Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phân tích các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn xã Bá Xuyên, Thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.82 KB, 86 trang )




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN


NGÔ THỊ LINH NHÂM

Tên đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NHẬP CỦA
HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ BÁ XUYÊN, THỊ XÃ SÔNG CÔNG
TỈNH THÁI NGUYÊN


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Chuyên ngành
Hệ đào tạo
Khoa
Khóa học
Giảng viên hướng dẫn


: Kinh tế nông nghiệp
: Chính quy
: Kinh tế & Phát triển nông thôn
: 2010 – 2014
: ThS. Đặng Thị Thái





Thái Nguyên, năm 2014


LỜI CẢM ƠN
Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực
tiễn” của các trường chuyên nghiệp nói chung và trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên nói riêng. Thực tập tốt nghiệp là bước quan trọng của sinh viên
cuối khóa nhằm chuẩn bị hành trang tốt cho tương lai. Đây là giai đoạn củng
cố kiến thức đã học trên ghế nhà trường đồng thời nâng cao kỹ năng thực
hành cho sinh viên.
Được sự nhất trí của trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, ban chủ
nhiệm khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài
“Phân tích các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn xã Bá
Xuyên, Thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên”.
Trong thời gian thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy
cô giáo trong khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn và đặc biệt là sự giúp đỡ, chỉ
dẫn nhiệt tình của giảng viên ThS. Đặng Thị Thái , cùng sự giúp đỡ của các cán
bộ tại Ủy ban Nhân dân xã Bá Xuyên. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu
sắc tới các thầy cô giáo cùng toàn thể các cán bộ tại UBND xã Bá Xuyên.
Với trình độ và thời gian có hạn, do đó bản đề tài của tôi không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô để bản đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014
Sinh viên



Ngô Thị Linh Nhâm





DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT


Từ, cụm từ viết tắt Nghĩa
BQ Bình quân
ĐVT Đơn vị tính
Kg Kilogam
LĐ Lao động
UBND Ủy ban nhân dân
KHKT Khoa học kĩ thuật
NTM Nông thôn mới
















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2

2.1. Mục tiêu chung 2

2.2. Mục tiêu cụ thể 2

3. Ý nghĩa khoa học của đề tài 3

3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 3

3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3

4. Bố cục của khóa luận 3

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4

1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4

1.1.1. Khái niệm về hộ 4

1.1.2. Khái niệm về hộ nông dân 5


1.1.3. Vai trò của kinh tế hộ nông dân 5

1.1.4. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế hộ
nông dân 6

1.1.5. Khái niệm về thu nhập 8

1.2. Cơ sở thực tiễn 8

1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ ở các nước trên thế giới 8

1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế hộ ở Việt Nam 15

Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20

2.1. Đối tượng nghiên cứu 20



2.2. Phạm vi nghiên cứu 20

2.2.1. Phạm vi về thời gian 20

2.2.2. Phạm vi về không gian 20

2.2.3. Nội dung nghiên cứu 20

2.3. Câu hỏi nghiên cứu 20

2.4. Phương pháp nghiên cứu 20


2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu 20

2.4.2. Phương pháp phân tích 21

2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 22

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 24

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 24

3.1.1. Điều kiện tự nhiên 24

3.1.2. Cơ sở hạ tầng 25

3.1.3. Các nguồn tài nguyên 26

3.1.4. Thực trạng phát triển nông nghiệp trên địa bàn 30

3.1.5. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến phát triển sản xuất của
người dân địa phương 32

