Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp giảm nghèo tại Xã Tổng Cọt huyện Hà Quảng - tỉnh Cao Bằng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.3 KB, 86 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




DƯƠNG VĂN HƯNG


Tªn ®Ò tµi:
NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO
TẠI XÃ TỔNG CỌT, HUYỆN HÀ QUẢNG, TỈNH CAO BẰNG



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2010 - 2014




THÁI NGUYÊN - 2014




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



DƯƠNG VĂN HƯNG


Tªn ®Ò tµi:

NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO
TẠI XÃ TỔNG CỌT, HUYỆN HÀ QUẢNG, TỈNH CAO BẰNG



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2010 - 2014

Giảng viên hướng dẫn: Th.S. Lành Ngọc Tú
Khoa Kinh tế & PTNT - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên





THÁI NGUYÊN - 2014

LỜI CẢM ƠN

Được sự nhất trí của ban giám hiệu nhà trường, ban chủ nhiệm khoa
kinh tế và phát triển nông thôn trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sau
khi hoàn thành khóa học ở trường tôi đã tiến hành thực tập tốt nghiệp tại xã
Tổng Cọt - huyện Hà Quảng - tỉnh Cao Bằng với đề tài:
“Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp giảm nghèo tại Xã Tổng
Cọt huyện Hà Quảng - tỉnh Cao Bằng”.
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi xin chân
thành bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến các tập thể, các cơ quan, tổ chức đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại Học Nông Lâm
Thái Nguyên, Phòng Đào tạo, khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn cùng các
thầy cô giáo những người đã cung cấp trang thiết bị kiến thức cho tôi trong
suốt quá trình thực tập.
Cảm ơn UBND xã Tổng Cọt các ban ngành cùng nhân dân trong xã
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong qua trình thực tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin chân trọng cảm ơn
thầy giáo Th.S. Lành Ngọc Tú - người đã trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài tốt nghiệp của tôi chắc hẳn
không thể tránh khỏi những sơ suất và thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự
đóng góp của các thầy cô giáo và cùng toàn thể các bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014

Sinh viên


Dương Văn Hưng










DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

STT Chữ viết tắt

Nghĩa
1 BHYT Bảo hiểm y tế
2 BQ Bình quân
3 THCS Trung học cơ sở
4 XĐGN Xóa đói giảm nghèo
5 UBND Ủy ban nhân dân
6 CSHT Cơ sở hạ tầng
7 NGO Tổ chức phi chính phủ
8 KH-KT Khoa học kỹ thuật
9 CP Chính phủ
10 LHQ Liên hợp quốc
11 HGĐ Hộ gia đình

12 DN Doanh nghiệp
13 BHXH Bảo hiểm xã hội
14 HTX Hợp tác xã
15 CNH-HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

16 GN Giảm nghèo






DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN

Trang
Bảng 2.1: Chuẩn mực xác định nghèo đói giai đoạn 2005 - 2010 và 2010-2015
của Bộ Lao động-TB&XH 14
Bảng 3.1. Thành phần dân tộc, giới tính của đối tượng phỏng vấn. 40
Bảng 4.1. Tình hình sử dụng đất đai của xã Tổng Cọt từ năm 2011-2013 44
Bảng 4.2. Tình hình nuôi trồng các loại cây, con xã Tổng Cọt 46
Bảng 4.3. Tình hình phát triển cây trồng chính của xã Tổng Cọt 49
Bảng 4.4. Tình hình dân số và lao động của xã Tổng Cọt năm 2013 50
Bảng 4.5. Hiện trạng cơ sở hạ tầng trên địa bàn xã Tổng Cọt năm 2013 53
Bảng 4.6. Tỷ lệ hộ nghèo của xã Tổng Cọt giai đoạn 2011-2013 57
Bảng 4.7. Tình hình về nhân khẩu và lao động của nhóm hộ điều tra 59
Bảng 4.8. Tình hình sử dụng đất của các nhóm hộ nghiên cứu xã Tổng Cọt
năm 2013 60
Bảng 4.9. Tình hình vay vốn của nhóm hộ điều tra năm 2013 61
Bảng 4.10. Tình hình thu nhập của nhóm hộ điều tra năm 2013 62
Bảng 4.11. Phương tiện sinh hoạt của nông hộ 64

Bảng 4.12. Phương tiện sản xuất của các nông hộ 65
Bảng 4.13. Tình hình học tập chủ hộ của các hộ điều tra 66
Bảng 4.14. Những nguyên nhân dẫn đến nghèo của các hộ điều tra
năm 2013 67







DANH MỤC HÌNH TRONG KHÓA LUẬN

Trang

Hình 4.1. Tình hình sử dụng đất đai của xã Tổng Cọt từ năm 2011-2013 45
Hình 4.2. Sự biến động về diện tích các loại cây trồng của xã Tổng Cọt giai
đoạn 2011-2013 47
Hình 4.3. Cơ cấu thu nhập của các hộ gia đình nghèo trong các hộ điều tra của
xã Tổng Cọt 63
Hình 4.4. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của nhân dân trong xã 68
Hình 4.5. Vòng luẩn quẩn nghèo đói tại xã Tổng Cọt 72

















