Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thực trạng và một số giải pháp nhằm giảm nghèo cho người dân tại xã Vĩnh Quang, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.7 KB, 77 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM















MẠC MA YÊN








Tên đề tài:


T


THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM NGHÈO
CHO NGƯỜI DÂN TẠI XÃ VĨNH QUANG
HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH CAO BẰNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

















































Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế và PTNT
Khoá học : 2010 - 2014


























Thái Nguyên, 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM









MẠC MA YÊN








Tên đề tài:


T
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM NGHÈO
CHO NGƯỜI DÂN TẠI XÃ VĨNH QUANG
HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH CAO BẰNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





















Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế và PTNT
Lớp : 42 - Khuyến nông
Khoá học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Tống Thị Thùy Dung




Thái Nguyên, 2014


LỜI CẢM ƠN

Qua quá trình học tập tại trường và sau hơn 4 tháng thực tập tốt nghiệp
tại cơ sở tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn chân thành, sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên; Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế và PTNT; Các phòng ban cùng
các thầy giáo, cô giáo đã trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản, giúp tôi có
những kiến thức mới trong quá trình thực tập tại cơ sở cũng như ngoài xã hội.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Tống Thị
Thùy Dung đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực tập và hoàn thành bài khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn,
người dân xã Vĩnh Quang, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng đã tạo điều kiện
giúp đỡ để tôi có điều kiện được thực tập và nâng cao sự hiểu biết.
Trong thời gian thực tập khóa luận, bản thân tôi đã cố gắng khắc phục
mọi khó khăn để hoàn thiện khóa luận. Tuy nhiên, với thời gian ngắn và hạn
chế về kiến thức nên chuyên đề của tôi khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy
kính mong các thầy cô và giáo viên hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý, tạo điều kiện
để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 09 tháng 06 năm 2014
Sinh viên

Mạc Ma Yên

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

CĐ-ĐH : Cao đẳng - đại học
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
HĐND : Hội đồng nhân dân
ILO : Tổ chức lao động quốc tế
KHKT : Khoa học kỹ thuật

LĐ-TB & XH : Lao động thương binh và xã hội
NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
NHNN & PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PTKT-XH : Phát triển kinh tế xã hội
PTSX : Phương tiện sản xuất
Tr.đ : Triệu đồng
UBND : Ủy ban nhân dân
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HDI : Chỉ số phát triển con người
FAO : Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
T.W MTTQ : Trung ương mặt trận tổ quốc
USD : Đô la Mỹ
WB : Ngân hàng thế giới
XĐGN : Xóa đói giảm nghèo
HS – SV : Học sinh – Sinh viên
ĐTCĐ : Điện thoại cố định
ĐTDĐ : Điện thoại di động
NN : Nông nghiệp
CN : Công nghiêp
DV : Dịch vụ
ĐVT : Đơn vị tính




DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Trang
Bảng 3.1. Số hộ điều tra ở các xóm 26

Bảng 3.2. Tiêu chí phân loại hộ năm 2013 27


Bảng 4.1. Tình hình dân số xã Vĩnh Quang năm 2013 31

Bảng 4.2. Tình hình sử dụng đất đai của xã Vĩnh Quang từ năm

2011 -
2013. 34

Bảng 4.3: Hiện trạng cơ sở hạ tầng xã năm 2013 39

Bảng 4.4: Tình hình trồng trọt và chăn nuôi của xã Vĩnh Quang từ năm
2011 - 2013 39

Bảng 4.5: Tỷ trọng các ngành kinh tế của xã Vĩnh Quang từ năm 2011 -
2013 40

Bảng 4.6: Tình hình nghèo trên địa bàn xã Vĩnh Quang giai đoạn năm 2011
- 2013. 42

Bảng 4.7. Tổng số hộ nghèo tại các bản của xã Vĩnh Quang năm 2013 43

Bảng 4.8: Đặc điểm chung của các hộ điều tra 44

Bảng 4.9: Tỷ lệ người sống phụ thuộc phân theo thu nhập tại các hộ điều
tra 47

Bảng 4.10: Thực trạng việc làm của các hộ điều tra. 48

Bảng 4.11: Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của người dân ở các
xóm điều tra. 49


Biểu đồ 4.1: Tỷ lệ trình độ học vấn của người dân ở các xóm điều tra. 50

Bảng 4.12. Tình hình vay vốn sản xuất của các hộ điều tra (60 hộ) 51

Bảng 4.13: Chi phí, doanh thu và lợi nhuận tại các hộ điều tra tại các hộ
điều tra 52

Bảng 4.14: Tình hình thu nhập tại các hộ điều tra 53

Bảng 4.15: Chi phí sinh hoạt tại các hộ điều tra 53

Bảng 4.17. Nguyên nhân gây ra đói nghèo tại các hộ điều tra. 55


MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1
. MỞ ĐẦU 1

1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2

1.2.1. Mục tiêu chung 2

1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2

1.3. Ý nghĩa của đề tài 3


1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu 3

1.3.2. Ý nghĩa thực tế 3

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

2.1. Cơ sở lý luận 4

2.1.1. Những vấn đề cơ bản về nghèo và giảm nghèo 4

2.1.2. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 8

2.2. Cơ sở thực tiễn 9

2.2.1. Hoạt động xóa đói giảm nghèo trên thế giới 9

2.2.2. Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam 13

PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 24

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 24

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 24

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 24

3.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 24

3.3.1. Nội dung nghiên cứu 24


3.3.2. Phương pháp nghiên cứu 24

PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29

4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 29

4.1.1. Điều kiện tự nhiên của xã Vĩnh Quang 29

4.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội 31

4.2. Thực trạng giảm nghèo của xã Vĩnh Quang từ năm 2011 - 2013 41


4.1.1. Thực trạng nghèo tại xã Vĩnh Quang 41

4.2.2. Thực trạng nghèo ở các hộ điều tra 44

4.3. Nguyên nhân nghèo đói tại địa bàn nghiên cứu 55

4.3.1. Những nguyên nhân 55

4.3.2.Những vấn đề cần giải quyết 59

4.4. Giải pháp nhằm XĐGN tại xã Vĩnh Quang 60

4.4.1. Giải pháp chung 61

4.4.2. Giải pháp cụ thể 64


PHẦN 5. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 67

5.1. Kết luận 67

5.2. Kiến nghị 67

5.2.1. Đối với Đảng và Nhà nước 67

5.2.2. Đối với cấp huyện 68

5.2.3. Đối với xã Vĩnh Quang, các đoàn thể, các tổ chức cộng đồng 68

5.2.4. Đối với hộ nông dân nghèo 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO 70



