toàn chuỗi [2].
Trong chuỗi giá trị có “chức năng” của chuỗi và cũng được gọi là
các “khâu” trong chuỗi. Các khâu chúng ta có thể mô tả cụ thể bằng các
“hoạt động” để thể hiện rõ công việc của các khâu. Bên cạnh các chức năng
của chuỗi giá trị chúng ta có các “tác nhân”. Tác nhân là những người thực
hiện các chức năng trong chuỗi, ví dụ như các nhà cung cấp đầu vào cho
sản xuất, người chăn nuôi, người vận chuyển hàng hóa…Bên cạnh các tác
nhân trong chuỗi giá trị chúng ta còn có các “nhà hỗ trợ chuỗi giá trị”.
5
Nhiệm vụ của các nhà hỗ trợ chuỗi giá trị là giúp phát triển chuỗi bằng
cách tạo điều kiện nâng cấp chuỗi giá trị [4].
Chúng ta có thể hiểu khái niệm này theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: chuỗi giá trị là một phức hợp những hoạt động do
nhiều người tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người
chế biến, thương nhân, người cung cấp dịch vụ…) để biến một nguyên liệu
thô thành phẩm được bán lẻ. Chuỗi sản xuất rộng bắt đầu từ hệ thống sản
xuất nguyên liệu thô. Kết quả của chuỗi có được khi sản phẩm đã được bán
cho người tiêu dùng cuối cùng [2].
Theo nghĩa hẹp: chuỗi giá trị là một khối liên kết dọc hoặc một mạng
liên kết giữa một số tổ chức kinh doanh độc lập trong một chuỗi sản xuất.
Hay nói cách khác một chuỗi giá trị gồm một loạt các hoạt động thực hiện
trong một đơn vị sản xuất để sản xuất ra một sản phẩm nhất định. Tất cả
các hoạt động này tạo thành một “chuỗi” kết nối người sản xuất với người
tiêu dùng, mặt khác, mỗi hoạt động lại bổ xung giá trị cho sản phẩm cuối
cùng [2].
Như vậy, khái niệm về chuỗi giá trị bao hàm cả tổ chức và điều phối,
các chiến lược và quan hệ quyền lực của những người tham gia khác nhau
trong chuỗi. Ngoài ra, chuỗi giá trị còn gắn liền với khái niệm quản trị vô
cùng quan trọng đối với những nhà nghiên cứu quan tâm đến các khía cạnh
xã hội và môi trường trong phân tích chuỗi giá trị. Bởi vậy, khi nghiên cứu
chuỗi giá trị, đòi hỏi một phương pháp tiếp cận thấu đáo về những gì đang
diễn ra giữa những người tham gia trong chuỗi, những gì liên kết họ với
nhau, những thông tin nào được chia sẻ, quan hệ giữa họ được hình thành
và phát triển như thế nào. Qua đó, giúp chúng ta xác định được những khó
khăn của từng khâu trong chuỗi, để từ đó có các giải pháp khắc phục để sản
phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường và phát triển bền vững.
c, Ngành hàng
Vào những năm 1960 phương pháp phân tích ngành hàng (Filiere) sử
dụng nhằm xây dựng các giải pháp thúc đẩy các hệ thống sản xuất nông
nghiệp. Các vấn đề được quan tâm nhiều nhất đó là làm thế nào để các hệ
thống sản xuất tại địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến,
thương mại, xuất khẩu và tiêu dùng nông sản. Bước sang những năm 1980,
6
phân tích ngành hàng được sử dụng và nhấn mạnh vào giải quyết các vấn đề
chính sách của ngành nông nghiệp, sau đó phương pháp này được phát triển
và bổ sung thêm sự tham gia của các vấn đề thể chế trong ngành hàng [8].
Đến những năm 1990, có một khái niệm được cho là phù hợp hơn
trong nghiên cứu ngành hàng nông sản do J.P Boutonnet đưa ra đó là:
"Ngành hàng là một hệ thống được xây dựng bởi các tác nhân và các hoạt
động tham gia vào sản xuất, chế biến, phân phối một sản phẩm và bởi các
mối quan hệ giữa các yếu tố trên cũng như với bên ngoài" (J.P Boutonnet,
INRA.France).