3.2. Tình hình cơ bản của các hộ điều tra 33

3.2.1. Tiêu chí phân loại hộ 33

3.2.2. Khảo sát thu nhập và phân loại hộ điều tra 34

3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ 36


3.3.1. Tuổi và số lượng lao động 36

3.3.2. Tình hình đất đai của các hộ được điều tra 37



3.3.3. Trình độ của các chủ hộ điều tra 39

3.3.4. Đầu tư chi phí cho sản xuất của các hộ điều tra 40

3.3.5. Kết quả sản xuất kinh doanh của nhóm hộ điều tra 45

3.4. Mối quan hệ giữa thu nhập và các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế
hộ 48

Chương 4 PHƯƠNG HƯỚNG – MỤC TIÊU – GIẢI PHÁP 53

4.1. Phương hướng – Mục tiêu 53

4.1.1. Phương hướng 53

4.1.2. Mục tiêu 53

4.2. Các giải pháp cho địa phương 54

4.3. Các giải pháp cho hộ nông dân 55

4.3.1. Về nguồn nhân lực 55

4.3.2. Giải pháp về hoạt động tạo thu nhập 56


4.3.3. Giải pháp về tiếp cận chính sách 56

4.3.4. Giải pháp về khoa học kỹ thuật 56

KẾT LUẬN 58





DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của xã năm 2013 27

Bảng 3.2 Tình hình dân số và lao động trên địa bàn xã qua 3 năm 29

Bảng 3.3 Kết quả sản xuất nông nghiệp qua 3 năm 31

Bảng 3.4. Khảo sát thu nhập của nhóm hộ điều tra trong năm 2013 34

Bảng 3.5. Phân loại hộ theo thu nhập 35

Bảng 3.6. Tình hình độ tuổi và số lao động của hộ theo nhóm hộ 36

Bảng 3.7. Tình hình đất đai của các nhóm hộ 38

Bảng 3.8. Trình độ của chủ hộ điều tra 39

Bảng 3.9. Chi phí sản xuất lúa 1 sào/hộ năm 2013 41


Bảng 3.10. Chi phí chăn nuôi lợn trung bình/hộ năm 2013 42

Bảng 3.11. Tổng hợp chi phí/ hộ năm 2013 43

Bảng 3.12. Kết quả sản xuất lúa trên 1 hộ năm 2013 45

Bảng 3.13. Bảng tổng hợp kết quả chăn nuôi năm 2013 46

Bảng 3.14. Thu nhập của các hộ điều tra theo nhóm 47

Bảng 3.15. Kết quả hồi quy 49

Bảng 3.16. ANOVA 50

Bảng 3.17. Hệ số co dãn (hồi quy) giữa tổng thu với các yếu tố cơ bản tác
động đến thu nhập của hộ năm 2013 50





DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ khảo sát thu nhập của hộ………… ……………34
Biểu đồ 3.2. Cơ cấu chi phí các nhóm hộ theo ngành…………………44
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu thu nhập các nhóm hộ theo ngành…………… 47



















1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang từng bước hội nhập và phát triển, giành được nhiều
thành tựu trong tất cả các lĩnh vực đời sống văn hóa, kinh tế - xã hội. Chất
lượng cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, thu nhập ngày càng
được nâng cao, người dân có niềm tin vào sản xuất và vươn lên làm giàu.Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, lao động chủ yếu vẫn là trồng
trọt và chăn nuôi. Thu nhập của người nông dân vẫn chịu sự chi phối của các
yếu tố tự nhiên. Diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp gây khó khăn
cho sản xuất. Lao động nông thôn dư thừa, không có thu nhập làm ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng đời sống. Hơn thế nữa, sự phát triển nhanh chóng
của nền kinh tế thị trường đã tạo nên sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, chênh
lệch thu nhập giữa các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn ngày càng
rõ rệt. Hiện nay, các hộ gia đình thu nhập cao tập trung ở thành thị, mức sống
và nhu cầu tiêu dùng chênh lệch cao gấp nhiều lần so với những hộ nông dân

sống ở nông thôn. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết để thực hiện
tính công bằng trong phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế hộ có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là
trong nông nghiệp. Ở Việt Nam, kinh tế hộ lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì
nước ta bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ
chế thị trường trên nền tảng hơn 70% dân số đang sinh sống ở nông thôn.
Xuất phát điểm để tạo cơ sở vật chất tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, quản lý theo kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp. Do đó thách thức đặt ra hiện nay là nâng cao
thu nhập cho người dân, phát triển kinh tế hộ, góp phần nâng cao chất lượng
2

cuộc sống của vùng nông thôn và giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo giữa nông
thôn và thành thị.
Xã Bá Xuyên là một trong những xã của Thị xã Sông Công đang trong
tiến trình thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 - 2020. Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thôn mới thực sự là cơ hội để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Để biến cơ hội ấy thành hiện thực, cần có cách nhìn, cách tiếp cận đúng đắn,
nhất là phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích các nhân tố
tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn xã Bá Xuyên, Thị xã Sông Công,
tỉnh Thái Nguyên”. Nhằm vận dụng các kiến thức đã học vào trong thực tiễn
và tìm hiểu, đưa ra các giải pháp để phát triển các tiềm năng sẵn có, khắc
phục những khó khăn để nâng cao thu nhập cho hộ.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài phân tích các yếu tố tác động tới thu nhập của các hộ nông dân
trên địa bàn xã Bá Xuyên, thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Từ đó đề xuất

một số giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho hộ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội chung trên địa bàn xã Bá Xuyên.
- Nghiên cứu các nguồn thu chính của các hộ nông dân trên địa bàn xã.
- Phân tích các yếu tố tác động đến thu nhập của hộ trên địa bàn nghiên
cứu.
- Từ kết quả điều tra mô hình hóa các tác động của các nhân tố chính
đến thu nhập.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của hộ nông dân
trên địa bàn xã Bá Xuyên, thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.
3

3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp sinh viên củng cố lý thuyết và biết áp dụng lý thuyết vào thực tế.
- Rèn luyện các kỹ năng thu thập, xử lý số liệu, viết báo cáo.
- Dùng làm tài liệu tham khảo và góp phần tạo tiền đề cho sự phát triển
các đề tài khác.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cái nhìn tổng quát về các yếu tố tác
động đến thu nhập của các hộ nông dân trên địa bàn xã Bá Xuyên. Từ đó có
thể đưa ra các phương hướng nhằm phát huy những lợi thế, hạn chế những rủi
ro, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
4. Bố cục của khóa luận
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Chương 2: Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Chương 4: Các giải pháp
- Kết luận