1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đối với tất cả các nước trên thế giới, nghèo luôn là vấn đề được xã hội
quan tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn luôn tồn tại
tình trạng phân hóa giàu nghèo. Còn ở những nước đang phát triển với thu
nhập trung bình và thấp, trong đó bao gồm Việt Nam, thì một bộ phận không
nhỏ dân cư vẫn sống ở mức nghèo khổ, đặc biệt còn có những người sống
trong hoàn cảnh rất khó khăn vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, cơm không
đủ ăn, áo không đủ mặc, trong khi đây là nhu cầu thiết yếu của con người.
Mức độ nghèo cũng có sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng miền

trong cả nước do những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội. Trong đó, nghèo ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa trầm trọng
hơn các khu vực miền xuôi. Tình trạng đó đã gây ảnh hưởng rất xấu tới chất
lượng cuộc sống nhân dân vùng núi. Trong những năm gần đây, Nhà nước ta
đã dành nhiều sự quan tâm, nhiều chủ trương chính sách tích cực giúp xóa đói
giảm nghèo (XĐGN) cho vùng núi và đã đạt những kết quả nhất định. Song
trên thực tế, tình hình đói nghèo nơi đây vẫn còn khá nghiêm trọng bởi những
chính sách này chưa thật sự hoàn thiện và phù hợp với tình hình địa phương,
và do đó sự tác động của chúng tới việc khắc phục đói nghèo miền núi chưa
thật sự hiệu quả.
XĐGN cũng như chữa bệnh, điều cốt lõi là phải tìm ra được đâu là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói? Trong đó, nguyên nhân nào là
nguyên nhân chính? Từ đó đề ra được những giải pháp đúng dắn nhất, hiệu
quả nhất nhằm giúp người dân xoá nghèo.
Vĩnh Quang là một xã vùng sâu vùng xa, giao thông đi lại khó khăn,
nằm ở phía Đông Bắc của hụyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng cách trung tâm
huyện lị 28 km, có tổng diện tích tự nhiên là 5675,86 ha với diện tích đất
nông nghiệp là 1156,59 ha chiếm 20,37% còn lại là các loại đất khác. Tổng số
hộ trong xã là 880 hộ với 4928 nhân khẩu. Trong đó gồm các dân tộc Tày,
Nùng,Mông, Dao, Kinh [9]. Từ xa xưa, Vĩnh Quang là một địa bàn chủ yếu là


2
đồng bào dân tộc Tày, Mông, Nùng, Dao sinh sống, mấy năm trước đây cuộc
sống của người dân trong xã phần đa là du canh, du cư, sản xuất mang tính tự
cung, tự cấp, không có cơ hội tiếp cận thông tin, cơ sở hạ tầng nghèo nàn. Nơi
đây trình độ dân trí còn thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu chủ yếu là phá
nương làm rẫy và trồng lúa nước, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn nên ảnh
hưởng tình hình phát triển chung của toàn xã. Năm 2013, toàn xã có 422 hộ
nghèo chiếm 47,95%, 93 hộ cận nghèo chiếm 10,57% tổng số hộ trong xã [9].

Do vậy, XĐGN của xã Vĩnh Quang là một yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi
địa phương cũng như Trung ương phải sớm tìm ra những giải pháp hỗ trợ
người dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập tiến tới “thoát nghèo”.
Xuất phát từ những lý do trên và qua quá trình học tập tại trường với sự
giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Tống Thị Thùy Dung tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm giảm nghèo cho người
dân tại xã Vĩnh Quang, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng” đi vào nghiên cứu
thực trạng nghèo ở xã Vĩnh Quang, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng thuộc khu
vực miền núi phía Bắc Việt Nam trong những năm gần đây như một ví dụ
điển hình cho nghèo ở vùng núi nói chung, từ đó đánh giá những ưu điểm và
nhược điểm của các chính sách XĐGN cho vùng núi của Nhà nước để đưa ra
những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng của các chính
sách có ý nghĩa thiết thực này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng giảm nghèo tại xã Vĩnh Quang để từ đó
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước đưa xã thoát nghèo một cách
bền vững.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng nghèo ở xã Vĩnh Quang, huyện Bảo Lâm, tỉnh
Cao Bằng.
- Nghiên cứu những nguyên nhân và nhân tố chính gây nên nghèo
trong xã Vĩnh Quang.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu giảm nghèo cho xã Vĩnh Quang
trong những năm tiếp theo.