Theo Fabre: “Ngành hàng được coi là tập hợp các tác nhân kinh tế
(hay các phần hợp thành các tác nhân) quy tụ trực tiếp vào việc tạo ra các
sản phẩm cuối cùng. Như vậy, ngành hàng đã vạch ra sự kế tiếp của các
hành động xuất phát từ điểm ban đầu tới điểm cuối cùng của một nguồn lực
hay một sản phẩm trung gian, trải qua nhiều giai đoạn của quá trình gia
công, chế biến để tạo ra một hay nhiều sản phẩm hoàn tất ở mức độ của
người tiêu thụ [8].
Nói một cách khác, có thể hiểu ngành hàng là “Tập hợp những tác
nhân (hay những phần hợp thành tác nhân) kinh tế đóng góp trực tiếp vào
sản xuất tiếp đó là gia công, chế biến và tiêu thụ ở một thị trường hoàn hảo
của sản phẩm nông nghiệp”.
Như vậy, nói đến ngành hàng là ta hình dung đó là một chuỗi, một
quá trình khép kín, có điểm đầu và điểm kết thúc, bao gồm nhiều yếu tố
động, có quan hệ móc xích với nhau. Sự tăng lên hay giảm đi của yếu tố
này có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới các yếu tố khác. Trong quá
trình vận hành của một ngành hàng đã tạo ra sự dịch chuyển các luồng vật
chất trong ngành hàng đó.
Sự dịch chuyển được xem xét theo 3 dạng sau:
- Sự dịch chuyển về mặt thời gian
Sản phẩm được tạo ra ở thời gian này lại được tiêu thụ ở thời gian
khác. Sự dịch chuyển này giúp ta điều chỉnh mức cung ứng thực phẩm theo
mùa vụ. Để thực hiện tốt sự dịch chuyển này cần phải làm tốt công tác bảo
quản và dự trữ thực phẩm.
- Sự dịch chuyển về mặt không gian
7
Trong thực tế, sản phẩm được tạo ra ở nơi này nhưng lại được dùng
ở nơi khác. Ở đây đòi hỏi phải nhận biết được các kênh phân phối của sản
phẩm. Sự dịch chuyển này giúp ta thoả mãn tiêu dùng thực phẩm cho mọi
vùng, mọi tầng lớp của nhân dân trong nước và đó là cơ sở không thể thiếu
được để sản phẩm trở thành hàng hoá. Điều kiện cần thiết của chuyển dịch
về mặt không gian là sự hoàn thiện của cơ sở hạ tầng, công nghệ chế biến
và chính sách mở rộng giao lưu kinh tế của Chính phủ.
- Sự dịch chuyển về mặt tính chất (hình thái của sản phẩm)
Hình dạng và tính chất của sản phẩm bị biến dạng qua mỗi lần tác
động của công nghệ chế biến. Chuyển dịch về mặt tính chất làm cho chủng
loại sản phẩm ngày càng phong phú và nó được phát triển theo sở thích của
người tiêu dùng và trình độ chế biến. Hình dạng và tính chất của sản phẩm
bị biến dạng càng nhiều thì càng có nhiều sản phẩm mới được tạo ra.
Trong thực tế, sự chuyển dịch của các luồng vật chất này diễn ra rất
phức tạp và phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố về tự nhiên, công nghệ và
chính sách. Hơn nữa, theo Fabre thì “ngành hàng là sự hình thức hoá dưới
dạng mô hình đơn giản làm hiểu rõ tổ chức của các luồng (vật chất hay tài
chính) và của các tác nhân hoạt động tập trung vào những quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau và các phương thức điều tiết” [8].
d. Tác nhân
Tác nhân là một tế bào sơ cấp với các hoạt động kinh tế, độc lập và
tự quyết định hành vi của mình. Có thể hiểu rằng, tác nhân là những hộ,
những doanh nghiệp, những cá nhân tham gia trong ngành hàng thông qua
hoạt động kinh tế của họ. Tác nhân được phân ra làm hai loại:
- Tác nhân có thể là người thực (hộ nông dân, hộ kinh doanh…).