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Khái niệm về hộ
Hộ đã có từ rất lâu đời, cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát triển. Có rất
nhiều khái niệm khác nhau về hộ:
Martin (1988) cho rằng: Hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái
sản xuất, tiêu dùng và các hoạt động khác.
Theo Liên Hợp Quốc: “ Hộ là những người cùng chung sống dưới một
mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”.
Theo từ điển chuyên ngành kinh tế và từ điển ngôn ngữ: “Hộ là tất cả
những người cùng chung sống trong một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm
những người cùng chung huyết tộc và những người làm công”.
Tại hội thảo quốc tế lần thứ hai về quản lý nông trại tại Hà Lan (1980)
các đại biểu nhất trí cho rằng: “ Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan
đến sản xuất, tiêu dùng, xem như là một đơn vị kinh tế”. [1]
Hộ là một đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động. [2]
Hộ là một đơn vị đảm bảo quá trình tái sản xuất nguồn lao động thông
qua việc tổ chức nguồn thu nhập chung. [2]
Hộ nhất thiết là đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao động và
phân công lao động chung, có vốn và chương trình, kế hoạch sản xuất kinh
doanh chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và
được phân phối lợi ích theo thỏa thuận có tính chất gia đình. Họ không phải là
một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế cá
thể, tập thể, Nhà nước…
5


1.1.2. Khái niệm về hộ nông dân
Theo Ellis (1988) thì: “Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch các
phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản
xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản
được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với
một trình độ hoàn chỉnh không cao”. [4]
Nhà khoa học Traianốp cho rằng: “ Hộ nông dân là đơn vị sản xuất rất
ổn định” và ông coi “hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng và phát
triển nông nghiệp”. [3]
Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (1993): “ Nông hộ là tế bào kinh tế
xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”. [4]
Tác giả Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “ Hộ nông dân là những hộ chủ
yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá
và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn”. [6]
1.1.3. Vai trò của kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ đã có từ lâu đời, cho đến nay vẫn tồn tại và phát triển. Trải
qua mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì kinh tế hộ biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau, ngày càng khẳng định được tầm quan trọng và vai trò trong
nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế hộ là tế bào của xã hội, sự phát triển của nó trước tiên giúp
nâng cao đời sống của người dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất
nước.
Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đổi mới công
nghệ sản xuất. Hộ là nơi tích lũy kinh nghiệm sản xuất truyền thống cũng là
nơi áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Khi chuyển sang sản xuất hàng hóa,
xuất hiện cạnh tranh thị trường, hộ buộc phải đổi mới công nghệ nhằm tạo ra
6

sản phẩm có chất lượng tốt hơn với giá rẻ hơn. Việc đổi mới công nghệ trước
hết phải nhằmm khai thác tốt kinh nghiệm truyền thống từ lâu đời. [2]

1.1.4. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế hộ
nông dân
1.1.4.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và sự
phát triển của kinh tế hộ nông dân. Những hộ nông dân có vị trí thuận lợi như
gần đường giao thông, gần cơ sở chế biến, gần nơi tiêu thụ sản phẩm sẽ có
lợi thế lớn để phát triển kinh tế.
- Các hộ nông dân chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Đất đai là yếu tố quan
trọng nhất trong các tư liệu sản xuất của hộ và là yếu tố không thể thay thế.
Do đó quy mô đất đai, địa hình, tính chất thổ nhưỡng có ảnh hưởng trực tiếp
tới từng loại nông sản, tới số lượng và chất lượng sản phẩm.
- Khí hậu, thời tiết có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp.
Điều kiện thời tiết, khí hậu, lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng có mối
quan hệ chặt chẽ đến sự hình thành và sử dụng các loại đất. Thực tế cho thấy
ở những nơi có điều kiện thời tiết, khí hậu thuận lợi sẽ hạn chế được nhiều rủi
ro hơn.
- Môi trường sinh thái cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của hộ
nông dân. Nếu môi trường thuận lợi, phù hợp với cây trồng, vật nuôi thì sẽ
phát huy được ưu thế của cây trồng vật nuôi đó, làm cho năng suất tăng cao.
1.1.4.2. Nhân tố về nguồn lực của hộ
- Trình độ học vấn và khả năng lao động: người lao động phải có trình
độ học vấn và khả năng lao động tốt để có thể tiếp thu, học hỏi và áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong sản xuất thực tế phải giỏi chuyên
môn, kỹ thuật.
7

- Vốn: vốn là điều kiện đảm bảo cho các hộ đầu tư về tư liệu sản xuất,
nguyên liệu cũng như thuê thêm nhân công để tiến hành sản xuất. Vốn là yếu
tố không thể thiếu được khi tiến hành sản xuất hay kinh doanh. Mức độ đầu tư
vốn vào sản xuất cũng có thể ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm.