3
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu

- Nghiên cứu đề tài giúp sinh viên củng cố lại những kiến thức cơ bản
và những kiến thức đào tạo chuyên môn trong quá trình học tập trong nhà
trường, đồng thời tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội tiếp cận với những
kiến thức ngoài thực tế.
- Nghiên cứu đề tài là cơ sở cho sinh viên vận dụng sáng tạo những
kiến thức đã học vào thực tiễn và là tiền đề quan trọng để sinh viên thấy được
những kiến thức cơ bản cần bổ sung để phù hợp với thực tế công việc sau này.
- Nghiên cứu đề tài nhằm phát huy cao tính tự giác, chủ động học tập,
nghiên cứu của sinh viên. Nâng cao tinh thần tìm tòi, học hỏi, sáng tạo và khả
năng vận dụng kiến thức vào tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình và định
hướng những ý tưởng trong điều kiện thực tế.
- Đây là khoảng thời gian để mỗi sinh viên có cơ hội được thực tế vận
dụng kiến thức đã học vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học và là bàn đạp cho
việc xuất phát những ý tưởng nghiên cứu khoa học sau này.
1.3.2. Ý nghĩa thực tế
- Từ kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp một phần vào bản báo cáo đánh
giá thực trạng và giải pháp của nghèo trên địa bàn xã. Ngoài ra từ những phát
hiện trong quá trình nghiên cứu, có thể cho địa phương nơi đây có một cái
nhìn tổng thể cũng như chi tiết hơn về thực trạng và nguyên nhân qua đó phần
nào giúp định hướng những kiến nghị lên cơ quan quản lý cấp trên kịp thời
đưa ra những phương hướng chỉ đạo sát đúng để có những giải pháp phù hợp
nhằm giảm nghèo trên địa bàn xã.
- Xác định được thực trạng và nguyên nhân của nghèo tứ đó đưa ra các giải
pháp phù hợp để góp phần thúc đẩy giảm nghèo trên địa bàn xã.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên của các lớp khóa sau.


4
PHẦN 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Những vấn đề cơ bản về nghèo và giảm nghèo
Nói đến nghèo có rất nhiều khía cạnh. Chúng ta cần trả lời được những
câu hỏi, khái niệm về nghèo cơ bản sau:
2.1.1.1 Một số khái niệm
Quan niệm thế nào là nghèo? Ai là người nghèo? Họ đang sống ở đâu?
Họ nghèo vì nguyên nhân gì? Làm thế nào để giảm nghèo? để trả lời các câu
hỏi trên cần hiểu rõ bản chất và nội hàm của nghèo. Trước tiên phải khẳng
định là không có sự thống nhất tuyệt đối về nghèo, do bản thân quan niệm về
nghèo đã thay đổi nhanh chóng qua 3 thập kỷ qua. Nếu như đầu những năm
70, nghèo chỉ được coi là nghèo về tiêu dùng, với tư tưởng cốt lõi là căn bản
nhất để một người bị coi là nghèo, đó là sự “Thiếu hụt” so với một mức sống
nhất định mà sự thiếu hụt này được xác định theo các chuẩn mực xã hội và
phụ thuộc vào không gian và thời gian.
Tuy nhiên quan niệm về nghèo hay nhận dạng về nghèo của từng quốc
gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng
kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác nhau chung nhất là thỏa
mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về nghèo do hội nghị chống đói
nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok -
Thái Lan vào tháng 9 năm 1993: “ Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân
cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà
những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, phong
tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận,[5].
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen -
Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói như
sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập dưới 1 đô la (USD) mỗi

ngày cho mỗi người, số tiền coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn
tại”, [10].


5
Thực chất là hai vấn đề đói và nghèo là khác nhau:
- Nghèo: Là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có các điều kiện vật
chất và tinh thần để duy trì cuộc sống của gia đình họ ở mức tối thiểu trong
điều kiện chung của cộng đồng. Mức tối thiểu được hiểu là các điều kiện ăn,
ở, mặc và các nhu cầu khác như: Văn hóa, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp …
Chỉ đạt mức duy trì cuộc sống rất bình thường và dưới đó là đói khổ.
Nghèo luôn luôn là dưới mức trung bình của cộng đồng xét trên mọi
phương diện. Giữa mức nghèo và mức trung bình của xã hội có một khoảng
cách thường là ba lần trở lên.
Ngân hàng Châu Á đưa ra khái niệm về nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối như sau:
- Nghèo tuyệt đối: Là việc không thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu để
duy trì cuộc sống của con người.
- Nghèo tương đối: Là tình trạng không đạt tới mức tối thiểu tại một
thời điểm nào đó.
2.1.1.2. Các quan điểm đánh giá nghèo
Sẽ không có chuẩn nghèo nào chung cho tất cả các nước, vì nó phụ
thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng quốc gia.
Phương pháp thông dụng để đánh giá mức độ nghèo là xác định mức
thu nhập có thể đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của con người, sau
đó xác định xem ở trong nước hay vùng có bao nhiêu người có mức thu nhập
dưới mức đó. Tuy nhiên, phương pháp lượng hóa nhu cầu tối thiểu ở mỗi
nước để biểu hiện đường danh giới nghèo cũng khác nhau.
Trên thế giới, các nước thường đưa ra những chỉ số thu nhập khác nhau
của mình. Tuy nhiên, thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ là một trong

những căn cứ để đo mức độ phát triển chung của một số nước so với nước
khác. Chỉ số thu nhập có tính chất tương đối và có hạn chế nhất định, không
phải chỉ số trung bình cao về thu nhập quốc dân (GDP) là hết nghèo. Thực tế
trên thế giới không thiếu gì những quốc gia tư bản chủ nghĩa có trình độ phát
triển cao, có chỉ số thu nhập bình quân đầu người rất cao song cũng chính ở đó
đang diễn ra cảnh đói nghèo và mất công bằng xã hội gay gắt. Cho đến nay tiêu


