Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Đánh giá tình hình xây dựng nông thôn mới tại xã Bế Triều, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.91 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NÔNG THỊ LINH ĐAN


Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI
XÃ BẾ TRIỀU, HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Lớp : K42 - PTNT
Khoá học : 2010 - 2014








Thái Nguyên - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NÔNG THỊ LINH ĐAN


Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI
XÃ BẾ TRIỀU, HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Lớp : K42 - PTNT
Khoá học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Dương Văn Sơn







Thái Nguyên - 2014
LỜI CẢM ƠN!
Thực tập tốt nghiệp là một khâu quan trọng trong quá trình học tập của
mỗi sinh viên nhằm hệ thống lại toàn bộ lượng kiến thức đã học, vận dụng lý
thuyết vào thực tiễn, bước đầu làm quen với những kiến thức khoa học. Qua
đó sinh viên ra trường sẽ hoàn thiện hơn về kiến thức lý luận, phương pháp
làm việc, năng lực công tác nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của công việc
sau này.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự đồng ý của ban giám
hiệu, ban chủ nhiệm khoa kinh tế và phát triển nông thôn - trường đại học
Nông Lâm Thái Nguyên phân công em về thực tập tại xã Bế Triều - huyện
Hòa An - tỉnh Cao Bằng. Có được kết quả này em xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc đến ban giám hiệu nhà trường, ban chủ nhiệm khoa và
đặc biệt là thầy giáo PGS.TS. Dương Văn Sơn là người trực tiếp hướng dẫn
bài khóa luận tốt nghiệp của em.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các bác, các chú, các cô, các anh, các chị
đang công tác và làm việc tại UBND xã Bế Triều, đặc biệt là ban chỉ đạo điều
hành nông thôn mới đã tạo điều kiện cho em tìm hiểu công tác xây dựng
NTM tại địa phương. Em xin chân thành cảm ơn các cán bộ của ban điều
hành NTM huyện Hòa An đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, mặc dù em đã cố gắng rất nhiều
nhưng do trình độ còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được những ý kiến chỉ bảo của các thầy, các cô, ý kiến
đóng góp của bạn bè để bài khoá luận tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!
Bế Triều, ngày 31 tháng 5 năm 2014
Sinh viên


Nông Thị Linh Đan

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Các tiêu chí xây dựng mô hình nông thôn mới tại các xã trung du
miền núi phía bắc (TDMNPB) 22

Bảng 4.1 Diện tích đất đai xã Bế Triều năm 2013 32

Bảng 4.2: Cơ cấu thành phần các dân tộc của xã Bế Triều năm 2013 34

Bảng 4.3: Tình hình dân số và lao động của xã giai đoạn 2011 - 2013 36

Bảng 4.4: Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính của xã Bế
Triều năm 2013 37

Bảng 4.5: Tình hình phát triển về gia súc, gia cầm của xã Bế Triều giai đoạn
2011- 2013 38

Bảng 4.6: Tình hình quy hoạch trên địa bàn xã Bế Triều năm 2013 42

Bảng 4.7: Tình hình giao thông tại xã Bế Triều năm 2013 43

Bảng 4.8. Tình hình xây dựng thủy lợi của xã Bế Triều năm 2013 45


Bảng 4.9: Tình hình về điện của xã Bế Triều năm 2013 46

Bảng 4.10: Tình hình xây dựng Trường học của xã Bế Triều năm 2013 47

Bảng 4.11: Cơ sở vật chất văn hóa năm 2013 48

Bảng 4.12: Chợ nông thôn năm 2013 49

Bảng 4.13: Về bưu điện năm 2013 50

Bảng 4.14: Nhà ở dân cư của xã Bế Triều năm 2013 51

Bảng 4.15: Thu nhập BQ đầu người của xã Bế Triều năm 2013 52

Bảng 4.16: Hộ nghèo của xã Bế Triều năm 2013 52

Bảng 4.17: Cơ cấu lao động của xã Bế Triều năm 2013 52

Bảng 4.18: Hình thức tổ chức sản xuất của xã Bế Triều năm 2013 53

Bảng 4.19: Về giáo dục của xã Bế Triều năm 2013 54

Bảng 4.20: Y tế của xã Bế Triều năm 2013 55

Bảng 4.21: Về văn hóa của xã Bế Triều năm 2013 55

Bảng 4.22: Môi trường của xã Bế Triều năm 2013 56

Bảng 4.23: Hệ thống tổ chức chính trị của xã Bế Triều năm 2013. 59


Bảng 4.24: An ninh, trật tự 60

Bảng 4.25: Tổng kết các tiêu chí của xã so với tiêu chí chung 60


DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 4.1. Biểu đồ cơ cấu sử dụng đất của xã Bế Triều năm 2013 33

Hình 4.2. Biểu đồ cơ cấu thành phần các dân tộc của xã Bế Triều năm 2013 35



DANH MỤC CÁC HỘP
Trang
Hộp 4.1: Chia sẻ của cán bộ xã về tình hình giao thông 44

Hộp 4.2: Chia sẻ của cán bộ xã về vấn đề trường học 48

Hộp 4.3: Chia sẻ của cán bộ về vấn đề cơ sở vật chất văn hóa 49

Hộp 4.4: Chia sẻ của cán bộ quản lý thôn về vấn đề nhà ở 51

Hộp 4.5: Chia sẻ của cán bộ quản lý thôn về vấn đề cơ cấu lao động 53

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCĐ Ban chỉ đạo
CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CSXH Chính sách xã hội
GDCĐ Giáo dục cộng đồng
GTVT Giao thông vận tải
HĐND Hội đồng nhân dân
HTX Hợp tác xã
KH& CN Khoa học và công nghệ
KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
KHKT Khoa học kỹ thuật
MHNTM Mô hình nông thôn mới
MTQG Mục tiêu quốc gia
NTM Nông thôn mới
PTNT Phát triển nông thôn
SWOT Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức
SX-KD Sản xuất- kinh doanh
TDMNPB Trung du miền núi phía bắc
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
TW Trung ương
UBND Uỷ ban nhân dân
VH-TT-DL Văn hóa thể thao du lịch
XĐGN Xoá đói, giảm nghèo