- Công cụ sản xuất: muốn sản xuất có hiệu quả và năng suất cao cần
phải sử dụng công cụ phù hợp. Ngày nay, công cụ sản xuất đã không ngừng
được cải tiến và đem lại hiệu quả cao trong sản xuất, năng suất cây trồng
không ngừng được tăng lên.
- Cơ sở hạ tầng: bao gồm đường giao thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống
điện, nhà xưởng, trang thiết bị nông nghiệp , đây là những yếu tố quan trọng
trong việc phát triển sản xuất của kinh tế hộ nông dân. Thực tế cho thấy, nơi
nào cơ sở hạ tầng phát triển thì nơi đó sản xuất cũng phát triển, đời sống
người dân ổn định hơn.
- Thị trường: thị trường có ảnh hưởng đến quyết định sản xuất của hộ
nông dân như giá cả, chất lượng, sản xuất cái gì, cho ai, đối thủ cạnh tranh
như thế nào
1.1.4.3. Nhân tố khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Kỹ thuật canh tác: do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng
là khác nhau, mỗi giống cây, giống con lại yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Kỹ
thuật canh tác trong nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất
nông nghiệp và phát triển kinh tế.
- Ứng dụng khoa học công nghệ: quá trình sản xuất của hộ nông dân
không thể tách rời những tiến bộ khoa học kỹ thuật, chúng giúp cho cây trồng
vật nuôi có thể nâng cao năng suất và chất lượng. Những hộ nhạy cảm với
tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiểu biết về thị trường, dám đầu tư và chấp nhận
rủi ro thường là những hộ thành công. Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật mới vào sản xuất nông nghiệp có tác dụng thúc đẩy hàng hóa phát triển.
8

1.1.5. Khái niệm về thu nhập
Thu nhập là phần nông hộ thu được sau quá trình sản xuất, bao gồm
nhiều nguồn thu khác nhau như:
- Từ sản xuất nông nghiệp: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
- Từ sản xuất lâm nghiệp

- Từ các hoạt động dịch vụ
- Từ các hoạt động, sản xuất khác
Thu nhập có vai trò: là nguồn lực để chi tiêu cho mọi nhu cầu cần thiết
trong đời sống hàng ngày của mỗi hộ, mỗi người như: lương thực thực phẩm,
y tế, giáo dục, giải trí… Thu nhập là yếu tố quyết định trong việc nâng cao
đời sống vật chất của mỗi hộ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ ở các nước trên thế giới
- Hàn Quốc
Hàn Quốc là một quốc gia Đông Á, có diện tích tự nhiên 100,14 km
2

trong đó khoảng 70% là vùng núi; dân số 50,062 triệu với mật độ 488 người/
km
2
. Từ một nước nghèo sau chiến tranh Nam - Bắc Triều Tiên những năm
50 của thế kỷ trước, Hàn Quốc nay trở thành một con rồng Châu Á và đã
đứng trong nhóm các nước phát triển G20. Thu nhập bình quân đầu người
năm 2009 là 17.700 USD, năm 2010 khoảng 20.000 USD.
Thế giới biết đến Hàn Quốc không chỉ về thành công trong phát triển
kinh tế nói chung, mà còn biết đến một đất nước có kỳ tích về phát triển nông
thôn. Chỉ trong 26 năm Hàn Quốc đã thành công trong xây dựng nông thôn
mới. Về mặt thời gian, kỳ tích này của Hàn Quốc đã vượt xa những thành
công về phát triển nông thôn của các nước phát triển khác như Nhật 73 năm;
Mỹ 96 năm; Anh 116 năm.
9

Có thể nói rằng, thành công của Hàn Quốc trong phát triển nông thôn
gắn liền với thành công của phong trào Seamaul. Trong tiếng Hàn, Saemaul là
sự kết hợp của "Sae" có nghĩa là "mới" và "maul" có nghĩa là ngôi làng.