6
chuẩn thu nhập quốc dân bình quân đầu người đang được sử dụng ngày càng phổ
biến để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. XĐGN là tìm ra con đường
cho sự phát triển tốt nhất, là làm tăng lên không ngừng mức sống và chất lượng
cuộc sống của dân cư theo mục tiêu công bằng xã hội.
Để phân tích nước nghèo, nước giàu, ngân hàng thế giới đưa ra kiến
nghị thang nghèo đói như sau: [10].
- Đối với các nước nghèo: Các cá nhân bị coi là nghèo khi mà có thu
nhập dưới 0,5 USD/ngày.
- Đối với các nước đang phát triển là 1 USD/ngày.
- Các nước thuộc Châu Mỹ La Tinh và Caribe là 2 USD/ngày.
- Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày.
- Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
Ở Việt Nam, Bộ LĐTB&XH là cơ quan thường trực trong việc thực
hiện XĐGN. Cơ quan này đã đưa ra mức xác định khác nhau về nghèo đói tùy
theo từng thời kỳ phát triển của đất nước. Từ năm 1993 đến nay chuẩn nghèo
đã được điều chỉnh qua 5 giai đoạn, cụ thể cho từng giai đoạn như sau: [6].
- Lần 1 (giai đoạn 1993 - 1995):
Hộ đói: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/ tháng dưới 13kg đối
với khu vực thành thị, dưới 8kg đối với khu vực nông thôn.
Hộ nghèo: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/ tháng dưới 20kg đối
với khu vực thành thị, dưới 15kg đối với khu vực nông thôn.

- Lần 2 (giai đoạn 1995 – 1997):
Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ một
tháng quy ra gạo dưới 13kg, tính cho mọi vùng.
Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập như sau:
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: Dưới 15kg/người/tháng.
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: Dưới 20kg/người/tháng.
Vùng thành thị: Dưới 25kg/người/tháng.
- Lần 3 (giai đoạn 1997 – 2000, theo công văn số 1751/LĐTBXH), [6].
Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ một
tháng quy ra gạo dưới 13kg, tương đương 45.000 đồng (giá năm 1997, tính
cho mọi vùng).
Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập tùy theo vùng ở các mức tương ứng như sau:


7
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: Dưới 15kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: Dưới 20kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng).
Vùng thành thị: Dưới 25kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
- Lần 4 (giai đoạn 2001 – 2005, theo quyết định số 1143/2000/QĐ -
LĐTBXH), [6]: về việc điều chỉnh chuẩn nghèo (không áp dụng chuẩn đói):
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng.
Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng.
Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
- Lần 5: (giai đoạn 2006 - 2010, quyết định số 170/2005/QĐ-TTg), [6]:
Vùng thành thị: 260.000 đồng/người/tháng.
Vùng nông thôn: (áp dụng cho cả miền núi và đồng bằng): 200.000
đồng/người/tháng.
- Lần 6: Theo tiêu chí mới (giai đoạn 2011 - 2015, theo Quyết định

09/2011/QĐ-TTg),[6].
Vùng nông thôn: 400.000 đồng/người/tháng trở xuống.
Vùng thành thị: 500.000 đồng/người/tháng trở xuống.
Với cách đánh giá chuẩn mực nghèo đói theo thu nhập như trên tuy đã
có tiến bộ và định mức thu nhập được quy thành giá trị, dễ so sánh nhưng vẫn
còn một số hạn chế là: Không phản ánh được chi tiêu, tổng hợp mức sống của
người nghèo (như tình trạng nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt, y tế, giáo dục và
mức hưởng thụ các dịch vụ cơ bản khác); không phản ánh được sự mất cân
đối giữa chuẩn mực so với đời sống thực của người nghèo.
Ở mỗi vùng, mỗi địa phương cũng có thể quy định chuẩn nghèo khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương mình tại thời
điểm nhất định. Ở xã Vĩnh Quang nói riêng và cả huyện Bảo Lâm cũng như
tỉnh Cao Bằng nói chung đều lấy chuẩn nghèo theo quy định chung của Bộ
lao động – Thương binh và xã hội đã quy định.


8
2.1.2. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu
2.1.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh thực trạng nghèo đói
 Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo trong toàn xã
 Thu nhập của hộ
Bao gồm toàn bộ giá trị sản phẩm và các nguồn thu tính được của hộ,
được sử dụng để chi cho đời sống và tích luỹ. Để phản ánh chính xác được
mức độ đói nghèo và thực trạng đời sống của hộ, tôi nghiên cứu chỉ tiêu thu
nhập bình quân trên đầu người theo tháng.
 Hệ thống các chỉ số
- Chỉ số phát triển con người: Human Development Index (HDI), bao gồm:
Tuổi thọ bình quân được phản ánh bằng số năm sống.
Trình độ giáo dục được đo bằng cách kết hợp giữa tỷ lệ người lớn biết
chữ và tỷ lệ người đi học đúng độ tuổi.

Mức thu nhập bình quân/đầu người theo sức mua tương đương.
HDI được tính theo phương pháp chỉ số, có giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ
nhất bằng 0.
- Chỉ số nghèo khổ: HumanPovertyIndex(HPI), được phản ánh ở các
khía cạnh:
Khía cạnh 1: Liên quan đến khả năng sống như tỷ lệ % người sống
đến 40 tuổi.
Khía cạnh 2: Liên quan đến trình độ giáo dục như tỷ lệ % người lớn
không biết chữ.
Khía cạnh 3: Liên quan đến mức sống, được tổng hợp bởi 3 yếu tố:
• Tỷ lệ % người dân không có khả năng tiếp cận với nguồn nước sạch.
• Tỷ lệ % người dân không có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế.
• Tỷ lệ % trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng.
2.1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả
Tốc độ phát triển bình quân.
Tốc độ phát triển liên hoàn.
Giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ tạo
ra trong nông hộ trong một giai đoạn nhất định (thường là 1 năm).