MỤC LỤC
Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1

1.1.Đặt vấn đề 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2


1.2.1. Mục tiêu chung 2

1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2

1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài 3

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập 3

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3

Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4

2.1.1. Một số khái niệm liên quan 4

2.1.2. Cơ sở lý luận 11

2.2. Cơ sở thực tiễn 14

2.2.1. Tình hình xây dựng nông thôn mới ở trên thế giới 14

2.2.2. Tình hình xây dựng mô hình nông thôn mới ở Việt Nam 19

2.2.3. Nội dung xây dựng mô hình nông thôn mới cấp xã ở vùng trung du
miền núi phía bắc 21

2.2.4. Tình hình xây dựng nông thôn mới tại Cao Bằng 25

Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU 27
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 27

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 27

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 27

3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 27

3.2.1. Nội dung nghiên cứu 27

3.2.2. Phương pháp nghiên cứu 27


Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30
4.1. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu 30

4.1.1. Điều kiện tự nhiên 30

4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 34

4.2. Đánh giá tình hình thực hiện các tiêu chí xây dựng mô hình nông thôn
mới tại xã Bế triều, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng 42

4.2.1. Quy hoạch 42

4.2.2. Hạ tầng kinh tế - xã hội 43

4.2.3. Thực trạng kinh tế và tổ chức sản xuất 51


4.2.4. Văn hóa - xã hội và môi trường 53

4.2.5. Hệ thống chính trị 57

4.3. Thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức và giải pháp xây dựng NTM 61

4.3.1. Thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức của xã khi xây dựng mô
hình nông thôn mới 61

4.3.2. Một số giải pháp cho việc thực hiện xây dựng mô hình NTM của xã
Bế Triều 64

Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 67
5.1. Kết luận 67

5.2. Khuyến nghị 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO 70


1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của Đảng ta, tại
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã xác định:“ hiện nay và nhiều năm tới,
vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng”, là vấn đề chiến lược trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, là cơ sở ổn định chính trị
và an ninh quốc phòng; là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững

của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhưng trước hết phải xuất phát từ lợi ích của nông dân, phát
huy vai trò của giai cấp nông dân, tạo điều kiện thuận lợi giúp nông dân nâng
cao trình độ mọi mặt, có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Trong những năm qua nhiều chương trình, dự án đã được thực hiện,
như chương trình giống, chương trình khoa học công nghệ, chương trình
khuyến nông, chương trình 135 hay chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói
giảm nghèo và việc làm. Tuy nhiên những chương trình hay dự án này chỉ
mới giải quyết được một số riêng rẽ (như cơ sở hạ tầng, môi trường) hoặc
nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo cho những vùng đặc biệt khó khăn, vùng
nghèo. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện còn chậm trễ do bị ràng buộc bởi
những cơ chế, chính sách và năng lực của đội ngũ các cán bộ cơ sở còn hạn
chế trong việc phát triển nông thôn văn minh, hiện đại.
Để góp phần khắc phục một cách cơ bản tình trạng trên, đưa Nghị quyết
của Đảng về nông thôn đi vào cuộc sống, một trong những việc cần làm trong
giai đoạn này là xây dựng mô hình nông thôn mới đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và hội nhập nền kinh tế thế
giới. Vì vậy từ năm 2001- 2006 cả nước đã triển khai đề án thí điểm “mô hình
nông thôn mới cấp xã theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ
hóa”. Chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới đang được diễn ra mạnh
mẽ trong phạm vi cả nước, xã Bế Triều thuộc huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng
cũng đang có những bước đầu bắt tay vào xây dựng mô hình nông thôn mới.
2
Xã Bế Triều là một xã miền núi với nhiều tiềm năng để xây dựng thành công
chương trình NTM. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương khác đang xây
dựng chương trình NTM, xã Bế Triều còn gặp nhiều khó khăn: Xuất phát
điểm thấp còn nhiều tiêu chí NTM chưa đạt được, nguồn lực hạn chế, tổ chức
thực hiện còn gặp nhiều lúng túng, sự tham gia của người dân còn hạn chế,
Do đó, chương trình xây dựng NTM ở địa phương diễn ra chậm chạp, thiếu
thống nhất, hiệu quả thực hiện chương trình chưa cao.

Xuất phát từ những thực trạng trên, việc tìm hiểu tình hình thực tế tại địa
phương từ đó đưa ra những giải pháp để đáp ứng được những tiêu chí đề ra của
chính sách xây dựng nông thôn mới, góp phần cải thiện bộ mặt của xã và nâng
cao đời sống cho người dân nông thôn tại địa phương là hết sức cấp bách. Với
tất cả những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài
: "Đánh giá tình hình xây
dựng nông thôn mới tại xã Bế Triều, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng"
làm đề tài
thực tập tốt nghiệp của mình. với mong muốn đánh giá việc thực hiện các tiêu
chí của MHNTM, chỉ ra những tiêu chí đã đạt và chưa đạt được sau đó đề xuất
một số giải pháp giúp thực hiện thúc đẩy xây dựng MHNTM tại xã.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Thông qua điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của xã Bế Triều, trên cơ
sở 19 tiêu chí về nông thôn mới (NTM) do thủ tướng Chính phủ đã đề ra.
Đánh giá việc thực hiện xây dựng MHNTM tại xã Bế Triều, huyện Hòa An,
tỉnh Cao Bằng.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá diều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại xã Bế Triều.
- Tìm hiểu thực trạng tình hình thực hiện MHNTM tại địa phương, đánh
giá việc thực hiện các tiêu chí NTM.Tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn, cơ
hội, thách thức khi xây dựng MHNTM tại xã Bế Triều.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao khả năng hoàn thành các tiêu
chí NTM trong thời gian tới, sớm đưa xã trở thành xã NTM.
3
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập
- Quá trình thực hiện đề tài này sẽ nâng cao nhận thức, sự hiểu biết và
năng lực cũng như rèn luyện kĩ năng, phương pháp nghiên cứu khoa học cho
bản thân sinh viên.