- Tác nhân là đơn vị kinh tế (các doanh nghiệp, công ty, nhà máy ).
Theo nghĩa rộng người ta phân tác nhân thành từng nhóm để chỉ tập
hợp các chủ thể có cùng một hoạt động. Ví dụ tác nhân “nông dân” để chỉ
tập hợp tất cả các hộ nông dân; tác nhân “thương nhân” để chỉ tập hợp tất
cả các hộ thương nhân; tác nhân “bên ngoài” chỉ tất cả các chủ thể ngoài phạm
vi không gian phân tích.
Mỗi tác nhân trong ngành hàng có những hoạt động kinh tế riêng, đó
chính là chức năng của nó trong chuỗi hàng. Tên chức năng thường trùng
8
với tên tác nhân. Ví dụ, hộ sản xuất có chức năng sản xuất, hộ chế biến có
chức năng chế biến, hộ bán buôn có chức năng bán buôn Một tác nhân có
thể có một hay nhiều chức năng. Các chức năng kế tiếp nhau tạo nên sự
chuyển dịch về mặt tính chất của luồng vật chất trong ngành hàng. Các tác
nhân đứng sau thường có chức năng hoàn thiện sản phẩm của các tác nhân
đứng trước kế nó cho đến khi chức năng của tác nhân cuối cùng ở từng
luồng hàng kết thúc thì ta đã có sản phẩm cuối cùng của ngành hàng [8].
e. Mạch hàng
Mạch hàng là khoảng cách giữa hai tác nhân. Mạch hàng chứa đựng
quan hệ kinh tế giữa hai tác nhân và những hoạt động chuyển dịch về sản
phẩm. Qua từng mạch hàng, giá trị của sản phẩm được tăng thêm và do đó
giá cả cũng được tăng thêm do các khoản giá trị mới sáng tạo ra ở từng tác
nhân. Điều đó thể hiện sự đóng góp của từng tác nhân trong việc tạo nên
giá trị gia tăng (VA) của ngành hàng.
Mỗi tác nhân có thể tham gia vào nhiều mạch hàng. Mạch hàng càng
phong phú, quan hệ giữa các tác nhân càng chặt chẽ, chuỗi hàng càng bền
vững. Điều đó cũng có nghĩa là nếu có một vướng mắc nào đó làm cản trở
sự phát triển của mạch hàng nào đó thì sẽ gây ảnh hưởng có tính chất dây
chuyền đến các mạch hàng sau nó và sẽ ảnh hưởng chung đến hiệu quả của
luồng hàng và toàn bộ chuỗi hàng [8].
f. Luồng hàng
Những mạch hàng liên tiếp được sắp xếp theo trật tự từ tác nhân
đầu tiên đến tác nhân cuối cùng sẽ tạo nên các luồng hàng trong một
ngành hàng.
Luồng hàng thể hiện sự lưu chuyển các luồng vật chất do kết quả
hoạt động kinh tế của hệ thống tác nhân khác nhau ở từng công đoạn sản
xuất, chế biến và lưu thông đến từng chủng loại sản phẩm cuối cùng.
Chủng loại sản phẩm cuối cùng càng phong phú thì luồng hàng trong một
ngành hàng càng nhiều. Điều đó có ý nghĩa lớn trong quá trình tổ chức và
phát triển sản xuất vì sự luân chuyển của luồng vật chất qua từng tác nhân
trong các luồng hàng đã làm cho mọi tác nhân trong ngành hàng trở thành
người sản xuất sản phẩm hàng hoá.