9
Chi phí trung gian (IC): Là toàn bộ những chi phí vật chất và dịch vụ
được sử dụng vào trong quá trình sản xuất.
Giá trị gia tăng (VA): Là kết quả thu được sau khi trừ đi chi phí trung
gian của một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó. Đây là chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất.
Thu nhập hỗn hợp (MI): Là thu nhập của người nông dân bao gồm thu
nhập của công lao động và lợi nhuận khi sản xuất một đơn vị sản phẩm.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Hoạt động xóa đói giảm nghèo trên thế giới

2.2.1.1. Tình hình nghèo đói trên thế giới
Đói nghèo là vấn đề đang đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới, nó
trở thành vấn nạn trên toàn cầu. Trong lịch sử đã có nhiều nạn đói chết hàng
triệu người dân Châu Á, Châu Phi. Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang
diễn ra theo chiều hướng rất đáng báo động. Theo một nghiên cứu của WB,
nguy cơ đối với người nghèo đang tiếp tục gia tăng trên quy mô toàn cầu, và
tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người
nữa rơi vào tình trạng nghèo đói, thêm vào con số 130-155 triệu người của năm
2008, khi giá nhiên liệu và thực phẩm tăng cao [12].
Ngày 15/5/2012, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra nghiên cứu năm
2012 về thị trường lao động, nhấn mạnh từ nhiều năm qua, tình trạng nghèo khổ gia
tăng không còn là vấn đề của riêng các nước đang phát triển mà đã trở thành vấn đề
đáng lo ngại ở các nước phát triển. Từ khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ, tỷ
lệ nghèo khổ đã giảm mạnh ở 75% các nước đang phát triển, nhưng lại đang tăng
lên ở 25 nước trong 36 nước phát triển [12].
Đói nghèo đã trở thành thách thức lớn, đe dọa đến sự sống còn, ổn định
và phát triển của thế giới và nhân loại. Sở dĩ như vậy bởi vì thế giới là một
chỉnh thể thống nhất, và mỗi quốc gia là một chủ thể trong chính thể thống
nhất ấy. Toàn cầu hóa đã trở thành cầu nối liên kết các quốc gia lại với nhau,
các quốc gia có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, sự ổn định và phát
triển của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến sự ổn định và
phát triển của các quốc gia khác. Nghèo đói đe dọa đến sự sống của loài


10
người bởi “đói nghèo đã trở thành một vấn đề toàn cầu có ý nghĩa chính trị
đặc biệt quan trọng, nó là nhân tố có khả năng gây bùng nổ những bất ổn
chính trị, xã hội và nếu trầm trọng hơn có thể dẫn tới bạo động và chiến
tranh” không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà là cả thế giới. Bởi, những
bất công và nghèo đói thực sự đã trở thành những mâu thuẫn gay gắt trong

quan hệ quốc tế; và nếu những mâu thuẫn này không được giải quyết một
cách thỏa đáng bằng con đường hòa bình thì tất yếu sẽ nổ ra chiến tranh [12].
2.2.1.2. Các giải pháp và kinh nghiệm XĐGN ở một số nước trên thế giới
Giải pháp.
Từ thực trạng đói nghèo trên thế giới đã rút ra được bài học kinh nghiệm
chống đói nghèo của các nước trong khu vực, mà một số nước thực hiện đã có
kết quả. Đó là áp dụng những can thiệp vĩ mô thuộc vai trò quản lý của nhà
nước để chống đói nghèo, XĐGN có hiệu quả. Điểm mấu chốt của nhà nước
là kịp thời có những chính sách, giải pháp đúng đắn, đồng bộ đảm bảo được
những điều kiện để thực thi.
Những giải pháp và những chính sách hướng vào phát triển sản xuất,
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Những kết quả, thành tựu đạt được
trong việc khắc phục tình trạng đói nghèo ở các nước trong giai đoạn xây
dựng và cải cách kinh tế - xã hội đã vừa xác nhận vừa làm tăng lên ý nghĩa
của bài học kinh nghiệm. Nó là điểm tựa, là cơ sở lý luận cho các quyết sách
của chính phủ. Về mặt thực tiễn của xã hội, bài học kinh nghiệm này cho thấy
tầm quan trọng thiết thực của các chính sách hỗ trợ, phát triển cho người
nghèo bằng cách tạo việc làm, tăng thu nhập thực tế, tạo cơ hội và trợ giúp
các điều kiện để cho họ thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Từ kinh nghiệm trên cho thấy rằng nhà nước không nên can thiệp trực
tiếp với hộ nghèo, mà chỉ thông qua chính sách tạo môi trường kinh tế xã hội
thuận lợi để hỗ trợ sản xuất cho người nghèo.
Cùng với nhà nước là sự tác động của các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội,
các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Đây là lực lượng tham gia trực
tiếp vào quá trình xã hội hóa chương trình xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra còn lựa
chọn công nghệ thu hút nhiều lao động và phát triển doanh nghiệp tại vùng nghèo.


11
Những giải pháp và chính sách trên phản ánh quan điểm tích cực của

các nhà nước trong khu vực về tăng trưởng phát triển XĐGN. Từ đó mỗi quốc
gia phải xác định mức tăng trưởng hợp lý nhằm tạo điều kiện duy trì sự tăng
trưởng và cải thiện đời sống, phải tạo ra được sức mạnh đủ sức phát triển trên
cơ sở hạ tầng vật chất nhằm giúp người nghèo có khả năng tiếp cận thị
trường, hòa nhập với đời sống cộng đồng.
Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước:
Vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo đang trở thành chủ đề quan
tâm của toàn nhân loại. Việc hạn chế và từng bước xóa bỏ nghèo đói là nhiệm
vụ quan trọng và nặng nề của nhiều tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia. Trong
một vài thập kỷ gần đây, công tác xóa đói giảm nghèo trên thế giới và một số
quốc gia đã đạt được một số kết qủa nhất định. Các kết quả này được tổng kết
và đúc rút thành kinh nghiệm để cho các nước khác tham khảo và học tập.
Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trung Quốc là một nước có số dân đông nhất thế giới và cũng là nước
có số dân nghèo chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ nghèo khổ chiếm 20% dân số, trong đó
80 triệu người quá nghèo khổ chiến 80% dân số (số liệu của FAO, 1990).
Bước vào thời kỳ cải cách kinh tế, nông thôn Trung Quốc đã có sự thay đổi
lớn, tuyệt đại đa số nông dân đã giải quyết được vấn đề no cơm ấm áo, tỷ lệ
nghèo khổ giảm đáng kể do Trung Quốc sớm quan tâm và thực hiện rất có
hiệu quả chương trình “Xóa đói giảm nghèo” ở trên phạm vi cả nước, nhất là
khu vực nông thôn. Kinh nghiệm thành công của Trung Quốc trong công cuộc
xóa đói giảm nghèo cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp tăng trưởng
kinh tế gắn với những biện pháp giải quyết việc làm ở nông thôn, mở rộng hệ
thống dạy nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ điều kiện việc làm, cải thiện đời
sống, phát triển công nghiệp nông thôn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, cải tạo
nền kinh tế thuần nông với phương châm “Ly nông bất ly hương”. Đối với
các vùng nghèo, chính phủ có các chương trình riêng như:
Giúp đỡ các huyện nghèo khó theo phương châm lấy phát triển kinh tế
là chính với các công tác sau: Kết hợp khai thác tổng hợp nông nghiệp, đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển ngành nghề địa phương, phòng chống cơ



