Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Vai trò của phụ nữ trong sự phát triển hộ ở xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.09 KB, 85 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

















LÝ THỊ THƯỢNG
















Tên đề tài:


T
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN HỘ Ở XÃ TUẤN MẬU
HUYỆN SƠN ĐỘNG, TỈNH BẮC GIANG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




















Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển Nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khoá học : 2010 - 2014

























Thái Nguyên, 2014

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM








LÝ THỊ THƯỢNG
















Tên đề tài:


T
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN HỘ Ở XÃ TUẤN MẬU
HUYỆN SƠN ĐỘNG, TỈNH BẮC GIANG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC










































Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển Nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Lớp : 42 - PTNT
Khoá học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Dương Văn Sơn





Thái Nguyên, 2014


LỜI CẢM ƠN

Được sự nhất trí của Ban Giám hiệu nhà trường, thầy cô giáo khoa Kinh
tế và Phát triển nông thôn - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sau khi
đã hoàn thành khóa học ở trường tôi đã tiến hành thực tập tại xã Tuấn Mậu -
huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang với đề tài: “Vai trò của phụ nữ trong sự
phát triển hộ ở xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang”.
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn tốt nghiệp Đại học em đã
nhận được sự quan tâm hướng dẫn, giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong
và ngoài trường. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ bảo của các thầy,
cô giáo trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, xin chân thành cảm ơn Ủy
ban nhân dân xã Tuấn Mậu - huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang đã giúp đỡ em
hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới giảng viên PGS.TS. Dương Văn Sơn
đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho em trong quá trình thực tập để em
hoàn thành tốt luận văn. Mặc dù đã rất cố gắng, song trong quá trình viết và
hoàn thiện chuyên đề không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong
các thầy giáo, cô giáo, chỉnh sửa bổ sung để luận văn được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các anh chị, bạn bè đã tạo điều
kiện và khích lệ em hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 09 tháng 06 năm 2014
Sinh viên


Lý Thị Thượng







LỜI NÓI ĐẦU
Để hoàn thành chương trình đào tạo của nhà trường thực hiện phương
châm “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tiễn”, thực tập tốt
nghiệp là giai đoạn cuối cùng của các trường Đại học nói chung và của trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng. Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn
vô cùng quan trọng đối với mỗi sinh viên trước khi ra trường. Đây là khoảng
thời gian giúp cho sinh viên củng cố và hệ thống lại toàn bộ những kiến thức
đã học, đồng thời giúp sinh viên làm quen dần với thực tế, từ đó nâng cao
trình độ chuyên môn, nắm bắt được phương pháp tổ chức và tiến hành công
việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào thực tế sản xuất, tạo cho
mình tác phong làm việc nghiêm túc, sáng tạo để khi ra trường trở thành một
kĩ sư Phát triển nông thôn có chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của thực tế
sản xuất góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Từ những mục tiêu đó, được sự đồng ý của ban chủ nhiệm khoa Kinh tế
và Phát triển Nông thôn - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, được sự
hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo PGS.TS Dương Văn Sơn và sự tiếp nhận
của cơ sở tôi đã tiến hành đề tài: “Vai trò của phụ nữ trong sự phát triển
hộ ở xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang”.
Do bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu nên trong quá trình
thực hiện đề tài tôi không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè để đề tài được
thực hiện tốt hơn.
Thái Nguyên, ngày 09 tháng 06 năm 2014
Sinh viên



Lý Thị Thượng





DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 4.2: Tình hình dân số và lao động giai đoạn 2011 - 2013 32

Bảng 4.3: Lao động xã Tuấn Mậu chia theo giới tính giai đoạn 2011 – 2013 34

Bảng 4.4: Tình hình phát triển một số giống cây trồng trên địa bàn xã 35

Bảng 4.5: Trình độ của cán bộ hội đoàn thể nhiệm kỳ 2011 - 2016 41

Bảng 4.6: Tỷ lệ phụ nữ tham gia các cấp Ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể tại
xã nghiên cứu 42

Bảng 4.7: Tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động cộng đồng 43