MỤC LỤC

Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 10
1.1. Đặt vấn đề 10
1.2. Mục đích nghiên cứu 11
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 11
1.4. Ý nghĩa của đề tài 12
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu 12
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn 12
PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 13
2.1. Cơ sở khoa học 13
2.1.1. Một số quan điểm về đói, nghèo 13
2.1.2. Hộ nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo của Chương
trình xóa đói giảm nghèo quốc gia 14
2.1.3 Tính tất yếu, cấp thiết phải thực hiện xóa đói giảm nghèo 15
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 15
2.2.1. Thực trạng nghèo trên thế giới và khu vực hiện nay 15
2.2.2. Thực trạng nghèo tại Việt Nam 19
2.2.3. Nguyên nhân nghèo đói của nước Việt Nam 21
2.2.4. Quan điểm và mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam 25
2.2.4.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước

25
2.2.4.2. Mục tiêu thiên nhiên kỷ.
28
2.2.5.Những thành tựu và kinh nghiệm trong công tác giảm nghèo
của một số nước trên thế giới
2.2.6.Một số địa phương làm tốt công tác giảm nghèo trong nước

PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 38
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 38
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 38
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 38
3.2. Nội dung nghiên cứu 38
3.3. Phương pháp nghiên cứu 38
3.3.1. Thu thập thông tin thứ cấp 38
3.3.2. Thu thập thông tin sơ cấp 39
3.3.3. Phương pháp chọn mẫu 39
3.3.4. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 41
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
4.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Tổng Cọt 42
4.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 42
4.1.1.1. Vị trí địa lý
42
4.1.1.2. Địa hình địa mạo
42
4.1.1.3. Khí hậu, thủy văn
42
4.1.1.4. Đặc điểm đất đai
43
4.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội 45

4.1.2.1. Đặc điểm kinh tế
45
4.1.2.2. Đặc điểm văn hóa xã hội
49
4.1.3. Đánh giá chung về địa bàn nghiên cứu. 53
4.2. Thực trạng đời sống của người dân tại Xã Tổng Cọt 56
4.2.1. Tình hình chung của nhóm hộ điều tra 58
4.2.1.1. Tình hình nhân khẩu và lao động của các nhóm hộ điều
tra.
58
4.2.1.2. Đặc điểm về sử dụng đất đai của nhóm hộ điều tra.
59
4.2.1.3. Tình hình vay vốn của nhóm hộ điều tra
60
4.2.1.4. Tình hình thu nhập của các hộ điều tra năm 2013
62
4.2.1.5. Phương tiện sinh hoạt của nhóm hộ điều tra (60 hộ)
63
3.2.1.6. Phương tiện sản xuất của nhóm hộ điều tra
64
4.2.1.7. Trình độ học vấn của nhóm hộ điều tra
65
4.2.2. Nguyên nhân nghèo của các hộ gia đình trong xã 66
4.2.3. Mong muốn của người dân trong xã 73
4.3. Một số các chương trình ưu đãi đối với người nghèo của Đảng và Nhà
nước đang được thực hiện ở xã 74
4.3.1. Chính sách hỗ trợ về y tế 74
4.3.2. Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở 74
4.3.3. Hỗ trợ các giống cây trồng, vật nuôi 75
4.3.4. Quà tết và chế độ hỗ trợ các gia đình nghèo ăn tết 75

4.4. Những vấn đề cần giải quyết 75
4.5. Một số giải pháp giảm nghèo tại Xã Tổng Cọt 76
4.5.1. Giải pháp chung 76
4.5.1.1. Giải pháp về quan điểm nhận thức
76
4.5.1.2. Giải pháp về công tác quy hoạch định hướng phát triển
77
4.5.1.3. Giải pháp về xã hội
77
4.5.1.4. Giải pháp về cơ sở hạ tầng
77
4.5.1.5. Tăng cường nguồn lực cho các chương trình xóa đói
giảm nghèo
78
4.5.1.6. Tạo điều kiện thích hợp cho các hộ nghèo phát triển kinh
tế, tự vươn lên giảm nghèo bền vững
78
4.5.1.7. Các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro và tổn thương cho
các hộ nghèo
79
4.5.2. Giải pháp cụ thể 79
Phần 5: KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 82
5.1. Kết luận 82
5.2. Kiến nghị 83
5.2.1. Đối với Đảng và Nhà nước 83
5.2.2. Đối với người dân 84
5.2.3. Đối với hộ nông dân nghèo 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86









Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Đối với tất cả các nước trên thế giới, đói nghèo luôn là vấn đề được xã
hội quan tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn luôn tồn
tại tình trạng phân hóa giàu nghèo. Còn ở những nước đang phát triển với
thu nhập trung bình và thấp, trong đó bao gồm Việt Nam, thì một bộ phận
không nhỏ dân cư vẫn sống ở mức nghèo khổ, đặc biệt còn có những người
sống trong hoàn cảnh rất khó khăn vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, không
đủ ăn trong khi đây là nhu cầu thiết yếu của con người.
Mức độ đói nghèo cũng có sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng
miền trong cả nước do những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội. Trong đó, đói nghèo ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng
xa trầm trọng hơn các khu vực miền xuôi. Tình trạng đó đã gây ảnh hưởng
rất xấu tới chất lượng cuộc sống nhân dân vùng núi. Trong những năm gần
đây, Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm, nhiều chủ trương chính sách
tích cực giúp xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cho vùng núi và đã đạt những kết
quả nhất định. Song trên thực tế, tình hình đói nghèo nơi đây vẫn còn khá
nghiêm trọng bởi những chính sách này chưa thật sự hoàn thiện và phù hợp
với tình hình địa phương, và do đó sự tác động của những chính sách này tới
việc khắc phục đói nghèo miền núi chưa thật sự hiệu quả.
XĐGN cũng như chữa bệnh, điều cốt lõi là phải tìm ra được đâu là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói? Trong đó, nguyên nhân nào là