9
Mặt khác, việc bố trí lại lao động giữa các khâu trong quá trình phát
triển của chuỗi hàng tạo nên sự chuyển dịch lao động từ khâu sản xuất đến
khâu chế biến và lưu thông để nối dài chuỗi hàng, từ đó sẽ tạo điều kiện
cho sự phân công lao động xã hội phát triển và kích thích quá trình sản xuất
hàng hoá, tạo ra nhiều loại sản phẩm phong phú hơn, thoả mãn đầy đủ hơn
thị hiếu tiêu dùng của xã hội. Mọi luồng hàng đều bắt đầu từ một tác nhân
ở khâu sản xuất đầu tiên và kết thúc ở một địa chỉ tiêu thụ cuối cùng [8].
g. Sản phẩm
Là một nhóm sản phẩm có chung các đặc tính vật lý hữu hình cũng
như các dịch vụ có chung đặc tính được bán cho khách hàng. Chuỗi giá trị
được xác định bởi một sản phẩm hay một nhóm sản phẩm. ví dụ như chuỗi
giá trị rau tươi, chuỗi giá trị cà chua, chuỗi giá trị nấm,…
h. Giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng là thước đo về giá trị được tạo ra trong nền kinh tế.
Khái niệm này tương đương với tổng giá trị được tạo ra bởi những người
vận hành chuỗi (doanh thu của chuỗi = giá bán cuối cùng * số lượng bán
ra). Giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm là hiệu số giữa giá mà người
vận hành chuỗi bán được trừ đi giá mà người vận hành chuỗi đó đã bỏ ra để
mua những nguyên liệu đầu vào mà những người vận hành chuỗi ở công
đoạn trước cung cấp, và giá của những hàng trung gian mua từ những nhà
cung cấp hàng hoá và dịch vụ không được coi là mắt xích trong chuỗi. Nói
tóm lại, “Giá trị mà được cộng thêm vào hàng hoá hay dịch vụ tại mỗi khâu
của quá trình sản xuất hay tiêu thụ mặt hàng đó” (Mc Cormick/Schmitz
2001). Một phần của giá trị gia tăng được tạo ra được giữ lại trong chuỗi,
còn một phần khác thì được giữ lại bởi những nhà cung cấp nằm ngoài
chuỗi [8].
2.1.1.2. Các công cụ phân tích trong chuỗi giá trị
*Phân tích chi phí - lợi nhuận trong chuỗi giá trị
a, Chi phí
Hiện nay, theo quan điểm của kinh tế học hiện đại thì chi phí được
phân ra làm ba dạng sau đây.
Chi phí cố định (FC):
10
Là những chi phí không thay đổi khi khối lượng sản phẩm sản xuất
ra thay đổi (tăng hoặc giảm), nó luôn tồn tại trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì nó lại thay đổi (khối lượng
sản xuất tăng thì chi phí cố định cho một đơn vi sản phẩm giảm xuống và
ngược lại). Đó là chi phí khấu hao (trả dần) vốn đầu tư cho sản xuất như:
Khấu hao tài sản cố định
Tiền thuê mặt bằng làm để làm địa điểm sản xuất (chuồng trại,
xưởng sản xuất…)
Tiền thuê bảo vệ
Lãi xuất ngân hàng
Chi phí và trang thiết bị bán hàng
Chi phí biến đổi (VC):
Là những chi phí thay đổi khi khối lượng sản xuất, sản phẩm thay
đổi (tăng hoặc giảm). Tổng chi phí biến đổi tùy theo số lượng đơn vị sản
phẩm sản xuất ra, xong khi tính bình quân cho một đơn vị sản phẩm thì
nó thường ổn định. Đó là những chi phí hình thành trong quá trình sản
xuất kinh doanh như các nguyên nhiên vật liệu, thức ăn gia súc, phân
bón, hay cây con giống… nó thường tăng lên tỷ lệ thuận với từng quy mô sản
xuất của doanh nghiệp.