Saemaul là phát triển hoặc cải cách cộng đồng thành một nơi tốt đẹp hơn,
cuộc sống tốt đẹp hơn, cho tất cả mọi người, không chỉ về vật chất mà cả về
tinh thần cho thế hệ mai sau. Vào những năm 60 của thế kỷ trước, nông thôn
Hàn Quốc còn hết sức lạc hậu, đời sống nhân dân còn gặp vô vàn khó khăn.
Cả nước có đến 74% dân thuộc vào nhóm nghèo đói và chỉ 20% có thể tiếp
cận với điện, thiên tai lũ lụt triền miên, người dân Hàn Quốc phải gánh chịu
và phải tự khắc phục hậu quả. Lũ lụt năm 1969 là một trận lũ lịch sử có sức
phá hoại rất lớn, người dân ở Hàn Quốc phải tu sửa lại nhà cửa và đường xá
mà không có sự hỗ trợ từ Chính phủ. Điều này, làm tổng thống đương nhiệm
Park Chung Hee suy nghĩ là làm sao để phát triển kinh tế vùng nông thôn và
ông nhận ra rằng, sự trợ giúp của Chính phủ cũng vô nghĩa nếu người dân
không tự giúp chính mình, hơn nữa khuyến khích nội lực trong cộng đồng
nông thôn và mở rộng hợp tác là chìa khóa phát triển nông thôn, ý tưởng này
chính là nền tảng của phong trào Saemaul.
Mặt khác, nhằm thực hiện có hiệu quả quá trình hỗ trợ cho các làng, dự
án nông thôn mới đặc biệt quan tâm đến nhân tố con người. Trình độ văn hoá
của người dân nông thôn rất thấp, cho nên việc phổ biến chính sách gặp phải
không ít khó khăn. Để khắc phục hạn chế này, các dự án chú trọng vào việc
phát triển đội ngũ cán bộ cấp làng, cán bộ chính quyền địa phương và Chính
phủ cũng rất coi trọng việc xử lý những cán bộ tham nhũng.
Song song với việc xây dựng cơ sở hạ tầng như: đường xá cầu cống,
điện, thủy lợi, nước sạch sinh hoạt vv. Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc cũng
thay đổi nhờ việc ngói hóa, bê tông hóa nhà ở của người dân. Không những
thế, Chính phủ còn chú trọng vào các dự án tăng thu nhập cho nông dân bằng
10

việc hỗ trợ và khuyến khích sản xuất, chế biến, kinh doanh nhiều mặt hàng
nông sản, tăng cường các cơ sở đào tạo nghề nông. Cuộc cách mạng xanh
thập niên 70 và cách mạng trắng thập niên 80 của thế kỷ trước trong lĩnh vực
nông nghiệp đã mang lại những kỹ thuật canh tác mới, các loại giống mới

được đưa vào sản xuất tăng năng suất và chất lượng nông sản.
Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc còn áp dụng chính sách miễn thuế các
mặt hàng như: xăng dầu, máy móc nông nghiệp, giá điện rẻ cho chế biến nông
sản. Ngân hàng Nông nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư về nông thôn
với lãi suất giảm 2% so với đầu tư vào ngành nghề khác. Nhờ đó, sức cạnh
tranh của nông sản Hàn Quốc được nâng lên, thu nhập của người dân tăng lên
đáng kể. Kết quả tới năm 1974 thu nhập người dân ở nông thôn đã cao hơn ở
thành thị. Năm 1977 hầu hết các xã đã có thể độc lập về kinh tế. Thu nhập của
nông dân Hàn Quốc từ đó vẫn tăng lên đều đặn. Mức độ chênh lệch về thu
nhập của nông dân và thị dân luôn được duy trì với khoảng cách nhỏ, năm
2010 thu nhập của nông dân bằng khoảng 85% thu nhập thành thị.
- Nhật Bản
Không chỉ thành công trong lĩnh vực công nghiệp hóa mà Nhật Bản
còn rất thành công trong phát triển nông nghiệp nông thôn để tạo ra một “sân
sau” vững chắc, an toàn, ổn định cho công nghiệp hóa. Về phát triển nông
nghiệp nông thôn có thể nêu lên những kinh nghiệm sau đây:
- Thực hiện chính sách duy trì đơn vị sản xuất nông nghiệp chính vẫn là
các hộ gia đình nhỏ, mang đậm tính chất của nền văn hóa lúa nước.
+ Điều kiện thứ nhất để thực hiện chính sách này là phải tăng năng suất
lao động của nền nông nghiệp tiểu nông. Muốn vậy nông nghiệp phải sản xuất
theo chiều sâu, phải áp dụng hàng loạt biện pháp thâm canh trong nông
nghiệp. Ngay cả khi tăng trưởng nông nghiệp đã đạt tới điểm ranh giới, tức là
càng đầu tư thâm canh, lợi nhuận càng giảm, thì Nhật Bản đã chuyển hướng
11

“lấy nông nghiệp thuộc địa nội công nghiệp chính quốc”. Đó là việc thâm
canh để tăng sản lượng ở hai thuộc địa Triều Tiên và Đài Loan.
+ Điều kiện thứ hai để duy trì đơn vị sản xuất nông nghiệp chính là các
hộ gia đình nhỏ, đó là việc duy trì giá lương thực cao. Ngay cả khi bị dồn vào
chân tường: thảm bại trong chiến tranh thế giới lần thứ II, khi Nhật Bản