12
bản về các bệnh tật, phổ cấp giáo dục tiểu học nâng cao trình độ văn hóa,
trình độ kĩ thuật cho người lao động. Khống chế tốc độ gia tăng dân số, khai
thác và bảo vệ tốt tài nguyên môi trường sinh thái.
Ngoài những nỗ lực đó còn có các chính sách tín dụng cho hộ nghèo vay vốn
với lãi xuất thấp thực hiện ưu đãi về thuế tín dụng. Nhà nước tăng các khoản đầu tư
vào các vùng khó khăn, động viên các lực lượng xã hội chi viện cho vùng nghèo
khó, triển khai kế hoạch khoa học kỹ thuật và đã thu được những kết quả tốt.
Giúp đỡ xã nghèo, thôn nghèo và các hộ nghèo như phổ biến kinh
nghiệm, hợp tác kinh tế giúp đỡ lẫn nhau cùng có lợi để đưa xã nghèo, thôn
nghèo, hộ nghèo thoát khỏi khó khăn tiến tới giàu có,[4].
Kinh nghiệm của Ấn Độ
Trước đây Ấn Độ là một trong những nước có số người nghèo khổ
nhiều nhất thế giới. Theo tiêu chuẩn của liên hợp quốc, hiện nay Ấn Độ có
khoảng 420 triệu người ở tình trạng nghèo đói chiếm 37,6% tổng số người
nghèo khổ trên thế giới, chiếm 55% dân số đất nước.
Từ những năm 1950 - 1970 chính phủ Ấn Độ đã đặt ra vấn đề phát triển
toàn diện khơi dậy tiềm năng sẵn có trong nông thôn. “Cuộc cách mạng
xanh” với việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phẩm chất tốt
cùng với chương trình phát triển nông nghiệp khác đã đưa Ấn Độ từ một nước
phải nhập khẩu lương thực nay trở thành một nước có khả năng tự túc lương
thực. Chính phủ Ấn Độ đã có biện pháp giúp đỡ từng nhóm hộ gia đình phát
triển sản xuất nên đã có 15 triệu hộ gia đình với khoảng 75 triệu người thoát khỏi
cảnh nghèo khổ. Hiện nay Ấn Độ có khoảng 12 - 15% số hộ nông dân khá, giàu.
Đây là một kết quả cũng là thành tựu mà Đảng và nhà nước Ấn Độ có được,[5].
Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia đất hẹp người đông, điều kiện phát triển kinh tế
rất khó khăn, nghèo tài nguyên lại thường hay động đất … Nhưng đặc điểm

cả người Nhật Bản là rất hay làm việc, biết tiết kiệm và căn cơ. Chỉ hơn 20
năm sau chiến tranh, từ đống tro tàn đổ nát, Nhật Bản đã vươn lên thành
cường quốc về kinh tế, đời sống nhân dân tăng cao, tình trạng đói nghèo đã
giảm xuống thấp. Hiện nay 90% dân số Nhật Bản là tầng lớp trung lưu. Có


13
được thành quả như vậy là do Nhật Bản đã đưa ra kế hoạch và chính sách rất
đúng đắn và thực hiện tích cực, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống nhân dân, XĐGN bền vững.
Nhật Bản đã áp dụng các giải pháp sau:
+ Thực hiện quá trình dân chủ hóa sau chiến tranh, nhằm tạo lập một
nền kinh tế thị trường, bao gồm nhiều chủ thể có sự bình đẳng tương đối trong
sản xuất kinh doanh, thực hiện dân chủ hóa lao động.
+ Xóa bỏ cơ sở gây ra sự phân hóa giàu nghèo, tạo lập mặt bằng bình
đẳng hơn cho xã hội đối với tài sản và đất đai nhanh chóng thực hiện mục tiêu
“Ruộng đất cho người cày”.
+ Thực hiện chính sách cùng hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.
+ Thực hiện chính sách thuế thu nhập để điều tiết giảm bớt chênh lệch
về thu nhập.
+ Thực hiện chính sách vùng, khu vực: Khuyến khích phát huy lợi thế
so sánh giữa các vùng … Hỗ trợ khu vực nông thôn nông nghiệp thông qua
chính sách bảo bộ đối với sản xuất nông nghiệp.
+ Thực hiện chính sách về phúc lợi xã hội: Thông qua hệ thống bảo
hiểm rộng lớn trên các lĩnh vực: Tương trợ công cộng, dịch vụ, phúc lợi bảo
hiểm xã hội (chăm sóc sức khỏe, trợ cấp con cái, hưu trí, bảo hiểm thất
nghiệp và tai nạn lao động), y tế công cộng, trợ cấp và giúp đỡ của nhà nước
cho các nạn nhân chiến tranh. Các khoản chi cho bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản
không nhỏ, năm 1989 con số này đã chiếm 14% thu nhập quốc dân và từ đó
đến nay các khoản chi này không ngừng tăng lên. Đây chính là biện pháp có

hiệu quả để những người nghèo sớm thoát khỏi cảnh đói nghèo và những
người không may gặp rủi ro nhanh chóng trở lại cuộc sống ổn định, nâng cao
chất lượng cuộc sống,[5].
2.2.2. Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
2.2.2.1. Thực trạng nghèo đói và công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Ở Việt Nam, đói, nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc. Xóa đói, giảm
nghèo toàn diện, bền vững luôn được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm và
xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội và