- Có cái nhìn tổng thể về công tác xây dựng phát triển nông thôn mới
trên địa bàn xã, góp phần hoàn thiện những lí luận và phương pháp nhằm đẩy
mạnh và phát triển kinh tế xã hội nông thôn trong giai đoạn CNH - HĐH nông
thôn hiện nay.
- Đề tài cũng được coi là một tài liệu tham khảo cho trường, khoa, các
cơ quan trong ngành và sinh viên các khóa tiếp theo.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để chính quyền địa phương xã
Bế Triều, huyện Hòa An và các cơ quan ban ngành tỉnh tỉnh Cao Bằng, các
nhà hoạch định chính sách, các tổ chức cá nhân đầu tư trong và ngoài nước
định hướng, đưa ra chính sách phát triển mô hình xây dựng nông thôn mới tại
xã và các địa phương khác có điều kiện tương đồng.
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
Để có thể đánh giá, tìm hiểu về thực trạng nông thôn mới, chúng ta cần
phải nắm rõ các khái niệm về nông thôn, phát triển nông thôn, phát triển nông
thôn bền vững, phát triển nông thôn có tính toàn diện và chương trình nông
thôn mới sau:
2.1.1.1. Nông thôn
Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chuẩn xác nào được chấp nhận
một cách rộng rãi về nông thôn. Khi nói về nông thôn, thường thì người ta
hay so sánh nông thôn với thành thị. Có ý kiến cho rằng dùng chỉ tiêu dân số,
mật độ dân cư để phân biệt nông thôn với đô thị. Có ý kiến đưa ra chỉ tiêu về
trình độ kết cấu hạ tầng, chỉ tiêu về phát triển sản xuất hàng hoá, lại có ý kiến
cho rằng nông thôn là vùng mà ở đấy chủ yếu làm nông nghiệp. Tất cả những
ý kiến trên đều đúng những chưa đầy đủ. Nếu dùng những chỉ tiêu riêng lẻ thì

chỉ thể hiện được một mặt của nông thôn chứ chưa bao trùm được khái niệm
về nông thôn một cách đầy đủ.
Nông thôn và đô thị là những vùng lãnh thổ có nét đặc trưng nổi bật cơ
bản ở chỗ cả hai không có ranh giới rõ rệt, nhưng cả hai đều có mối quan hệ
khăng khít lẫn nhau.
Theo Staroverov - nhà xã hội học người Nga đã đưa ra một định nghĩa
về nông thôn, khi ông cho rằng: “Nông thôn với tư cách là khách thể nghiên
cứu xã hội học về một phân hệ xã hội có lãnh thổ xác định đã hình thành lâu
trong lịch sử. Đặc trưng của phân hệ xã hội này là sự thống nhất đặc biệt của
môi trường nhân tạo với các điều kiện địa lý - tự nhiên ưu trội, với kiểu loại tổ
chức xã hội phân tán về mặt không gian. Tuy nhiên, nông thôn có những đặc
trưng riêng của nó”.
Trong điều kiện Việt Nam nhìn nhận dưới góc độ quản lý có thể hiểu:
“Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông
5
dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội
và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của
các tổ chức khác” (Nguyễn Duy Hoan và cs, 2007) [7].
2.1.1.2. Phát triển nông thôn
Phát triển là xu hướng tự nhiên của mỗi cá nhân hay cộng đồng người,
là từ mà con người đưa ra làm mục tiêu cho ý tưởng và việc làm của mình, là
mục đích mà con người vươn tới.
Phát triển được coi như là một tiến trình biến đổi xã hội, là những biến
chuyển có quan hệ qua lại với nhau. Sự tồn tại của một xã hội hôm nay là sự
kế thừa những di sản đã diễn ra trong quá khứ.
Sự phát triển bao hàm nhiều vấn đề rộng lớn và phức tạp, tuy nhiên có
thể đưa ra một khái niệm tổng quát: “Phát triển là một quá trình làm thay đổi
liên tục, làm tăng trưởng mức sống của con người và phân phối công bằng
những thành quả tăng trưởng trong xã hội” (theo Raanan Weitz 1995), (Cù
Ngọc Bắc, 2008)[4].