không còn duy trì được hệ thống thuộc địa, họ vẫn kiên trì chính sách giữ giá
nông sản cao, để khuyến khích nông dân, giữ chân họ ở lại làm việc tại nông
thôn. Việc duy trì giá nông sản cao đã dẫn đến một kết quả kép, đó là nông
dân không chạy về thành phố để kiếm sống, mà còn mở rộng sản xuất nông
nghiệp để vượt qua khủng hoảng thời hậu chiến.
- Thực hiện đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa nông thôn, gắn nông
nghiệp với công nghiệp, gắn nông thôn với thành thị. Công nghiệp hóa nông
nghiệp không chỉ làm tăng năng suất lao động nông nghiệp, mà còn giải
phóng lao động nông nghiệp để sản xuất ở những ngành nghề phi nông
nghiệp. Điều đó không chỉ có ý nghĩa làm tăng thu nhập cho nông dân, mà
còn thu hút lao động lúc nông nhàn, đội quân tiềm tàng của nạn thất nghiệp
vào việc tạo ra sản phẩm cho xã hội. Và kết quả tất yếu là rất ít nông dân Nhật
Bản bỏ nông thôn chạy ra thành phố. Nếu nói về thành công trong việc thực
hiện để nông dân “ly nông mà không ly hương” thì Nhật Bản là một điển
hình.
- Mạnh dạn nhập khẩu công nghệ và chất xám, khôn khéo sử dụng
doanh nghiệp nhà nước. Cho đến bây giờ, Nhật Bản vẫn là một quốc gia quân
chủ. Nhưng ở thế kỷ XVIII, Nhật Bản đã mở cửa để đón làn sóng công nghiệp
hóa của thế giới (trong khi hầu hết các quốc gia quân chủ khác ở châu Á lại
tìm cách đóng cửa để ngăn cản làn sóng này). Sở dĩ như vậy, là vì người Nhật
đã mạnh dạn nhập khẩu công nghệ và chất xám của thế giới. Ngay từ năm
1870, Nhật Bản đã nhập khẩu hàng loạt máy dệt lụa, xe sợi dệt vải, sản xuất
12

thép và cơ khí chế tạo. Đây là những ngành sử dụng nhiều lao động và tài
nguyên. Năm 1890 tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học đã đạt 97%. Nhờ đó mà Nhật Bản
đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học từ thập kỷ 80 - 90 của thế kỷ XIX.
Đây là điều kiện tiên quyết để tiếp thu công nghệ, đổi mới đất nước.
- Đài Loan
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, nền nông nghiệp quy mô

nhỏ ở Đài Loan đã trải qua thời kỳ hơn 50 năm phát triển thành công, một
thời kỳ phát triển liên tục song ở mỗi giai đoạn phát triển chung của Đài Loan
thì nông nghiệp lại có một vai trò riêng của mình. Sự phát triển của nông
nghiệp đã đặt nền tảng cho “thần kỳ kinh tế” của Đài Loan. Có thể chia các
giai đoạn phát triển nông nghiệp như sau.
Giai đoạn 1945 - 1953
Do hậu quả tàn phá của Chiến tranh Thế giới thứ hai, các cơ sở nông
nghiệp ở Đài Loan đã bị thiệt hại nghiêm trọng và nhìn chung đều trong tình
trạng tan hoang. Sau đó, hàng triệu người lính và gia đình của họ đã được đưa
từ Trung Quốc đến Đài Loan và chính quyền cố gắng phục hồi các cơ sở thủy
nông để gia tăng mức sản xuất nông phẩm. Ở thời điểm đó, vấn đề này được
coi là cực kỳ khẩn cấp và các chương trình nông nghiệp lần lượt ra đời và có
hiệu lực, đó là “Hệ thống hàng đổi hàng: gạo - phân bón”; “Qui định phân
phối phân bón”; “Luật quản lý thực phẩm”; “Luật giảm tiền thuế 37,5%”;
“Luật bán đất công”. Nhờ những biện pháp này, sản xuất nông nghiệp được
phục hồi lên tới mức cao nhất của thời kỳ trước chiến tranh.
Giai đoạn 1954 - 1966
Khi đã tạo lập hiệu quả nền tảng cho phát triển nông nghiệp, chính
quyền Đài Loan đã đưa ra kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân 4 năm lần
thứ nhất, với chủ trương “Nuôi dưỡng công nghiệp thông qua nông nghiệp -
phát triển nông nghiệp bằng công nghiệp”.
13

Chính quyền, một mặt đưa ra những biện pháp khuyến khích nâng cao
mức sản xuất nông nghiệp tổng thể thông qua các chương trình như “Chương
trình nuôi heo hợp nhất”, “Chương trình vụ mùa và vật nuôi hợp nhất”, “Dự
án cung cấp tài chính nông nghiệp” và “Qui định mở rộng nông nghiệp”; mặt
khác để tăng chuyển giao các quỹ vốn từ lĩnh vực nông nghiệp sang các lĩnh
vực phi nông nghiệp, chính quyền trung ương giới thiệu “Các loại thuế đất
nông nghiệp” và “Thu mua bắt buộc lúa gạo ” năm 1954 làm công cụ theo