nguyên nhân chính? Từ đó đưa ra được những giải pháp đúng đắn nhất, hiệu
quả nhất nhằm giúp người dân xoá nghèo.
Tổng Cọt là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Hà Quảng, tỉnh Cao
Bằng. Là một xã gồm 3 thành phần dân tộc sinh sống (Nùng, Tày và Kinh),
mấy năm trước đây sản xuất kinh tế của người dân mang tính tự cung, tự
cấp, không có cơ hội tiếp cận thông tin, cơ sở hạ tầng nghèo nàn như: Giao
thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, đời
sống của người dân nơi đây còn nghèo nàn, được sự giúp đỡ quan tâm của
các cấp ban ngành của Đảng và Nhà Nước thì những năm qua xã Tổng Cọt đã
tổ chức và thực hiện rất nhiều những chương trình theo chủ chương chính sách
của Nhà Nước trong việc hỗ trợ và giúp đỡ người nghèo nhằm giảm tỷ lệ nghèo
đói nơi đây. Tổng Cọt đã từng bước khắc phục được những khó khăn, đặc
biệt là hệ thống giao thông đi lại được bằng xe máy, xe ô tô đi được đến
trung tâm xã và các xóm, có các công trình thủy lợi nhỏ phục vụ tưới tiêu
sản xuất nông nghiệp, xây dựng kiên cố được các trường học, có điện lưới ở
các xóm trung tâm , và đời sống của người dân ngày một được cải thiện.
Một vấn đề quan trọng đặt ra là: Mặc dù đã có sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước và sự nỗ lực của chính quyền địa phương nhưng tỷ lệ nghèo
của người dân trong xã vẫn cao, năm 2013 chiếm 60,93% tỉ lệ hộ nghèo,
kinh tế tăng trưởng chậm, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng kém. Từ thực
tế trên việc tìm hiểu, xác định nguyên nhân nghèo đói của người dân trên địa
bàn xã có thể đề ra những đề xuất và các giải pháp trong việc XĐGN tại địa
phương là hết sức cần thiết. Chính vì lí do đó tôi đã quyết định chọn đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình đó là: “Nghiên cứu và đề xuất một số giải
pháp giảm nghèo tại xã Tổng Cọt, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng”, với
mong muốn có cái nhìn tổng thể về thực trạng nghèo của cộng đồng người
dân tại xã Tổng Cọt, từ đó tìm ra các nguyên nhân dẫn tới nghèo và đề xuất
một số giải pháp góp phần giảm nghèo cho địa phương trong giai đoạn tiếp
theo.
1.2. Mục đích nghiên cứu

Đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân và những yếu tố chính ảnh
hưởng đến nghèo của các hộ nông dân và đưa ra những giải pháp giảm
nghèo cải thiện đời sống nhân dân trong xã.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Điều tra sơ bộ và phân tích thực trạng nghèo tại địa bàn ngiên cứu
- Những nguyên nhân dẫn tới nghèo tại địa bàn nghiên cứu.
- Tìm hiểu về các chương trình xóa đói giảm nghèo đã thực hiện tại địa
phương, những kết quả đạt được và hạn chế trong các chính sách giảm
nghèo.

- Đề xuất được các giải pháp giảm nghèo phù hợp và thật sự thiết thực
với các hộ gia đình nghèo tại địa phương nhằm góp phần giảm tỷ lệ nghèo
và xây dựng địa phương ngày càng phát triển.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài là cơ hội để cho sinh viên thực hành những kiến
thức đã học, áp dụng kiến thức vào thực tế, là khung chương trình mà bộ
Giáo dục và Đào tạo đề ra có tính chất tất yếu giúp sinh viên nâng cao kiến
thức và kinh nghiệm thực tế. Nghiên cứu đề tài được xem như bài học thực
tế đầu tiên giúp cho sinh viên làm quen khi bắt tay vào thực tế, nó là cơ hội
nhưng cũng đầy thách thức mà sinh viên phải đối mặt và trải qua trước khi
ra trường và bắt tay vào công việc, nghề nghiệp của mình sau này.
Nghiên cứu đề tài đòi hỏi sinh viên phải vận dụng nhiều kiến thức đã
học để đưa vào thực tế, các thủ thuật về xác suất thống kê, kỹ năng đặt câu
hỏi khai thác thông tin, các phương pháp PRA, khả năng phân tích xử lý số
liệu, khả năng nhận định theo các nguyên lý phát triển nông thôn, sự tổng
hợp và đưa ra lý luận từ những vấn đề thực tiễn
Đây là đề tài nghiên cứu có tính chất cấp thiết và quan trọng hàng đầu
trong các chương trình phát triển kinh tế, xã hội của thế giới cũng như Việt
Nam. Bởi trong các vấn đề của xã hội thì nghèo đói được xem là gốc dễ dẫn