Phát triển theo quan niệm chung nhất thì nó là việc nâng cao các chuẩn
mực sống, cải thiện các điều kiện giáo dục, sức khoẻ, sự bình đẳng về các cơ
hội, đảm bảo các quyền về chính trị, công dân (Mai Thu Cúc và cs, 2005)[5]
PTNT là một phạm trù rộng lớn được nhìn nhận với nhiều quan điểm
khác nhau. Đã có nghiên cứu và áp dụng thuật ngữ này ở nhiều nước trên thế
giới. Ở Việt Nam thuật ngữ này được đề cập và có sự thay đổi lớn về nhận
thức qua các thời kỳ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có sự tổng hợp lý luận về
PTNT. Nhiều tổ chức phát triển trên thế giới đã nghiên cứu và vận dụng thuật
ngữ này ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Các chuyên gia Ngân Hàng thế giới đã đưa ra quan niệm về PTNT:
“ Phát triển nông thôn là một chiến lược vạch ra nhằm cải thiện đời
sống kinh tế - xã hội của một bộ phận dân cư tụt hậu, đặc biệt là ở các vùng
nông thôn. Nó đòi hỏi phải mở rộng các lợi ích của sự phát triển đến những
người nghèo nhất trong số những người đang tìm kế sinh nhai ở các vùng
nông thôn”.
6
Ở Việt Nam chúng ta đã và đang có những suy nghĩ xây dựng mục tiêu
và chương trình hành động cho sự phát triển của từng vùng, từng địa phương
và trên toàn quốc. Những thành tựu đạt được trong sự đổi mới và phát triển
đất nước những năm vừa qua làm cho bộ mặt nông thôn có nhiều biến đổi.
Kết cấu hạ tầng được đầu tư cải tạo hoàn thiện hơn, những tiến bộ khoa học
kỹ thuật được đưa vào sản xuất làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi và giá
trị sản lượng nông nghiệp, tăng trưởng kinh tế và mức thu nhập bình quân đầu
người, môi trường sống đang được dần được cải thiện.
Tổng hợp các quan điểm từ các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Chính phủ, thuật ngữ này có thể được hiểu như sau: “Phát triển nông thôn
là quá trình cải thiện có chủ ý một cách bền vững về kinh tế, xã hội, văn hoá
và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn.
Quá trình này trước hết là do chính người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích
cực của nhà nước và các tổ chức khác”.

2.1.1.3. Phát triển nông thôn bền vững
Khái niệm về phát triển bền vững chính thức xuất hiện năm 1987 trong
báo cáo “tương lai chung của chúng ta ” của hội đồng thế giới về môi trường
và phát triển (WCED) như là “sự phát triển đáp ứng những nhu cầu của hiện
tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai
sau”. Mục tiêu của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự
giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng
thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên. Phát triển phải kết
hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà ba mặt đó là phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường (Cù Ngọc Bắc, 2008)[4]
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong sự phát
triển của loài người điều đó được khẳng định qua tuyên bố tại hội nghị
thượng đỉnh về trái đất được tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992 về môi
trường và phát triển. Những nguyên tắc này nhấn mạnh vào cách nhìn lâu
dài về xã hội con người và việc con người sử dụng nguồn tài nguyên thiên
nhiên của thế giới.
Phát triển bền vững trở thành đường lối, quan điểm và chính sách của
đảng và chính phủ nước ta. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998
7
của bộ chính trị về công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước khẳng định “Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời
trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển của các cấp, các ngành là
cơ sở để phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CN, HĐH. Quan
điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của đại
hội IX của đảng cộng sản Việt Nam và trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh
tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và
“phát triển kinh tế gắn chặt chẽ với bảo vệ và cải thiện môi trường,đảm bảo sự
hài hoà giữa môi trường nhân tạo và môi trường tự nhiên, giữ gìn đa dạng
sinh học”.

Một định nghĩa khác về phát triển bền vững là “Phát triển tạo ra dòng
chảy liên tục các lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường. Đó là cơ sở bền vững
trong phát triển nông thôn”. Trong bối cảnh PTNT, bền vững không chỉ là vấn
đề tôn trọng môi trường mà nó còn liên quan đến bốn trụ cột của PTNT đó là:
con người, kinh tế, môi trường và các tổ chức.
Những nguyên tắc nhằm đạt được phát triển bền vững đối với phát triển
con người trong PTNT:
- Dân chủ và an toàn.
- Bình đẳng và công bằng xã hội.
- Bền vững chất lượng cuộc sống cho người dân.
- Tôn trọng quá khứ của tổ tiên và quyền lợi của thế hệ mai sau.
Những nguyên tắc nhằm đạt được sự phát triển bền vững đối với phát
triển kinh tế trong PTNT:
- Tăng cường sự đa dạng hoá nền kinh tế nông thôn.
- Đảm bảo cho người dân có lợi từ các hoạt động của địa phương họ.
- Tránh gây ảnh hưởng xấu đến các khu vực khác trong nền kinh tế
quốc dân và các khu vực trên lãnh thổ địa lý.
- Thúc đẩy phồn vinh lâu dài hơn là chú trọng lợi ích trước mắt.
Những nguyên tắc nhằm đạt được phát triển bền vững đối với phát triển
môi trường trong PTNT:
8
- Tôn trọng tài nguyên và tính vẹn toàn của môi trường.
- Giảm thiểu sử dụng tài nguyên không có khả năng tái tạo lại.
- Sử dụng tài nguyên thiên nhiên với tốc độ không nhanh hơn tốc độ tái
tạo của tài nguyên thiên nhiên.
- Sử dụng nguồn tài nguyên và không gây ô nhiễm, ảnh hưởng tới
môi trường.
- Những nguyên tắc đạt được phát triển bền vững đối với sự phát triển
của các tổ chức trong PTNT:
- Nâng cao năng lực của các tổ chức phù hợp với mức độ phát triển

nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tất cả các hoạt động phát triển con người, kinh
tế và môi trường.
- Không gây ra các loại chi phí không được hỗ trợ trong tương lai.
2.1.1.4. Phát triển nông thôn có tính toàn diện
PTNT toàn diện cần nhấn mạnh vào khía cạnh xã hội, kinh tế và môi
trường. Phát triển phải là cả “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, nó bao trùm
chính sách, tiền tệ và hỗ trợ của Chính phủ (ở mọi cấp) và năng lực, tài
nguyên địa phương với sự tham gia của người dân. Phát triển phải dựa trên
tinh thần hợp tác và cộng tác với sự tham gia của mọi khu vực (Nhà nước, tư
nhân, tình nguyện viên)
Toàn diện có thể coi là bốn trụ cột của PTNT, đó là:
Con người cùng với kỹ năng của họ.
- Kinh tế
- Môi trường
- Ý tưởng và tổ chức.
Các yếu tố trên phải được giữ cân bằng với nhau như các trụ cột của
một toà nhà.
2.1.1.5. Nông thôn mới
Xây dựng mô hình nông thôn mới là một chính sách về một mô hình phát
triển cả về nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát
nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết
9
các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán,
cân đối mang tính tổng thể, khắc phục tình trạng rời rạc, hoặc duy ý chí.
Có thể hiểu NTM là một vùng nông thôn có những đặc điểm theo tiêu
chí mới mà Đảng và Nhà nước đưa ra về NTM. NTM là một vùng nông thôn
có nền sản xuất tiếp thu được những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại mà
vẫn giữ được nét đặc trưng, tinh hoa văn hóa của nông thôn truyền thống. Có
thể quan niệm: “Mô hình NTM là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành
một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho

nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng trên cơ
sở nông thôn cũ (truyền thống, đã có) nhưng mang tính tiên tiến về mọi mặt”
NTM trước hết là một vùng nông thôn chứ không phải đô thị. Bởi nó
vẫn mang những nét đặc trưng vốn có của nông thôn truyền thống, cả về quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cả về hình thái bên trong và bên ngoài (về
cơ sở hạ tầng, về quy hoạch bố trí nhà ở, hình thức nhà ở, đường làng ngõ
xóm… và về quan hệ xóm giềng, về phong cách sống của người dân nông
thôn). Tuy nhiên, NTM là vùng nông thôn có những nét hiện đại mà nông
thôn truyền thống không có được. Đó là việc canh tác theo kiểu hiện đại, sử
dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại vào trong sản xuất nông nghiệp. NTM
ngoài sản xuất nông nghiệp còn phải phát triển mạnh các ngành sản xuất công
nghiệp -TTCN và các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch,… Ngoài sự thay
đổi về mặt kinh tế, ở vùng NTM đời sống văn hóa tinh thần của người dân
cũng được nâng cao. Quyền tự do dân chủ của người dân được phát huy cao
độ, người dân được tham gia vào quá trình lập và đề ra các quy hoạch, được
đóng góp ý kiến vào việc xây dựng và phát triển địa phương.
- Đặc điểm nông thôn mới:
Phân biệt nông thôn và nông thôn mới:
Về cơ bản nông thôn và NTM không khác nhau nhưng xét trên những
tiêu chí cụ thể thì 2 khái niệm này có nhiều điểm khác nhau. Khác với nông
thôn truyền thống, NTM là một vùng nông thôn với cơ cấu mới, mang những
nét đặc trưng của một vùng nông thôn phát triển theo hướng đô thị hóa mà biểu
hiện cụ thể đó là sự phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH sản xuất. Ở
đó nền sản xuất không chỉ đơn thuần là sản xuất các ngành nông nghiệp mà có
10
sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du
lịch. Một vùng NTM phải đảm bảo được ít nhất các chức năng sau:
• Chức năng sản xuất nông nghiệp hiện đại
Chức năng cơ bản của nông thôn là sản xuất dồi dào các sản phẩm nông
phụ chất lượng cao. Khác với nông thôn truyền thống, sản xuất nông nghiệp

của NTM bao gồm cơ cấu các ngành nghề mới, các điều kiện sản xuất nông
nghiệp hiện đại hoá, ứng dụng phổ biến khoa học kỹ thuật tiên tiến và xây
dựng các tổ chức nông nghiệp hiện đại. Cần phân tích rõ nông thôn với thành
thị; các đặc điểm riêng của thành thị và làng xã; phân công hợp lý thành thị
với nông thôn, tức là nhấn mạnh nông thôn phục vụ thành thị, ngược lại thành
thị hỗ trợ nông thôn. Đó chính là cơ sở quan trọng để thực hiện thành thị và
nông thôn phát triển hài hoà. Với nông thôn, có thể nói nông nghiệp là chức
năng tự nhiên của nông thôn. Tuy nhiên, xây dựng NTM không có nghĩa là
biến nông thôn trở thành thành thị bằng cách chuyển nền sản xuất từ sản xuất
nông nghiệp hoàn toàn sang sản xuất công nghiệp mà phải có sự kết hợp chặt
chẽ giữa sản xuất nông nghiệp hiện đại với phát triển công nghiệp và các
ngành khác.
• Chức năng giữ gìn văn hoá truyền thống
Kho tàng văn hoá truyền thống Việt Nam được cấu thành từ bởi rất
nhiều thành phần quan trọng khác nhau. Các thành phần này không chỉ đóng
vai trò không thể thay thế trong sự nghiệp hiện đại hoá và phát triển xã hội hài
hoà của riêng Việt Nam, mà còn là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
kho tàng văn hoá của toàn nhân loại. Nền văn hoá truyền thống mang đậm
màu sắc thôn quê này đã được sản sinh trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các
phương thức sản xuất, sinh sống cũng như cơ cấu tổ chức mang tính đặc thù
của xã hội nông thôn chính là nhân tố quyết định nền văn hoá mang đậm màu
sắc Việt Nam. Quy tắc hành vi của xã hội là những phong tục tập quán đã
được hình thành từ lâu đời, ở đó con người đối xử tin cậy lẫn nhau trên quy
phạm phong tục tập quán đó. Ở đó quan hệ huyết thống là mối quan hệ quan
trọng nhất. Chính các tập thể nông dân cùng huyết thống đã giúp họ khắc
phục được những nhược điểm của kinh tế tiểu nông, giúp bà con nông dân
chống trọi với thiên tai đại hạn. Cũng chính văn hoá quê hương đã sản sinh ra
11
những sản phẩm văn hoá tinh thần quý báu như lòng kính lão yêu trẻ, giản dị
tiết kiệm, thật thà đáng tin, yêu quý quê hương,… tất cả được sản sinh trong