Tổng chi phí (TC)
Là tổng cộng hai khoản chi phí trên ở một mức sản xuất cụ thể, các
doanh nghiệp bao giờ cũng lập một mức giá tối thiểu để bù đắp được tổng chi
phí sản xuất. Ngoài ra, trong kinh tế vi mô và kinh doanh còn có các khái
niệm về chi phí cận biên và chi phí trung gian liên quan đến các khái niệm
chi phí cố định và chi phí thay đổi. Các khoản chi phí này quyết định mức
lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. Trong trường hợp đơn giản, chi phí
cố định không có ý nghĩa quyết định đến sản xuất vì chúng không thay đổi,
và doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất nếu giá bán ra cao hơn chi phí sản
xuất của mỗi sản phẩm tăng thêm (chi phí biên). Ngoài ra còn một số khái
niệm về chi phí khác như chi phí giao dịch, chi phí cơ hội.
11
Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận
thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao
gồm cả chi phí cơ hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi
phí. Lợi nhuận, trong kế toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí
sản xuất. Sự khác nhau giữa định nghĩa ở hai lĩnh vực là quan niệm về chi
phí. Trong kế toán, người ta chỉ quan tâm đến các chi phí bằng tiền, mà
không kể chi phí cơ hội như trong kinh tế học.
Trong kinh tế học, ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận bằng
không. Chính sự khác nhau này dẫn tới hai khái niệm về lợi nhuận: lợi
nhuận kinh tế và lợi nhuận kế toán. Lợi nhuận kinh tế lớn hơn không khi
mà chi phí bình quân nhỏ hơn chi phí biên, tức là nhỏ hơn giá bán. Lợi
nhuận kinh tế sẽ bằng không khi mà chi phí bình quân bằng chi phí biên -
bằng giá bán. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo (xét trong dài hạn), lợi
nhuận kinh tế thường bằng không. Tuy nhiên, lợi nhuận kinh tế có thể lớn
hơn không ngay cả trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Một doanh nghiệp
trên thị trường muốn tối đa hoá lợi nhuận sẽ chọn mức sản lượng mà tại đó
doanh thu biên bằng chi phí biên. Tức là doanh thu có thêm khi bán thêm
một đơn vị sản phẩm bằng phần chi phí thêm vào khi làm thêm một đơn vị
sản phẩm. Trong cạnh tranh hoàn hảo, doanh thu biên bằng giá. Ngay cả
khi giá thấp hơn chi phí bình quân tối thiểu, lợi nhuận bị âm. Tại điểm
doanh thu biên bằng chi phí biên, doanh nghiệp lỗ ít nhất.
2.1.1.4. Ý nghĩa của phân tích chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị có thể được phân tích từ góc độ của bất kỳ tác nhân nào
trong chuỗi. Phép phân tích chuỗi thường được sử dụng cho các công ty,
doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước, bốn khía cạnh trong phân tích chuỗi
giá trị áp dụng trong nông nghiệp mang nhiều ý nghĩa đó là:
Thứ nhất: Phân tích chuỗi giá trị giúp chúng ta lập sơ đồ một cách hệ
thống các bên tham gia vào sản xuất, phân phối, tiếp thị và bán một (hoặc
nhiều) sản phẩm cụ thể.
Thứ hai: Phân tích chuỗi giá trị có vai trò trung tâm trong việc xác
định sự phân phối lợi ích của những người tham gia chuỗi. Điều này đặc
biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển (nhất là về nông nghiệp)
khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
12
Thứ ba: Phân tích chuỗi giá trị có thể dùng để xác định vai trò của
việc nâng cấp chuỗi giá trị.
Thứ tư: Phân tích chuỗi giá trị có thể nhấn mạnh vai trò của quản trị
chuỗi giá trị.
Như vậy, phân tích chuỗi giá trị có thể làm cơ sở cho việc hình thành
các chương trình, dự án hỗ trợ cho một chuỗi giá trị hoặc một số chuỗi giá
trị nhằm đạt được một số chuỗi kết quả phát triển mong muốn hay nó là
động thái bắt đầu một quá trình thay đổi chiến lược hoạt động sản xuất,
kinh doanh theo hướng ổn định, bền vững.