tới nhiều những vấn đề khác của cuộc sống. Nó là một mắt xích trong vòng
luẩn quẩn của các vấn đề xã hội.
Đây cũng là nguồn tài liệu bổ xung cho kho thư viện phục vụ cho
công tác nghiên cứu học tập của các bạn sinh viên khóa sau cũng như công
tác giảng dạy của các thầy các cô. Và cũng là cơ sở cho việc hình thành,
thực hiện những ý tưởng khoa học sau này.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài sẽ góp phần vào việc đánh giá thực trạng đói nghèo tại địa
phương, những nguyên nhân nghèo đói, hiệu quả của các chính sách,
chương trình triển khai tới đời sống sinh hoạt và sản xuất của bà con địa
phương Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là cơ sở giúp chính quyền và ban ngành
đoàn thể trong xã đưa ra được những biện pháp giảm nghèo có hiệu quả hơn.
PHẦN 2
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Một số quan điểm về đói, nghèo
Quan điểm về nghèo đói hay nhận dạng nghèo đói của từng quốc gia
hay từng vùng, từng nhóm dân cư nhìn chung không có sự khác biệt đáng
kể, tiêu chí chung nhất để xác định đói nghèo vẫn là mức thu nhập hay mức
chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về ăn, ở, mặc, y tế
giáo dục, đi lại và giao tiếp xã hội.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thỏa
mãn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương tiện.
Một cách hiểu khác: nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
ngưỡng quy định của sự nghèo, những ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc
điểm củ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
Ngân hàng phát triển châu á (ADB) đưa ra:
+ Nghèo tuyệt đối là việc không thỏa mãn nhu cầu tối thiểu để nhằm
duy trì cuộc sống của con người.

+ Nghèo tương đối là tình trạng không đạt tới mức sống tối thiểu tại
một thời điểm nào đó.
Khái niệm về hộ đói: hộ đói là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức tối thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống
hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa
thường xuyên phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ.
Khái niệm về hộ nghèo: hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình
chỉ thỏa mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và mức sống thấp
hơn mức sống trung bình của cộng đồng,xét trên mọi phương tiện.
Ngoài ra còn có khái niệm xã nghèo và vùng nghèo
Xã nghèo là xã có những đặc trưng như sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của xã.
- Không có hoặc thiếu rất nhiều công trình cơ sơ hạ tầng như: điện sinh
hoạt, Đường giao thông, trường học, trạm y tế và nước sinh hoạt.
- Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Khái niệm vùng nghèo là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số
xã liền kề nhau hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở,
giao thông không thuận lợi.
2.1.2. Hộ nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo của Chương trình
xóa đói giảm nghèo quốc gia
Bảng 2.1: Chuẩn mực xác định nghèo đói giai đoạn 2005 - 2010 và
2010-2015 của Bộ Lao động-TB&XH

Chỉ tiêu

Địa bàn
Thu nhập bình quân
người/tháng
2005 - 2010 2010 – 2015
Nghèo

- Nông thôn
- Thành thị
200.000
260.000
400.000
500.000
Đói Không áp dụng Không áp dụng

(Nguồn: Chuẩn mực xác định nghèo đói của Bộ Lao động - TB&XH)
Theo chuẩn mới áp dụng cho giai đoạn 2005-2010 thì nước ta có 3,9
triệu hộ nghèo chiếm 22% dân số cả nước.khi đó hộ nghèo ở nông thôn miền
núi sẽ là 45,9 %, nông thôn đồng bằng là 23,2 % khu vực thành thị là 12,2%
Năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo của nước ta giảm xuống còn 12% mục tiêu
của nước ta vào năm 2012 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 9-10% tránh tình
trạng tái nghèo.
Đây là thách thức lớn của đảng và nhà nước ta.
Song những chuẩn mực này cũng được điều chỉnh cho phù hợp với
từng vùng, từng địa phương căn cứ vào:
- Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh (thành phố)địa phương cao
hơn mức thu nhập bình quân của cả nước
- Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh (thành phố) địa phương thấp hơn tỷ lệ nghèo
đói chung của cả nước.
Nguồn lực hỗ trợ cho hộ nghèo.
Nhưng do tính chất phức tạp của nghèo đói nên không thể đưa ra những
chuẩn mực chung nhất để áp dụng, ở các vùng các quốc gia khác nhau các
chuẩn mực xác định đói nghèo cũng khác nhau, ngay cả cùng một địa điểm
những chuẩn mực cũng được thay đổi theo thời gian. Cho nên những chuẩn
nghèo giữa các khu vực có sự chênh lệch.
2.1.3 Tính tất yếu, cấp thiết phải thực hiện xóa đói giảm nghèo
“Sống một cuộc sống nghèo khổ hiển nhiên sẽ gây ra những thất vọng

mà thất vọng này là nguồn gốc của những hành động phá phách gây phiền
hà cho cuộc sống và trật tự xã hội, hoàn cảnh nghèo khổ buộc người ta phải
khai thác bừa bãi môi trường và làm giảm khả năng sản xuất của nó, là
mầm bệnh cho các xung đột về chính trị, xã hội, phá hoại những giá trị cơ
bản của con người và làm xói mòn hạnh phúc gia đình, những hành động
kiểu này đang là bi kịch cho nhiều gia đình và xã hội” (Báo cáo tổng kết
chương trình giảm nghèo ở châu Á - Thái Bình Dương).
Nghèo đói là nguyên nhân của hàng loạt những tác động tiêu cực với
sự phát triển xã hội và phát triển con người mà biểu hiện cụ thể của nó là:
Thu nhập thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mức sống của con người,
mức sống không đảm bảo dẫn đến hậu quả tất yếu, đó là duy dinh dưỡng ở
trẻ em và giảm tuổi thọ ở người lớn. Nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại là nhu
cầu bản năng, nhu cầu đầu tiên của mỗi người. Trong điều kiện thu nhập
thấp, thì chi tiêu cho giáo dục, cho y tế và cho các sinh hoạt khác sẽ bị cắt
giảm để nhường chỗ cho các chi tiêu về lương thực, về quần áo Thiếu sự
chăm sóc về y tế, giáo dục thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, phòng tránh
thai cũng như chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em dẫn tới tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ
tử vong cao ở trẻ sơ sinh, thậm chí cả các bà mẹ.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Thực trạng nghèo trên thế giới và khu vực hiện nay
Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều hướng rất
đáng báo động. Theo một nghiên cứu của WB, nguy cơ đối với người nghèo
đang tiếp tục gia tăng trên quy mô toàn cầu, và tốc độ tăng trưởng kinh tế
suy giảm trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình trạng
nghèo đói, thêm vào con số 130-155 triệu người của năm 2008, khi giá nhiên
liệu và thực phẩm tăng cao.
Suy thoái kinh tế dự kiến mỗi năm sẽ đe dọa thêm mạng sống của
200.000 đến 400.000 trẻ em trong giai đoạn 2010-2015, theo đó 1,4 đến 2,8
triệu trẻ em có thể bị tử vong nếu khủng hoảng tiếp diễn.
Chỉ số đói nghèo toàn cầu (GHI) được đánh giá trên 3 dấu hiệu cơ