đuổi chính sách đặt giới hạn giá thực phẩm.
Giai đoạn 1967-1983
Theo sau giai đoạn cất cánh của nền công nghiệp, Đài Loan đã có
những bước phát triển xa hơn trong nền kinh tế. Mặc dù các dịch vụ công
nghiệp và thương mại đã góp phần cực kỳ quan trọng vào sự phát triển kinh tế
thành công của Đài Loan, vai trò của nông nghiệp vẫn được thừa nhận về
phương diện cụ thể là cung cấp thực phẩm và lương thực thiết yếu và những
đóng góp khác của nông nghiệp đối với nền kinh tế nói chung. Trong giai
đoạn ban đầu, các phương pháp sản xuất tập trung vào việc tăng cường thu
hoạch để xuất khẩu lấy tiền mặt, sử dụng nhiều lao động phục vụ cho việc chế
biến măng tây, cà chua Trong khi ở giai đoạn sau, các phương pháp sản xuất
đòi hỏi nhiều vốn được khuyến khích như đánh bắt cá xa bờ và ven bờ, xuất
khẩu thịt gà và thịt lợn.
Trong thời kỳ này, chính quyền Đài Loan tiếp tục đưa ra các chương
trình và ban hành một số đạo luật phù hợp như: “Chương trình xúc tiến cơ
giới (1970)”; “Luật phát triển nông nghiệp (1973)”; “Luật về giá bán nông sản
(1974)”; “Luật tái thiết nông thôn và nâng cao thu nhập nông dân (1979)” và
chương trình “Nâng cao xây dựng cơ bản và giúp người nông dân có thu nhập
cao hơn (1982)”.
Giai đoạn 1984-1990
14

Sau 30 năm phát triển thành công, ngành nông nghiệp Đài Loan bấy
giờ mang tính chất truyền thống và hướng nội sâu sắc, đã đạt đến mức phát
triển cao nhất trong điều kiện nguồn lực tự nhiên khan hiếm. Bên cạnh đó, do
đòi hỏi của các đối tác mậu dịch khác nhau, các sản phẩm nông nghiệp nhập
khẩu từ nước ngoài đã bắt đầu xâm chiếm thị trường Đài Loan, gây ra sự mất
cân đối giữa cơ cấu sản xuất và marketing. Điều này khiến chính quyền phải
bắt tay thực hiện “Chương trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và tăng
cường thu nhập nông dân” và “Chương trình tăng cường lúa gạo”.

Mặc dù sản xuất nông nghiệp của Đài Loan gia tăng với tỷ lệ hàng năm
là 2%, những đóng góp từ nông nghiệp cho tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
của quốc đảo này giảm từ 6,3% năm 1984, xuống 4,2% năm 1990. Trong
cùng thời kỳ, người có việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp giảm từ 17,6%
xuống 12,9% trong tổng số lao động của Đài Loan.
Giai đoạn từ 1991 trở đi
Để đối phó với những thách thức như tự do hoá mậu dịch, giữ gìn tự
nhiên và bảo vệ môi trường, chính quyền Đài Loan thực thi chương trình
“Điều chỉnh thống nhất” năm 1991, nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng
tăng của việc phối hợp đồng bộ các yếu tố bao gồm nguồn nhân lực, đất đai,
thị trường, kỹ thuật, phương pháp tổ chức, phúc lợi xã hội và bảo tồn tự
nhiên. “Sách trắng về chính sách nông nghiệp” năm 1995 công bố chính sách
cam kết dài hạn các yếu tố sản xuất, bảo vệ môi trường và duy trì mức sống
của người dân Đài Loan. Đến năm 1997, chương trình “Phát triển nông
nghiệp xuyên thế kỷ” bắt đầu phát huy hiệu lực. Nhờ đó nông nghiệp tăng
trưởng liên tục, nhưng đóng góp cho GDP của nông nghiệp vẫn tiếp tục giảm.
Năm 2000, đóng góp của nông nghiệp trong GDP chỉ còn 2,1%. Đây là một
xu hướng tích cực. Như vậy có thể thấy, ngành nông nghiệp Đài Loan đã
hoàn thành sự chuyển đổi của nó, từ một yếu tố quan trọng trong tổng sản
15

phẩm quốc dân, thành một yếu tố mang tính phi kinh tế với vai trò tạo ra
những khoảng không gian của thiên nhiên và làm xanh môi trường, tiếp tục
bảo tồn tự nhiên và các thắng cảnh.
1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế hộ ở Việt Nam
Thời kì trước cách mạng 1945
Trong thời kì phong kiến, từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX, các hình
thức chủ yếu trong nông nghiệp là các điền trang, thái ấp, đồn điền với quy
mô tương đối lớn. Hầu hết sản xuất lúa và lương thực theo phương thức nô
dịch, lĩnh canh. Từ giữa thế kỷ XIX trở đi, sau khi bị thực dân Pháp xâm

chiếm, các hình thức điền trang, thái ấp tan rã dần và hình thành các hình thức
kinh tế:
+ Kinh tế địa chủ: Hộ địa chủ sở hữu nhiều ruộng đất, phát canh thu tô
với tỉ lệ rẽ đôi hoặc rẽ ba.
+ Kinh tế phú nông: Có xu hướng sản xuất hàng hóa, một phần sản
phẩm đem ra bán trên thị trường. Trong sản xuất nông nghiệp có thuê mướn
lao động.
+ Kinh tế trung nông: Những hộ có ruộng, có lao động, tự cày cấy và
đủ ăn, sản phẩm dư dôi rất ít.
+ Kinh tế bần nông: Những nông hộ nghèo, thiếu ruộng làm, không đủ
ăn.
Thời kì 1945 - 1954
Cùng với việc thực hiện chính sách của Chính phủ về giảm tô, giảm
tức, chia đất công và đất tịch thu của địa chủ người Pháp cho bần nông, đẩy
mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm…các hình thức kinh tế trong nông
nghiệp có sự chuyển dịch về cơ cấu: kinh tế địa chủ bị suy yếu, kinh tế phú
nông chững lại, kinh tế trung nông lớn lên cả về số hộ và tiềm lực kinh tế mỗi
hộ, đời sống bần nông và cố nông được cải thiện.
16