Trên quan điểm toàn diện, phân tích chuỗi giá trị chè cành sẽ cho
phép chỉ ra những tồn tại, bất cập trong quá trình hoạt động của chuỗi, hạn
chế trong quá trình giao dịch, phân phối lợi nhuận, mối liên kết và thông tin
giữa các tác nhân để đưa ra giải pháp thúc đẩy chuỗi giá trị làm cho chuỗi
hoạt động hiệu quả hơn.
2.1.2. Cơ sở lý luận về cây chè
2.1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến việc phát triển chè
* Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên
+ Điều kiện đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt đối với cây chè, nó là
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng, chất lượng chè. Muốn chè có
chất lượng cao và có hương vị đặc biệt cần phải trồng chè ở độ cao nhất
định. Độ dốc đất trồng chè không quá 30
0
, đất càng dốc thì xói mòn càng
lớn, đất nghèo dinh dưỡng chè không sống được lâu. Cây chè ưa các loại
đất thịt và đất thịt pha cát có giữ độ ẩm tốt, thoát nước tốt. Độ sâu mực nước
ngầm phải sâu hơn thì chè mới sinh trưởng và phát triển tốt được vì cây chè
cần ẩm nhưng sợ úng. Độ chua của đất là chỉ tiêu quyết định đời sống
cây chè, độ chua PH thích hợp nhất là từ 4,5 – 5,5. Trồng chè ở các vùng
đất trung tính hoặc kiềm cây chè chết dần. Để cây chè phát triển tốt, đem
lại hiệu quả kinh tế cao thì đất trồng chè phải đạt yêu cầu: Đất tốt, giàu
mùn, chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cho chè phát triển [3].
+ Điều kiện khí hậu.
Cây chè thích nghi với các điều kiện khí hậu khác nhau. Nhưng qua số liệu
các nước trồng chè cho thấy, cây chè sinh trưởng ở những vùng có lượng
13
mưa hàng năm từ 1000 - 4000 mm, phổ biến thích hợp nhất từ 1500 –
2000 mm. Độ ẩm không khí cần thiết từ 70 - 90%. Độ ẩm đất từ 70 - 80%.
Lượng mưa bình quân tháng trên 1000 mm chè mọc tốt, ở nước ta các vùng
trồng chè có điều kiện thích hợp, chè thường được thu hoạch nhiều từ tháng 5
đến tháng 10 trong năm [9].
Cây chè ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ không khí dưới 10
0
C hay trên
40
0
C. Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng từ 22 – 28
0
C. Mùa đông cây chè tạm
ngừng sinh trưởng, mùa xuân bắt đầu phát triển trở lại. Thời vụ thu hoạch chè
dài, ngắn, sớm, muộn tuỳ thuộc chủ yếu vào điều kiện nhiệt độ. Tuy nhiên các
giống chè khác nhau có mức độ chống chịu khác nhau [3].
* Nhóm nhân tố kinh tế kỹ thuật
+ Giống chè
Giống chè ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng, đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Mỗi một điều kiện sinh thái, mỗi vùng lại thích hợp
cho một giống chè hay một số giống nhất định.
Ở trong nước ta đã chọn tạo được nhiều giống chè tốt bằng phương
pháp chọn lọc cá thể như: PH1, TRI777, 1A, TH3. Đây là một số giống chè
khá tốt, tập trung được nhiều ưu điểm, cho năng suất và chất lượng búp
cao, đã và đang được sử dụng ngày càng nhiều, trồng trên diện tích rộng,
bổ sung cơ cấu giống vùng và thay thế dần giống cũ trên các nương chè cằn
cỗi [4].
+ Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
Tưới nước cho chè: Chè là cây ưa nước, trong búp chè có hàm lượng
nước lớn, song chè rất sợ úng và không chịu úng. Chè gặp khô hạn sẽ bị
cằn cỗi, hạn chế việc hút các chất dinh dưỡng từ đất, khô hạn lâu ngày sẽ
làm giảm sản lượng thậm chí còn chết. Do đó, việc tưới nước cho chè là
biện pháp giữ ẩm cho đất để cây sinh trưởng phát triển bình thường, cho
năng suất và chất lượng cao.