hoàn cảnh xã hội nông thôn đặc thù. Các truyền thống văn hoá quý báu này
đòi hỏi phải được giữ gìn và phát triển trong một hoàn cảnh đặc thù. Môi
trường thành thị là nơi có tính mở cao, con người cũng có tính năng động cao,
vì thế văn hoá quê hương ở đây sẽ không còn tính kế tục. Do vậy, chỉ có nông
thôn với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và tụ cư theo dân tộc mới là môi
trường thích hợp nhất để giữ gìn và kế tục văn hoá quê hương. Việc xây dựng
NTM nếu như phá vỡ đi các cảnh quan làng xã mang tính khu vực đã được
hình thành trong lịch sử thì cũng chính là phá vỡ đi sự hài hoà vốn có của
nông thôn, làm mất đi bản sắc làng quê nông thôn. Điều này không những hạn
chế tác dụng của chức năng nông thôn mà còn có tác dụng tiêu cực đến giữ
gìn sinh thái cảnh quan nông thôn và cảnh quan văn hoá truyền thống.
• Chức năng sinh thái
Chức năng này chính là một trong những tiêu chí quan trọng phân biệt
giữa thành thị với nông thôn. Nền văn minh nông nghiệp được hình thành từ
những tích luỹ trong suốt một quá trình lâu dài, từ khi con người thích ứng
với thiên nhiên, lợi dụng, cải tạo thiên nhiên, cho đến khi phá vỡ tự nhiên dẫn
đến phải hứng chịu các ảnh hưởng xấu và cuối cùng là tôn trọng tự nhiên.
Trong nông thôn truyền thống, con người và tự nhiên sinh sống hài hoà với
nhau, chức năng người tôn trọng tự nhiên, bảo vệ tự nhiên và hình thành nên
thói quen làm việc theo quy luật tự nhiên. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị
hoá khiến con người ngày càng xa rời tự nhiên, dẫn đến những ô nhiễm trong
môi trường nước và không khí. Xây dựng NTM phải đảm bảo giữ gìn và cải
tạo môi trường tự nhiên vốn có của nông thôn truyền thống, đồng thời làm
giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường.
2.1.2. Cơ sở lý luận
2.1.2.1. Căn cứ pháp lý xây dựng nông thôn mới
- Nghị quyết số 26 - NQ/TW, ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X “ Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
12
Nghị quyết 26/TQ - TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X

đã đề ra chủ trương xây dựng nông thôn mới vừa phát triển kinh tế xã hội,
nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, phát triển nông nghiệp, nông thôn,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân sống ở nông thôn nói
riêng, đồng thời nhằm khắc phục những mặt yếu kém trên.
Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính
trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường”. Về mục tiêu cụ
thể, đến 2015: 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và đến 2020: 50% số xã
đạt chuẩn nông thôn mới (theo 19 tiêu chí được Thủ tướng Chính phủ cụ thể
hóa tại Quyết định số 491/QĐ - TTg ngày 16/4/2009) trên tổng số 9.121 xã
hiện nay; 100% số xã có quy hoạch nông thôn mới được duyệt; 100% cán bộ
cơ sở được đào tạo, tập huấn về kiến thức xây dựng nông thôn mới; thu nhập
bình quân của cư dân nông thôn bằng 2,5 lần so với hiện nay; tỷ lệ hộ nghèo
còn dưới 3%.
Nội dung chính của chương trình xây dựng nông thôn mới được xác
định là: (1) Quy hoạch xây dựng nông thôn mới; (2) Phát triển hạ tầng kinh tế
- xã hội; (3) Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập; (4)
Giảm nghèo và an sinh xã hội; (5) Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức
sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; (6) Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông
thôn; (7) Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn; (8) Xây dựng
đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn; (9) Cấp nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn; (10) Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn; (11) Giữ vững an ninh, trật tự
xã hội nông thôn. [11]
- Quyết định 491/QĐ - TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và Thông tư số
54/2009/TT - BNNPTNT, ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn hướng dẫn thực hiện Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
13
- Quyết định số 800/QĐ - TTg, ngày 4 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 - 2020.
- Quyết định 193/QĐ - TTg ngày 02/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
- Thông tư số 07/2010/TT - BNNPTNT ngày 08/02/2010 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn quy hoạch phát triển sản xuất nông
nghiệp cấp xã theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Kế hoạch số 18 - KH/TU ngày 14/10/2008 của Ban chấp hành Đảng
bộ Tỉnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn".
- Kế hoạch số 435/KH - BCĐXDNTM ngày 20/9/2010 của Ban chỉ đạo
Trung ương chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới về triển
khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -
2020 [11].
2.1.2.2. Sự cần thiết phải có chính sách phát triển nông thôn
- Phát triển nông thôn là lĩnh vực rất đa dạng, Nhà nước Việt Nam cần
quan tâm phát triển (thông qua các chính sách kinh tế của Chính phủ đối với
phát triển nông thôn) bởi vì i) nông sản là sản phẩm thiết yếu đối với toàn xã
hội; ii)sản xuất phát triển nông thôn thường gặp rủi ro; iii) dân số sống trong
lĩnh vực phát triển nông thôn và khu vực nông thôn chiếm tỷ trọng lớn (ở
Việt Nam có khoảng 70% dân số sống bằng nghề nông, ở nông thôn). Do
vậy, sự can thiệp của Chính phủ vào nông thôn là nhằm bảo đảm lợi ích của
người sản xuất.
- Đứng trên góc độ ngành sản xuất, nông sản thường là sản phẩm đầu
tiên của một chuỗi hàng, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động ở
những hoạt động khác nhau sau thu hoạch.
- Phát triển nông thôn sản xuất ra nguyên liệu cho công nghiệp chế