Thời kì 1955 - 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, theo hiệp định Geneve, nước ta tạm
thời chia thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, trên cơ sở đó, nền
kinh tế của hai miền cũng phát triển thao hai hướng khác nhau
* Ở miền Bắc: trong thời kì này, miền Bắc có nhiều biến đổi mạnh, sâu
sắc và được chia thành 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1955 - 1957: Hoàn thành kế hoạch ba năm, khôi phục kinh
tế và thực hiện cải cách ruộng đất, hoàn thành nốt nhiệm vụ cách mạng dân
chủ. Ở nông thôn, cơ cấu các loại hình kinh tế biến đổi sâu sắc: kinh tế địa
chủ không còn, kinh tế phú nông bị hạn chế, hầu hết cố nông đều được chia

ruộng và trở thành các hộ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, do bình quân
ruộng đất một đầu người thấp, trình độ canh tác còn lạc hậu và manh mún nên
kinh tế hộ nông dân vẫn còn là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc.
+ Giai đoạn 1958 - 1960: Trong kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ
nghĩa và phát triển kinh tế, nông nghiệp về cơ bản đã hoàn thành hợp tác hóa
với các hình thức hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy mô xóm,
thôn và hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã cung tiêu… Đồng thời bắt đầu xây
dựng thêm các nông trường quốc doanh ở trung du miền núi và ven biển. Như
vậy, từ cuối năm 1960, trong nông nghiệp nước ta chủ yếu có loại hình kinh tế
hợp tác quy mô nhỏ và các nông trường quốc doanh, song trang thiết bị còn
lạc hậu, cách thức sản xuất còn quảng canh, tái sản xuất giản đơn. Lực lượng
kinh tế nhỏ cá thể còn lại không nhiều, đa số là trung nông, một số là phú
nông.
+ Giai đoạn 1961 - 1975: Miền Bắc tiến hành thắng lợi 3 kế hoạch 5
năm, kinh tế hợp tác xã lớn mạnh cả về số lượng và quy mô. Đến năm 19756
đã có 97% số hộ vào hợp tác xã, cơ bản đưa các hợp tác xã lên quy mô thôn.
Loại hình kinh tế nông trường quốc doanh cũng liên tục phát triển, tính đến
17

năm 1975, miền bắc có 365 nông, lâm trường, trạm trại nghiên cứu thực
nghiệm…
* Ở miền Nam: Các loại hình kinh tế nông nghiệp miền Nam hình
thành và phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa với cá hình thức chủ yếu là
kinh tế trang trại hàng hóa gắn với thị trường tư bản chủ nghĩa, kinh tế đồn
điền và đinh điền của các nhà tư bản người Việt Nam và người nước ngoài.
Thời kỳ 1976 - 1986
Tiến hành cuộc vận động tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, cải
tiến một bước quản lý từ cơ sở theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa theo tinh thần Chỉ thị 208 CT/TW ngày 16/9/1974 của Ban Bí Thư và
Nghị quyết 61/CP ngày 5/4/1976 của Hội đồng Bộ trưởng. Tuy nhiên, các

cuộc vận động mang lại kết quả không mong muốn. Cụ thể là:
+ Người lao động nông dân mất quyền tự chủ sản xuất nông nghiệp,
không quan tâm đến mọi hoạt động sản xuất của hợp tác xã và nông, lâm
trường mà chỉ để tâm đến kinh tế phụ gia đình trên đất 5% và trong các lao
động khác.
+ Quy mô hợp tác xã và nông trường càng lớn thì bộ máy càng cồng
kềnh, quản lý tập trung quan liêu, dẫn đến lãng phí lớn, tham ô, tài sản thất
thoát, ruộng đồng thì bỏ hoang.
+ Năng suất và sản lượng nông nghiệp giảm sút liên tục và nghiêm
trọng, thu nhập của xã viên tự kinh tế tập thể hợp tác xã giảm xuống chỉ còn
30-40% tổng thu nhập của hộ xã viên. Trong nông trường, tình trạng nợ lương
công nhân trở thành phổ biến và kéo dài liên miên.
+ Sản xuất lương thực giảm sút. Hằng năm mức sản lượng lương thực
bình quân đầu người liên tục giảm xuống, lượng gạo nhập khẩu hàng năm
ngày càng tăng lên và tới trên 1 triệu tấn.

×