Bón phân: Bón phân cho chè là một biện pháp kỹ thuật quan trọng
nhằm tăng sự sinh trưởng của cây chè, tăng năng suất và chất lượng chè.
Trong quá trình sinh trưởng, phát triển, cây chè đã lấy đi một lượng phân
rất cao ở trong đất, trong khi đó chè lại thường được trồng trên sườn đồi,
núi cao, dốc, nghèo dinh dưỡng Bón phân cân đối giữa N, P, K cho năng
14
suất cao hơn hẳn so với chỉ bón đạm và kali hoặc chỉ bón mỗi đạm. Thời kỳ
đầu của giai đoạn kinh doanh sự sinh trưởng tán chè tiếp tục đòi hỏi đủ phân
P, K nên cơ sở bón đủ đạm [4].
- Đốn chè: Đốn chè cũng ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng và chất
lượng chè, đốn chè là cắt đi đỉnh ngọn của các cành chè, ức chế ưu thế sinh
trưởng đỉnh và kích thích các trồi ngủ, trồi nách mọc thành lá, cành non
mới tạo ra một bộ khung tán khỏe mạnh, làm cho cây luôn ở trạng thái sinh
trưởng dinh dưỡng hạn chế sự ra hoa, kết quả có lợi cho việc ra lá, kích
thích sinh trưởng búp non, tăng mật độ búp và trọng lượng búp, tạo bộ
khung tán to có nhiều búp, vừa tầm hái tăng hiệu suất lao động, cắt bỏ
những cành già tăm hương, bị sâu bệnh thay bằng những cành non mới
sung sức hơn giữ cho cây chè có bộ lá thích hợp để quang hợp [7].
Đốn Phớt: Đốn hàng năm, đốn cao hơn vết đốn cũ 3 - 5cm, khi cây
chè cao hơn 70cm thì hàng năm đốn cao hơn vết đốn cũ 1 - 2cm.
Đốn lửng: Đốn cách mặt đất 60 - 65cm.
Đốn dàn: Đốn cách mặt đất 40 - 50cm.
Đốn trẻ lại: Đốn cách mặt đất 10 - 15cm.
* Nhóm nhân tố về điều kiện kinh tế xã hội
+ Thị trường
Thị trường là yếu tố quan trọng và có tính quyết định đến sự tồn tại
của cơ sở sản xuất kinh doanh chè, của các đơn vị sản xuất trong nền kinh
tế thị trường. Mục đích cuối cùng của nhà sản xuất là tạo ra các sản phẩm
đáp ứng yêu cầu của thị trường và thu được nguồn lợi nhuận cao. Mỗi nhà
sản xuất, mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh và mỗi cá nhân đều phải trả lời 3
câu hỏi của kinh tế học đó là: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản
xuất cho ai. Câu hỏi sản xuất cái gì được đặt lên hàng đầu, mang tính định
hướng. Để trả lời được câu hỏi này người sản xuất phải tìm kiếm thị
trường, tức là xác định nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường đối với
hàng hoá mà họ sẽ sản xuất ra. Thị trường đóng vai trò là khâu trung gian nối
15
giữa sản xuất và tiêu dùng. Thực tế nhu cầu của người tiêu dùng về các sản
phẩm chè ngày càng tăng vì vậy mà thị trường chè rất rộng lớn [14].
+ Giá cả
Giá cả là yếu tố quyết định tới kết quả sản xuất chè của hộ ảnh hưởng
tới tổng giá trị sản xuất. Có thể nói sự biến động của thị trường ảnh hưởng
trực tiếp tới đời sống của người làm chè, ngành chè mỗi vùng miền, quốc
gia. Do đó việc ổn định giá cả, mở rộng thị trường tiêu thụ chè là hết sức
cần thiết cho sự phát triển lâu dài của ngành chè.