bản: tỷ lệ người thiếu ăn, mức độ phổ biến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ
em dưới 5 tuổi; tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi. Nhìn chung, trong
những năm từ 1990 đến 2009, GHI trung bình của thế giới đã giảm gần 1/5.
Nhiều quốc gia đã giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em. Tuy nhiên,
tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi và tỷ lệ người thiếu ăn vẫn còn khá cao.
Đói nghèo giết chết hơn 30.000 trẻ dưới 5 tuổi trên khắp thế giới mỗi
ngày, báo cáo của Manos Unidas - một tổ chức phi chính phủ (NGO) Tây
Ban Nha, Manos Unidas (United Hands) cho biết điều này có nghĩa là có
khoảng 11 triệu trẻ em chết mỗi năm vì nghèo đói, trong đó có 7 triệu trẻ
dưới 5 tuổi; 130 triệu trẻ không được đi học và 82 triệu trẻ bị mất tuổi thơ
bởi phải kết hôn quá sớm.
Báo cáo của Manos Unidas cũng cho hay hiện có 15 triệu trẻ em trên
thế giới bị mồ côi vì AIDS, đa số rơi vào trẻ ở Nam Phi; 246 triệu trẻ phải đi
làm khi chưa đủ tuổi lao động, trong đó có 72 triệu trẻ dưới 10 tuổi. Trong
khi đó, theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, có khoảng 100 triệu trẻ em trên
thế giới không có nhà cửa và đang sống trên các đường phố. Trước thực
trạng này, Liên Hiệp Quốc (LHQ) kêu gọi các nước cải thiện điều kiện y tế
và vệ sinh, giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em, cải thiện tình trạng đói nghèo và
tạo điều kiện cho trẻ em phổ cập giáo dục tiểu học.
Năm 2000, các nước trên thế giới đã thống nhất đề ra mục tiêu này,
theo đó giảm một nửa số người nghèo đói vào năm 2015. Tuy nhiên, trong
bối cảnh các cuộc khủng hoảng lương thực, tài chính diễn ra liên tiếp đẩy số
người nghèo tăng cao như hiện nay, đối với nhiều nước, mục tiêu này là bất
khả thi.
Báo cáo của "Sodexho Foundation", một tổ chức từ thiện chuyên theo
dõi về nạn nghèo đói ở Mỹ, cho biết, nạn nghèo đói ở nước này trong nhiều
năm qua không giảm mà còn có chiều hướng tăng. Theo thống kê, trong năm
2005, toàn nước Mỹ có khoảng 35 triệu người thường xuyên không đủ ăn,
phải sống dựa vào các nguồn từ thiện. Trong 90 tỉ USD chỉ cho người nghèo
hàng năm, tới 66,7 tỉ USD dành cho y tế và chữa bệnh; 14,5 tỉ USD chi dưới

các dạng tem phiếu hoặc các suất ăn từ thiện hàng ngày; 9,2 tỉ USD bị thiệt
hại do năng suất lao động giảm.
Tổ chức từ thiện Finn Care của Anh công bố một nghiên cứu cho thấy
khoảng 12,5 triệu người Anh, tức 20% dân số nước này, đang sống dưới
mức nghèo đói (theo chuẩn của Anh). Đây là thực tế đáng ngạc nhiên bởi
Anh vốn được xem là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới. Hơn 140 triệu người ở
châu Á bị đẩy vào tình trạng cực kỳ nghèo đói trong năm 2009 khi nạn thất
nghiệp gia tăng do suy thoái kinh tế toàn cầu. Đó là cảnh báo của Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) trong bản báo cáo mang tên The Fallout in Asia
được công bố ngày 18/2/2010.
Theo nhận định của ông Kuroda (Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu
Á (ADB), khoảng 620 triệu người ở châu Á sống dưới mức 1USD/ngày. Ít
nhất một nửa và trong số này lần lượt sống ở Ấn Độ và Trung Quốc - 2 nước
có nền kinh tế đang phát triển mạnh.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, châu Phi là châu lục có tỷ lệ
thanh niên thất nghiệp cao nhất thế giới (25,6% ở khu vực Trung Đông và
Bắc Phi). Thất nghiệp là một trong những vấn đề chủ chốt gây ra nạn đói
nghèo của lục địa Đen và ảnh hưởng tiêu cực đến các chương trình và các kế
hoạch phát triển, với tỷ lệ tăng 10% mỗi năm. 32 trong số 38 nước nghèo
nhất thế giới là thuộc châu Phi. Số tiền nợ của châu Phi lên tới 425 tỉ USD.
Tuổi thọ trung bình ở châu Phi thấp nhất thế giới, 45 tuổi. Chỉ có 58% số
người dân châu Phi được dùng nước sạch.
Từ vài thập kỷ nay, tỷ lệ mù chữ tại châu Phi gia tăng, chiếm khoảng
40% số dân châu Phi ở độ tuổi 15 và chiếm hơn 50% số phụ nữ ở độ tuổi 25.
Từ nhiều năm nay, châu Phi đã phải gánh chịu một vấn đề kinh niên là vấn
đề người tị nạn. Theo các con số chính thức, tại châu Phi có hơn 7 triệu
người tị nạn và hơn 20 triệu người không có nhà cửa do hàng loạt các cuộc
xung đột và nội chiến gây ra và đã để lại một hậu quả nặng nề về nạn đói,
nạn suy dinh dưỡng và kinh tế bị đình trệ.
Châu Phi đang phải đối mặt với nạn hạn hán kinh niên và bị thiếu