14
là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu góp phần phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điểm lại thời gian 20 năm qua, Việt Nam là một trong những nước
thành công về quá trình phát triển kinh tế và giảm nghèo - đó là nhận định của
ông Vũ Hoàng Linh, chuyên gia kinh tế của Ngân hàng thế giới tại Hội thảo
“Mười năm thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam - Cơ hội và thách thức” do Tạp chí Cộng sản tổ chức mới
đây. Thành tích của Việt Nam về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trong hai
thập niên qua là rất lớn. Bởi chỉ trong vòng 25 năm, kể từ năm 1986, Việt
Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân
đầu người dưới 100 đô la Mỹ đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình
thấp, với thu nhập đầu người 1.200 đô la Mỹ như hiện nay…
Được biết, trong Báo cáo "Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn
thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức
mới" của Ngân hàng thế giới ngày 24/1/2013, cũng ghi nhận: Trong vòng 20
năm (1990-2010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần 60% xuống còn
20,7% với khoảng hơn 30 triệu người thoát nghèo. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng đạt được thành tựu ấn tượng về giáo dục và y tế. Tỷ lệ nhập học ở bậc
tiểu học của người nghèo là trên 90% và ở bậc trung học cơ sở là 70%. Trình

độ học vấn tăng và sự đa dạng hóa các hoạt động phi nông nghiệp, cơ hội làm
việc ở công trường, nhà máy cũng đóng góp tích cực cho công tác xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam .
Không chỉ Ngân hàng thế giới mà nhiều nước và tổ chức quốc tế khác
cũng đánh giá cao, coi Việt Nam là "một điểm sáng thành công" trong xóa đói
giảm nghèo. Mới đây, tại Italia, Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO)
đã tổ chức "Công nhận thành tích nổi bật trong đấu tranh xóa đói giảm nghèo"
cho 38 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam
cũng nằm trong nhóm 18 quốc gia được trao bằng khen chứng nhận việc sớm
đạt được Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ 1 (MDG 1) - hướng tới mục tiêu
giảm một nửa số người bị đói vào năm 2015.


15
Có thể khẳng định rằng, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng, xóa đói
giảm nghèo tại Việt Nam là đúng đắn, hợp lòng dân, phù hợp với xu hướng
chung của thế giới. Mặc dù kinh tế đất nước còn không ít khó khăn nhưng
Đảng, Nhà nước luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những mục tiêu
quan trọng. An sinh xã hội và giảm nghèo luôn là một trong những lĩnh vực
ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của Chính phủ những năm qua. Những
thành tựu có được trong xóa đói giảm nghèo là nhờ nỗ lực chung của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh
nghiệp, các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội và các cá nhân.
Tỷ lệ đói nghèo ở nước ta đã giảm một cách tích cực. Tính đến năm
2012, đã có 500 nghìn lượt hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, 542 triệu lượt
người được hỗ trợ bảo hiểm xã hội. Điều kiện sống của người nghèo được cải
thiện. Tỷ lệ hộ nghèo và các huyện nghèo giảm nhanh, hoàn thành vượt mục
tiêu Quốc hội đề ra từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 9,6% (năm 2012). Thông
qua thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn,
bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% (năm 2006) xuống còn 28,8% (năm

2010), thu nhập bình quân đầu người là 4,2 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ các
xã có đường giao thông cho xe cơ giới từ trung tâm xã đến thôn, bản lên tới
80,7%. 2,2 triệu hộ được hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; xây dựng được
6.834 mô hình phát triển nông, lâm, ngư nghiệp Sau gần 4 năm thực hiện, tỷ
lệ hộ nghèo ở 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a đã giảm từ 58,33% (năm
2010) xuống còn 43,89% (năm 2012), bình quân giảm trên 7%/năm. Các địa
phương đã hỗ trợ 1.340 lao động ở các huyện nghèo đi xuất khẩu lao động,
nâng tổng số lao động xuất khẩu lao động qua gần 4 năm lên gần 8.500 người.
Các địa phương còn tổ chức đào tạo nghề cho hơn 10.000 lao động nghèo để
tạo việc làm tại chỗ, ngoài địa bàn hoặc tham gia xuất khẩu lao động. 225
nghìn hộ được vay vốn với tổng số tiền 1.122 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi để
chăn nuôi gia cầm, gia súc, phát triển ngành nghề
Theo kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2013 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, cả nước còn 1.797.889 hộ nghèo (7,8%),