+ Nguồn lao động
Nhân tố lao động luôn là yếu tố quyết định trong việc sản xuất, trong sản
xuất chè cũng vậy, yếu tố con người mang lại năng suất, sản lượng, chất
lượng cho chè. Để sản phẩm chè sản xuất ra có năng suất cao, chất lượng
tốt ngoài việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật ra, cần phải có lao
động có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao. Trong hai khâu: sản xuất - chế
biến, nhân tố con người đều quyết định đến sản lượng và chất lượng của
chè. Trong khâu sản xuất, từ việc chọn giống, gieo trồng, chăm sóc và thu
hoạch tất cả đều phụ thuộc vào nhân tố lao động. Lao động có tay nghề sẽ
tạo ra năng suất và chất lượng cao.
+ Hệ thống cơ sở chế biến chè
Chế biến là một trong những công đoạn cần được chú trọng, sau khi chè
được thu hoạch thì bắt đầu tiến hành chế biến. Đây là giai đoạn cuối cùng để
tạo ra sản phẩm. Hiện nay trong khâu chế biến đã có bước phát triển đáng kể,
các công cụ dùng để chế biến chè ngày càng hiện đại đặc biệt là trong các
công ty, doanh nghiệp đã sử dụng các dây truyền sản xuất với công suất cao.
Đối với các hộ nông dân sản xuất chè đã thay thế các công cụ chế biến thủ
công bằng các công cụ hiện đại góp phần nâng cao chất lượng chè, đỡ tốn sức
lực và thời gian…Chính vì vậy việc xây dựng hệ thống các cơ sở chế biến là
một trong những công việc cần thiết và có ý nghĩa lớn cho sự phát triển ngành
chè [5].
2.1.2.2. Ý nghĩa của việc phát triển sản xuất chè
Chè là một cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế lâu dài, mau
cho sản phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao. Chè trồng một lần, có thể thu
hoạch 30-40 năm hoặc lâu hơn nữa.
16
Chè là một thức uống lý tưởng và có nhiều giá trị về dược liệu: Trung
Quốc là nước đầu tiên chế biến chè để uống sau đó nhờ những đặc tính tốt
của nó, chè trở thành thức uống phổ biến trên thế giới. Ngày nay chè được
phổ biến rộng rãi hơn cả cà phê, rượu vang và ca-cao. Tác dụng chữa bệnh
và chất dinh dưỡng của nước chè [21].
Đối với nước ta sản phẩm chè không chỉ để tiêu dùng nội địa mà còn là
mặt hàng xuất khẩu quan trọng để thu ngoại tệ góp phần xây dựng đất nước.
Đối với người dân thì cây chè đã mang lại nguồn thu nhập cao và ổn
định, cải thiện đời sống kinh tế văn hóa xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho
bộ phận lao động dư thừa nhất là ở các vùng nông thôn.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới và Việt Nam
2.2.1.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới
* Tình hình sản xuất
Hiện nay trên thế giới có 58 nước phát triển sản xuất chè ở các quy
mô khác nhau tập trung nhiều nhất là ở châu Á có 20 nước (chủ yếu là ở
Ấn Độ, Trung Quốc, Srilanca, Indonexia, Nhật Bản, Việt Nam ) với diện
tích chiếm khoảng 80% diện tích chè toàn thế giới. Tiếp đó là đến châu Phi
có 21 nước, châu Mỹ có 12 nước, châu đại dương có 3 nước, châu Âu chỉ
có Nga và Bồ Đào Nha [18].
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng chè một số nước trên thế giới
năm 2013
STT Tên nước
Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tạ khô/ha)
Sản lượng khô
(nghìn tấn)
1 Trung Quốc 1.500,000
11,330
1.700,000
2 Ấn Độ 605,000
16,529
1.000,000
3 Thái Lan 21,500
34,884
733,320
4 Kenya 190,600
19,215
369,400
5 Srilanka 221,969
14,687
330,000
6 Việt Nam 115,960
18,074
216,900
7 Indonesia 122,500
11,610
150,100
8 Nhật Bản 45,900
18,715
85,900
(Nguồn: Theo FAO Start Citation, 2013)