biến. Muốn công nghiệp chế biến phát triển thì cần phải xây dựng được cơ sở
nguyên liệu phát triển nông thôn.
- Cuối cùng thu nhập của nông dân thường thấp, trình độ dân trí ở khu
vực nông thôn thường thấp nên khả năng tiếp cận với kinh tế thị trường kém
14
và hiện nay nghèo đói vẫn tồn tại trong nông thôn. Chính phủ muốn phát triển
kinh tế đất nước thì phải từng bước nâng cao mức sống cho người dân, đặc
biệt là những người sống bằng nghề nông.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Tình hình xây dựng nông thôn mới ở trên thế giới
2.2.1.1. Mô hình Saemaul Ungdong của Hàn Quốc
Vào những năm 1960, nông thôn Hàn Quốc còn hết sức lạc hậu, đời
sống nhân dân còn gặp vô vàn khó khăn. Trong cả nước có 34% dân thuộc
vào nhóm nghèo đói và chỉ 20% có thể tiếp cận với điện. Dù đã đình chiến
nhưng tình hình hai miền Bắc - Nam vẫn đang căng thẳng, không có đủ kinh
phí để đầu tư phát triển nông thôn. Trước hoàn cảnh đó, bước vào những năm
1970, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thực hiện mô hình “Nông thôn mới” để
thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn.
Từ năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện mô hình “Nông thôn
mới” (Saemaul Undong - SMU) với mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa
nông thôn. Mô hình này thực hiện 16 dự án mà mục tiêu chính là cải thiện
môi trường sống cho người dân nông thôn: Mở rộng đường giao thông, hoàn
thiện hệ thống nước thải sinh hoạt, xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng, trồng
thêm cây xanh và xây dựng sân chơi cho trẻ em,… Cải thiện môi trường sống
cho người dân nông thôn được coi là nền tảng để bắt đầu cho quá trình phát
triển nông thôn.
Chính phủ đã liên tục điều chỉnh chính sách hỗ trợ phát triển để phù
hợp với tình hình thực tiễn. Năm 1971 các dự án thực hiện hỗ trợ cho 33
nghìn làng với mỗi làng là 300 bao xi măng. Đất đai và công lao động do
người dân trong chính các làng đó bỏ ra. Nhưng đến năm 1972, chiến lược

đầu tư được điều chỉnh. Chỉ còn một nửa trong số 33 nghìn làng của năm
1971 tiếp tục được hỗ trợ. Nhưng Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho các
làng này thêm một tấn thép và tăng lên 500 bao xi măng.
Để đánh giá kết quả của những chính sách này, dự án thực hiện việc
đánh giá và xếp loại các làng theo ba nhóm: Nhóm làng tích cực nhất, nhóm
trung bình và nhóm cơ bản. Bằng việc trao thưởng cho mỗi làng 2000 $ nếu
15
được thăng nhóm xếp hạng, chương trình đã tạo sư chuyển biến rõ rệt trong
việc phân loại các nhóm làng trong vòng 3 năm sau đó.
Con người là nhân tố quyết định
Để thực hiện có hiệu quả quá trình hỗ trợ cho các làng, dự án “Nông
thôn mới” chú trọng đến nhân tố con người. Trình độ văn hoá của người dân
nông thôn rất thấp cho nên việc phổ biến chính sách gặp phải không ít khó
khăn. Để khắc phục hạn chế này, dự án chú trọng vào việc phát triển đội ngũ
cán bộ cấp làng, cán bộ chính quyền địa phương.
Trước khi tiến hành hỗ trợ vào các làng, cán bộ dự án sẽ tiến hành các
điều tra xã hội học đối với ba nhóm đối tượng là: Cán bộ địa phương, cán bộ
làng và người dân. Các điều tra này cho phép cán bộ dự án biết được đích xác
nhu cầu hiện tại của các làng, suy nghĩ và trình độ nhận thức của lãnh đạo làng.
Dự án tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo cán bộ cấp làng và chính quyền
địa phương. Tại các lớp tập huấn, sẽ có các buổi thảo luận nhóm với chủ đề:
“Làm thế nào để người dân hiểu và thực hiện các chính sách của nhà nước ?”.
Với chủ đề này, lãnh đạo làng và chính quyền địa phương tham gia các lớp tập
huấn sẽ đưa ra những ý kiến, giải pháp cho hoàn cảnh cụ thể của làng mình.
Để sự tham gia của người dân chủ động và hiệu quả, các cán bộ làng sẽ
thực hiện quá trình trao đổi ý kiến với dân làng, tiếp thu ý kiến của nhân dân
để điều chỉnh và phát triển chương trình thực hiện.
Dự án Nông thôn mới trả lương cho cán bộ làng thay cho nhân dân như
trước đây, cho nên đã khuyến khích cả lãnh đạo làng lẫn nhân dân tích cực
thực hiện.