nước sạch thường xuyên, điều này đã và đang cản trở sự phát triển của châu
lục này. Tình trạng không được sử dụng nước sạch và mất vệ sinh đã gây ra
những hậu quả tai hại và là nguồn gây ra các bệnh dịch trên toàn châu Phi.
Mặc dù trong những năm qua, các nước châu Phi đã đạt được những tiến bộ
về việc cung cấp nước sạch và điều kiện vệ sinh, song những mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ vẫn chưa đạt được.
Đói nghèo đã trở thành thách thức lớn, đe dọa đến sự sống còn, ổn
định và phát triển của thế giới và nhân loại. Sở dĩ như vậy bởi vì thế giới là
một chỉnh thể thống nhất, và mỗi quốc gia là một chủ thể trong chính thể
thống nhất ấy. Toàn cầu hóa đã trở thành cầu nối liên kết các quốc gia lại với
nhau, các quốc gia có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, sự ổn định và
phát triển của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến sự ổn định
và phát triển của các quốc gia khác.
Nghèo đói đe dọa đến sự sống của loài người bởi "đói nghèo đã trở
thành một vấn đề toàn cầu có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng, nó là
nhân tố có khả năng gây bùng nổ những bất ổn chính trị, xã hội và nếu trầm
trọng hơn có thể dẫn tới bạo động và chiến tranh" không chỉ trong phạm vi
một quốc gia mà là cả thế giới. Bởi, những bất công và nghèo đói thực sự đã
trở thành những mâu thuẫn gay gắt trong quan hệ quốc tế; và nếu những mâu
thuẫn này không được giải quyết một cách thỏa đáng bằng con đường hòa
bình thì tất yếu sẽ nổ ra chiến tranh.
Mặt khác, đói nghèo còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
nhân loại. Thay vì con người có thể tập trung toàn bộ nguồn lực cho phát
triển, thì một phần lớn nguồn lực đó phải dành ra để giải quyết vấn đề đói
nghèo và các vấn đề toàn cầu khác do đói nghèo mang lại. Nghèo đói, bất
công là nguyên nhân của tội phạm quốc tế (khủng bố, nạn buôn bán ma túy
và rửa tiền); nghèo đói cộng với thiếu hiểu biết kéo theo đó là gia tăng dân
số, cạn kiệt nguồn nước, khan hiếm nguồn năng lượng (do sự gia tăng nhanh
chóng những hoạt động kinh tế của con người); lương thực, thực phẩm ngày
càng thiếu hụt; bệnh tật (nhất là đại dịch HIV/AIDS) ngày càng lan tràn, khó

kiếm soát; môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng và vấn đề di dân tự do
đang ngày càng trở nên phức tạp.
Như vậy, đói nghèo là một trong những nguyên nhân đang trực tiếp đe
dọa đến sự tồn vong và phát triển của loài người. Tác động của nó trong
quan hệ quốc tế là rất lớn và vì vậy vấn đề này không phải của một quốc gia
riêng lẻ nào mà là của toàn nhân loại, đòi hỏi thế giới phải chung tay để giải
quyết một cách triệt để và toàn diện. Ngăn chặn tình trạng đói nghèo sẽ
không chỉ giúp nâng cao cuộc sống tại các nước đang phát triển mà còn
mang lại sự bảo đảm về an ninh cho các nước giàu.
Xin trích lời của ông Jacques Diouf, Giám đốc Tổ chức Nông - Lương
thế giới: "Để có thể loại trừ nạn đói này mỗi năm phải có ngân khoản 30 tỉ
mỹ kim, tức 8% ngân khoản mà các nước kỹ nghệ tân tiến đã yểm trợ cho
ngành nông nghiệp của họ; và thực ra nó không là gì cả đối với số tiền các
chính quyền dành cho việc mua sắm khí giới hay để chống lại cuộc khủng
hoảng tài chính trên thế giới hiện nay".
Dẫu biết rằng đó chỉ là so sánh trên con số chứ không thể đem ra đo
đếm trong hiện thực nhưng vẫn cho chúng ta biết được rằng đói nghèo là vấn
đề mà nếu các quốc gia trên thế giới một lòng quan tâm và dốc sức vào nó
thì nó không thể không bị đẩy lùi. Thiên tai, biến động kinh tế, chính trị vẫn
xảy ra hàng năm và những người dân nghèo là những người hứng chịu hậu
quả rõ rệt nhất, đặc biệt là trẻ em: đói như nỗi lo thường trực đánh cắp mất
quyền hòa nhập vào cuộc sống bình thường như công dân thế kỷ XXI của
những con người khốn khổ.
2.2.2. Thực trạng nghèo tại Việt Nam
Sáng 30/5/2011, tại Hà Nội, Bộ lao động thương binh và xã hội đã
công bố kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2010 và Nghị quyết số
80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011 - 2020.
Bộ lao động, Thương binh và xã hội công bố kết quả tổng điều tra hộ
nghèo, hộ cận nghèo trên toàn quốc năm 2010 theo chuẩn nghèo mới (thu
nhập hàng tháng của hộ gia đình nghèo là 400.000 đồng trở xuống ở nông