16
giảm 1,8% so với năm 2012. Tổng số hộ cận nghèo là 1.443.183 hộ (6,32%),
giảm 0,25% so với năm 2012.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước không ngừng bổ sung, hoàn
thiện hệ thống chính sách về xóa đói giảm nghèo. Nhiều nghị quyết, chỉ thị,
chiến lược, quyết định, chính sách quan trọng về công tác xóa đói giảm nghèo
đã được ban hành để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Các
chương trình, chính sách giảm nghèo đã huy động sức mạnh, sự vào cuộc của
cả hệ thống chính trị, toàn xã hội (các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các
tổ chức xã hội) và sự vươn lên của chính người nghèo , tạo nguồn lực to lớn
cùng với nguồn lực của Nhà nước thực hiện hiệu quả công tác có ý nghĩa xã
hội sâu sắc này. Kết quả tích cực của công cuộc xóa đói giảm nghèo đã góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, an sinh xã hội
cho người dân vùng đặc biệt khó khăn, song bên cạnh đó còn có không ít

thách thức và khó khăn trước mắt mà nhà nước ta cần phải quan tâm.
Ở một đất nước thu nhập còn thấp, khoảng gần 70% dân số là nông
dân, thiên tai, dịch bệnh tàn phá quanh năm và những bất trắc trong phát
triển kinh tế…, tất cả những thiệt thòi, xui rủi hầu như đều tìm đến những
thân phận nghèo khổ, thiếu khả năng chống đỡ. Nghèo lại càng nghèo
thêm, cái hố phân cách giàu nghèo ngày càng sâu.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Chương trình
giảm nghèo bền vững vẫn còn những hạn chế, cần tập trung khắc phục: Tỷ
lệ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững, khoảng cách giàu - nghèo
giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi
phía Bắc và Tây Nguyên. Tại một số nơi, tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%,
cá biệt còn trên 60-70%; tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm gần
50% tổng số hộ nghèo trong cả nước, thu nhập bình quân của hộ dân tộc
thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân của các nước.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do nhiều cơ chế, chính
sách được ban hành còn chồng chéo dẫn đến việc thực hiện phân bổ, hiệu
quả sử dụng các nguồn lực chưa cao; nhiều địa phương còn trông chờ, ỷ
lại vào Nhà nước mà chưa tự lực vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, một


17
số cơ chế, chính sách hiện còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn nhưng
việc sửa đổi, bổ sung còn chậm; công tác tuyên truyền, vận động nâng cao
nhận thức về giảm nghèo chưa được tổ chức thường xuyên.
Mục tiêu đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm
(từ 9,6% xuống còn 7,6%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm
bình quân 5%/năm (từ 43,89% năm 2012 xuống còn 38,89% năm 2013);
đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống còn dưới 5% theo
chuẩn nghèo hiện hành; tỷ lệ nghèo các huyện còn dưới 30%. Mới đây, tại
Hội nghị thực hiện công tác giảm nghèo, chương trình giảm nghèo, Phó

Thủ tướng Vũ Văn Ninh - Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2011-2020 cho rằng, Nhà nước, xã hội và cộng đồng
cần nhận thức đúng trách nhiệm thực hiện giảm nghèo, cùng chung tay hỗ
trợ người dân thoát nghèo bền vững; đặc biệt là việc tự giác, chủ động
thực hiện, có trách nhiệm hơn nữa để vươn lên thoát nghèo của người dân.
Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng
chậm lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 lần trong
những năm 1992 - 1998, giảm xuống còn 1 - 0,3 lần giai đoạn 1999 - 2004.
Tốc độ giảm nghèo thể hiện rõ nhất là ở những vùng bị chia cắt về địa lý, kết
cấu hạ tầng và mặt bằng dân trí còn thấp. Một số chính sách và giải pháp động
lực cho XĐGN đã bộc lộ những hạn chế, không còn tác dụng mạnh mẽ như
giai đoạn đầu như các chính sách về đất đai, về giao đất, giao rừng, về khoán
trong nông nghiệp …
Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi còn cao, gấp từ 1,7 - 2 lần tỷ lệ hộ
nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số trong tổng hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992
lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn.
Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo
nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Năm 2012, trên cả nước, tỷ lệ số hộ nghèo cao nhất tập trung ở khu vực
miền núi Tây Bắc với trên 28%, tiếp đó là miền núi Đông Bắc (17,4), Tây Nguyên
và Khu 4 cũ 15%. Khu vực Đông Nam Bộ chỉ có khoảng 1,3% hộ nghèo.


18
Chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu
hướng gia tăng: Mức thu nhập bình quân đầu người ở nước ta hiện nay vào
khoảng 1050 – 1100 USD/năm (2009). Trong những năm gần đây, chênh lệch
về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993
lên 8,14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm

nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002 lên 13,5 lần năm 2004.
Việt Nam đã vượt mức phấn đấu đến năm 2011 sẽ đạt mức thu nhập 1.050 -
1.100 USD trước 1 năm và đánh dấu một “Cuộc chia tay” với các nước nghèo.
Nhưng ngẫm ra mới thấy con số thu nhập “bình quân” ngày càng mất ý nghĩa và
không thực chất đối với hàng chục triệu người nghèo Việt Nam. Đơn giản vì hai
cực của sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng bị kéo dãn ra.
Mặc dù trong những năm qua số hộ nghèo trong cả nước đã giảm
mạnh, song trên thực tế công cuộc XĐGN còn vô cùng gian nan. Nguy cơ tái
nghèo có thể tăng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế. Sắp tới, để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm giai đoạn 2007 – 2011và
nghị quyết đại hội lần thứ V, XĐGN của Đảng, chính phủ tiếp tục tạo lập
động lực để phát triển mạnh mẽ kinh tế – xã hội, đồng thời chủ động chỉ đạo
thực hiện công tác XĐGN với sự đồng tâm hiệp lực của các ngành, các cấp,
của cả cộng đồng, của các tổ chức kinh tế – xã hội và của chính người nghèo.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã đề xuất Chính phủ
nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung một số cơ chế, chính sách cụ thể cho các hộ
mới thoát nghèo được hưởng các chính sách như đối với hộ nghèo 2-3 năm;
hỗ trợ mức đóng 100% bảo hiểm y tế đối với người thuộc hộ cận nghèo đang
sinh sống tại vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, đang sinh sống ở các tỉnh
vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên; hỗ trợ 5% chi phí đồng chi trả cho người
thuộc hộ nghèo khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế
Chúng ta tin rằng, với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và người
dân, công tác xóa đói giảm nghèo sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu lớn
hơn, khắc phục những tồn tại, khó khăn trước mắt.[6]
2.2.2.2. Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam

×