Nâng cao chất lượng cán bộ, lãnh đạo và tiếp thu ý kiến từ trong nhân
dân là hai biện pháp mang lại hiệu quả cao cho các dự án hỗ trợ trong mô
hình “Nông thôn mới”.
Kết quả của việc thực hiện mô hình nông thôn mới được thể hiện rất
nhanh chóng tại các làng mà các dự án được triển khai. Sau 7 năm thực hiện,
tổng chiều dài đường giao thông nội làng được tăng lên 42.000 km, đường
giao thông nối các làng với nhau là 43.000 km. Hệ thống cầu cống, các công
trình cung cấp nước sạch đã được hoàn thiện đồng bộ.
16
Thay đổi lớn nhất là việc thay đổi vật liệu làm nhà từ rơm rạ sang các
vật liệu công nghiệp (xi măng, tôn,…). Các nguồn năng lượng phục vụ cho
sinh hoạt của cư dân nông thôn được thay thế theo hướng hiện đại, thay bếp
và gần 100% dân nông thôn được dùng điện. Các giống lúa mới có năng suất
cao được đưa vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế lớn.
Một tác động to lớn nhất là làm tăng thu nhập của người dân. Năm
1970, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn mới chỉ đạt 824
USD/người/năm. Nhưng năm 1976, thu nhập đã tăng lên 3000 USD/người/
năm. Đó là một sự chuyển biến rất nhanh chóng và rõ nét.
Đến đầu những năm 1980, bộ mặt của nông thôn Hàn Quốc đã thay đổi
to lớn và toàn diện. Quá trình hiện đại hoá nông thôn đã được hoàn thành.
Chính phủ điều chỉnh chiến lược phát triển sang một giai đoạn mới
( tapchicongsan.org.vn)[17]
2.2.1.2. Mô hình phát triển nông nghiệp của Đài Loan
Để công nghiệp hoá nông nghiệp - nông thôn, Đài Loan có lợi thế so
với nhiều nước đang phát triển khác là tiếp nhận được một khoản viện trợ và
đầu tư nước ngoài lớn. Thu hút khoản viện trợ này vào các lĩnh vực nhiều lao
động như xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nông thôn, các ngành công
nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ. Trong giai đoạn đầu khôi phục kinh tế, một
phần lớn tiền viện trợ (khoảng 30%) dùng cho việc tái thiết nông thôn. Việc
lập kế hoạch tham mưu xây dựng chính sách và điều hành đầu tư cho nông

thôn được giao cho cơ quan Tái thiết Nông thôn (JCRR) thành lập năm 1948.
Quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn Đài Loan gắn liền
với chiến lược phát triển chung của kinh tế Đài Loan. Quá trình này trải qua 3
giai đoạn: 1953-1963, thực hiện chiến lược phát triển hướng nội thay thế nhập
khẩu. Nhờ đó, tạo việc làm, phát triển công nghiệp tăng mức sống dân cư,
giảm việc nhập siêu ngoại tệ. Giai đoạn 1963 - 1973 phát triển hướng ngoại,
hướng vào xuất khẩu. Thập kỷ 70 - 80 áp dụng chiến lược “chuyển đổi tăng
tốc”. Chính phủ thành lập 17 khu vực công nghiệp nông thôn để hỗ trợ phát
triển ngành thủ công và công nghiệp nông thôn. JCRR cung cấp vận dụng, hỗ
trợ công nghệ cho các dự án này, tập trung vào công nghiệp chế biến nông
17
sản. Các doanh nghiệp với sự bảo trợ của chính quyền, phối hợp với Nông hội
ký kết hợp đồng với nông dân sản xuất nguyên liệu cho các nhà máy và tiêu
thụ nông sản cho nông dân. Chế biến nông sản thực phẩm, công nghiệp dệt,
đồ may mặc, đồ da, đồ gỗ, sản phẩm thép, thiết bị máy,… phục vụ xuất khẩu
chiếm ưu thế. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm;
tạo mối liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp, hình thành mối
quan hệ hợp đồng giữa nông dân vùng nguyên liệu với nhà máy.
Đài Loan áp dụng thành công mô hình kinh tế “liên kết”. Các thành
phần kinh tế đều kết nối chặt chẽ và chia sẻ lợi ích với nhau: Nông dân - nông
hội - chính phủ; doanh nghiệp nước ngoài - doanh nghiệp vệ tinh trong nước;
nông dân - nhà máy; sản xuất tiêu thụ nội địa - xuất khẩu; công nghiệp thành
phố - kinh tế nông thôn,… Nông nghiệp không chỉ là nền tảng trong tiến trình
công nghiệp hóa, mà thực sự tham gia tích cực vào giai đoạn đầu cung cấp
lương thực, nguyên liệu cho xã hội, chuyển vốn và lao động, tích luỹ ngoại tệ
cho công nghiệp, tạo ra thị trường rộng lớn và ổn định trong nước nuôi công
nghiệp lớn lên vươn ra thế giới ( tapchicongsan.org.vn)[17].
2.2.1.3. Nhật Bản và phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm"
Từ năm 1979, tỉnh trưởng Oita - ông Morihiko Hiramatsu đã khởi
xướng và phát triển phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm" (One Village, one

Product-OVOP) với mục tiêu phát triển vùng nông thôn của khu vực này một
cách tương xứng với sự phát triển chung của cả Nhật Bản. Phong trào "mỗi làng
một sản phẩm" dựa trên 3 nguyên tắc chính là: địa phương hoá rồi hướng tới toàn
cầu; tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, nhấn
mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ kỹ thuật, quảng
bá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm được xác định là thế mạnh. Sau 20 năm áp dụng
OVOP, Nhật Bản đã có 329 sản phẩm đặc sản địa phương có giá trị thương mại
cao như như nấm hương Shitake, rượu Shochu lúa mạch, cam Kabosu, giúp
nâng cao thu nhập của nông dân địa phương (tapchicongsan.org.vn)[17].
2.2.1.4. Tại Thái Lan
Thông qua mô hình OVOP, Chính phủ đã xây dựng dự án cấp quốc gia
"mỗi xã, một sản phẩm" (One Tambon one Product-OTOP) nhằm tạo ra sản
phẩm mang tính đặc thù của địa phương có chất lượng, độc đáo, bán được
trên toàn cầu. Sản phẩm của OTOP được phân loại theo 4 tiêu chí: có thể xuất

×