thôn và 500.000 đồng trở xuống ở thành thị).
Theo đó, tổng số hộ nghèo cả nước là 3.055.566 hộ, hộ cận nghèo là
1.612.381 hộ. Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã giảm từ 22% năm
2005 xuống còn 9,45% năm 2010. Xét về tỷ trọng số người nghèo ở từng
vùng so với tổng số hộ nghèo trên cả nước, với 77.802 hộ nghèo, chiếm tỷ
trọng 2,55%, khu vực Đông Nam Bộ là khu vực có số lượng hộ nghèo thấp
nhất. Khu vực Đông Bắc Bộ có số lượng hộ nghèo lớn nhất cả nước với
581.560 hộ, chiếm 19,03%.
Điện Biên là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất với mức 50,01%; ba tỉnh
tỷ lệ hộ nghèo từ trên 40% đến dưới 50% là Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang.
Năm tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo dưới 5% là Thành phố Hồ Chí Minh (0,01%),
Bình Dương 0,005%, Đồng Nai 1,45%, Bà Rịa – Vũng Tàu 4,35%, Hà Nội
4,97%. Cũng theo chuẩn nghèo mới, cả nước có 81 huyện nghèo thuộc 25
tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, trong đó bao gồm 54 huyện nghèo theo
Nghị quyết 30A năm 2008. Kết quả cuộc tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận
nghèo trên toàn quốc là cơ sở để thực hiện các chính sách an sinh xã hội
trong giai đoạn 2011 - 2015.
Cũng tại hội nghị, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức
giới thiệu Nghị quyết số 80 về định hướng giảm nghèo bền vững trong giai
đoạn 2011-2020 do Chính phủ cũng đã ban hành ngày 19/5.
Với chiến lược này, Chính phủ Việt Nam kỳ vọng sẽ từng bước cải
thiện và nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực
miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thu nhập bình quân đầu người
của các hộ nghèo sẽ tăng lên 3,5 lần so với hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo cả nước
giảm 2%/năm, riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/ năm theo chuẩn nghèo
từng giai đoạn. Bộ mặt nông thôn, nhất là vùng nông thôn miền núi, vùng
khó khăn, vùng đồng bào dân tộc… đã có nhiều thay đổi tích cực, đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Theo nghị quyết, đối với xã nghèo, ưu tiên đầu tư trước để hoàn
thành, đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn mới đối với cơ sở trường học, trạm

y tế, nhà văn hóa ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền
núi
2.2.3. Nguyên nhân nghèo đói của nước Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc
chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ
hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do
mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia
chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài.
• Chính sách nhà nước thất bại
Sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hóa nông
nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại
kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn
bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị,
lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà
nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã
làm thui chột động lực sản xuất.
Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã
làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công
nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc
doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi
dân số tăng cao.
Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị
lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính
sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông
dân di cư, nhập cư vào thành phố.
Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do
nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn
của Nhà nước.
• Các nguyên nhân theo vùng địa lý

Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ cấu sản xuất đa phần dựa vào nghề
nông. Đa số người nghèo sống bằng nghề nông nên dễ bị ảnh hưởng bởi
thiên tai, điều kiệnthời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, khả năng đối phó và khắc phục rủi ro này của người
nghèo rất kém do nguồn thu nhập thấp, bấp bênh và khả năng tích lũy kém
nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc
sống (mất mùa, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe, ). Với năng
lực kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn,
những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn trong cuộc sống của họ và tất
nhiên người nghèo thì càng nghèo hơn.
Ngoài ra người nghèo chủ yếu sản xuất nông nghiệp năng suất thấp do
không có trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. khả năng nâng
năng suất là rất khó khăn trong khi do áp lực của đô thị hóa ngày càng mạnh,
diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp.
Những tác động của chính sách vĩ mô đến người nghèo chưa hợp lý,
tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp. Việc phân phối lợi ích
tăng trưởng trong các nhóm dân cư gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc
vào đặc tính của tăng trưởng chưa hợp lý. Thông thường, người giàu hưởng
lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn những người nghèo và như vậy đã làm
tăng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành là điều khó
tránh khỏi.
• Các nguyên nhân từ cộng đồng
Sự cách biệt với xã hội còn lớn. Công việc của phụ nữ thường là ở
nhà. Họ có ít thời gian để tiếp xúc với xã hội. Hộ nghèo có chủ hộ là nữ cảm
thấy rất xa lạ với những quyết định có liên quan tới chính bản thân họ.
Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc vẫn còn tồn tại. Những nhóm dân
tộc thiểu số nghèo hơn rất nhiều so với đa số người Kinh.
• Các nguyên nhân về mặt nhân khẩu học
Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh
con trong các hộ gia đình nghèo và khu vực nông thôn thường là rất cao.

Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục,
cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia
tăng nhân khẩu còn hạn chế. Dân số tăng nhanh, quy mô gia đình nhiều con
ở khu vực ngoại thành là áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm và
xóa đói giảm nghèo đồng thời tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo
chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ. Tỷ lệ phụ thuộc
còn cao(54%) (Nguồn: TCTK. Điều tra biến động DS-KHHGĐ 2005-2007).
Thành kiến về vai trò của người phụ nữ còn tương đối khắt khe.
Những hộ có chủ hộ là nữ có nhiều khả năng rơi vào cảnh nghèo hơn so với
chủ hộ là nam giới. Trẻ em gái ít được đi học hơn, nếu có cũng ít được đi
học cao. Phụ nữ thường phải nhận mức lương thấp hơn nam giới ở cùng một
công việc và ít được tham gia vào các công việc điều hành quan trọng.
Chẳng may trong trường hợp mất đi người chồng, người phụ nữ thường
thiếu khả năng chống chọi nên dễ rơi vào đói nghèo.
• Các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế hộ gia đình
Tính ổn định và liên tục của nguồn thu nhập còn hạn chế nhất là trong
khu vực nông thôn do phải chịu nhiều rủi ro không lường trước được như
thiên tai, dịch bệnh, sâu bọ hay giá nông sản thấp.
Những người nghèo là những người thường có trình độ học vấn thấp,
ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt và ổn định. Mức thu nhập của họ hầu
như chỉ đủ để đảm bảo cho nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có
điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo.
Trình độ học vấn thấp làm hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các
khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại
thu nhập cao và ổn định. Các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị
mới ngày càng phát triển ở khu vực ngoại thành là cơ hội cho người dân
sống nơi đây nhưng đồng thời đây cũng là thách thức lớn đối với người
nghèo, bởi lẽ do trình độ học vấn thấp họ khó có thể tìm được việc làm tốt
hơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Nếu tìm được chỗ làm cũng
chỉ là lao động phổ thông.

Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn
quẩn của sự nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục
nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ, đồng thời nguồn
vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Thông thường họ lựa
chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản
xuất truyền thống với giá trị kinh tế thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương
án sản xuất mang lợi nhuận cao, giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây
trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Xu hướng này
tất yếu dẫn tới một bộ phận không nhỏ nông dân sống ở các huyện ngoại
thành phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trên thực tế không phải nông dân
nào cũng biết cách thay đổi “phương thức sản xuất” của mình, tức là phải
tăng năng suất trên một đơn vị diện tích đất canh tác nhờ áp dụng khoa học
kỹ thuật nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh
tế cao, Một số người khác sau khi nhận được số tiền đền bù từ mảnh ruộng
của mình trong các dự án quy hoạch không biết sử dụng hoặc sử dụng không
hiệu quả dẫn đến hệ quả là:
Thứ nhất, chỉ thoát được cảnh đói nghèo trong một thời gian ngắn.
Thứ hai, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp không tìm được việc
làm mới, thất nghiệp gia tăng
Thứ ba, khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người nông
dân bán đất ồ ạt, nhiều ngôi nhà mới được xây dựng nhưng đó là những ngôi
nhà của những người ở nơi khác đến, đất canh tác cũng thu hẹp lại, vì vậy
người nông dân khó có cơ hội để duy trì hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ sản xuất nông nghiệp như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động,
thực vật; các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: điện,
nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón… đã làm tăng chi phí tính trên
một đơn vị giá trị sản phẩm. Một mặt, do không có tài sản thế chấp, người
nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm
giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế

hoạch sản xuất cụ thểhoặc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ
khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước
cũng như các tổ chức tín dụng.
Ý chí vươn lên thoát nghèo của người dân còn thấp, vẫn tồn tại thái độ
tiêu cực với cuộc sống. Nhiều người không thật sự muốn làm ăn, quanh năm
họ chỉ trông chờ vào sự cứu trợ của chính quyền, thậm chí khi chưa đến mức
bần cùng họ cũng không thể hiện chút nỗ lực nào, ngược lại là tìm mọi cách
để có tên trong sổ nghèo với hi vọng được thụ hưởng một số quyền lợi cho
không. Một số cá nhân khác do có vấn đề tâm lý (làm ăn thất bại, gia đình
đổ vỡ…) nên không thiết tha với cuộc sống và trở nên rất tiêu cực (nghiện
rượu, bài bạc…). Đây là những trường rất khó để thoát nghèo cho dù cá biện
pháp chính sách có tốt đến đâu đi chăng nữa.
2.2.4. Quan điểm và mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
2.2.4.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước
Năm 1998 lần đầu tiên giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm
trong hệ thống chính sách xã hội của quốc gia. Từ đó đến nay, công tác xóa
đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như:
luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành vượt mức mục
tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm…Từ năm 1992 đến năm
1998 với rất nhiều nỗ lực, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam bình quân mỗi năm
giảm từ 2 đến 3%. Đến hết năm 2010 tỷ lệ nghèo của Việt Nam là 9,45%,
vượt mức mục tiêu đề ra là 10%.
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói
giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân
cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một
chủ trương chiến lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các
kỳ Đại hội của Đảng.Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh
tầm quan trọng đặc biệt của công tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải
nhanh chóng đưa các hộ nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm
hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia

về xóa đói giảm nghèo trong 5 năm 1996 – 2000 cùng với 10 Chương trình
kinh tế - xã hội khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN (Chương trình 133)
cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ
sung Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết
yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu
chính của Chương trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như:
hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế Tại 1715 xã nghèo
nói trên. Kết quả là đến năm 2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10% theo
chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, không thể chỉ theo đuổi mục

×