Bảng 4.8: Sự phân công lao động của nông hộ trong khâu sản xuất nông
nghiệp 46

Bảng 4.9: Phân công lao động trong các hoạt động khác 49

Bảng 4.10: Tình hình tiếp cận thông tin của phụ nữ xã Tuấn Mậu 51


Bảng 4.11: Tình hình quản lý tài chính của hộ 55

Bảng 4.12: Mối liên hệ giữa vai trò giới, tình trạng bất bình đẳng giới 61

và công cuộc phát triển 61



DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 4.1: Người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 54

Hình 4.2: Trình độ văn hóa của phụ nữ trong các nhóm hộ 57





























DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT

BCH : Ban chấp hành
ĐBQH : Đại biểu quốc hội
ĐVT : Đơn vị tính
KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình
KH - KT : Khoa học kỹ thuật
KT - XH : Kinh tế xã hội
NN & PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TC - CĐ - ĐH : Trung cấp - Cao đẳng - Đại học
TDTT : Thể dục thể thao
TH & THCS : Trung học và trung học cơ sở
TM - DV : Thương mại - dịch vụ
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
UBND : Uỷ ban nhân dân



MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2

1.2.1. Mục tiêu chung 2

1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3

1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 3

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

2.1. Khái niệm và thuật ngữ liên quan 4

2.1.1. Khái niệm về giới và các thuật ngữ liên quan 4

2.1.2. Khái niệm về phát triển và phát triển kinh tế, nông thôn 7

2.1.3. Khái niệm, đặc điểm hộ gia đình, kinh tế hộ nông dân, kinh tế nông thôn 7

2.2. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn 8


2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông
thôn 10

2.4. Thực trạng vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam 12

2.5. Thực trạng phụ nữ nông thôn Việt Nam và vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế nông thôn 13

2.6. Một số vấn đề đặt ra với phụ nữ nông thôn 17

2.6.1. Về vấn đề sức khoẻ 17

2.6.2. Về chuyên môn kỹ thuật 19

2.6.3. Sự bất bình đẳng giới trong tiếp cận nguồn lực và ra quyết định 19

PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 24

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 24

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 24

3.2. Nội dung nghiên cứu 24

3.3. Phương pháp nghiên cứu 25

3.3.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 25



3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu 25

3.3.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu 26

3.3.4. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích 26

PHẦN 4
.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27

4.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tại địa phương 27

4.1.1. Điều kiện tự nhiên 27

4.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của xã Tuấn Mậu 31

4.2. Vai trò và đóng góp của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội của
hộ gia đình tại địa bàn nghiên cứu 40

4.2.1. Thông tin chung về hộ điều tra ở xã 40

4.2.2. Vai trò trong tham gia công tác xã hội và hoạt động xã hội 41

4.2.3. Vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập 45

4.2.4. Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận thông tin - truyền thông 51

4.2.5. Vai trò của phụ nữ trong kiểm soát các nguồn lực của hộ 53


4.2.6. Vai trò trong việc giáo dục đào tạo và nâng cao trình độ 56

4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của phụ nữ trong phát triển kinh
tế - xã hội của hộ gia đình nông thôn 58

4.3.1. Yếu tố thuận lợi 58

4.3.2. Yếu tố cản trở 59

4.3.3. Nhận xét chung về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia
đình ở xã Tuấn Mậu - huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang 62

4.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vài trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế - xã hội của hộ gia đình nông thôn 63

4.4.1. Quan điểm về việc nâng cao vai trò của phụ nữ 63

4.4.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vài trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế - xã hội của hộ gia đình nông thôn 64

PHẦN 5
.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 67

5.1. Kết luận 67

5.2 Khuyến nghị 68

5.2.1. Đối với Nhà nước 68


5.2.2. Đối với chính quyền, đoàn thể địa phương 68

5.2.3. Đối với người dân 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO 70


1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ có vai trò quan trọng trong đội ngũ đông đảo những lao động

trong xã hội bằng lao động sáng tạo của mình, họ đã góp phần làm giàu cho
xã hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò của
mình trong các lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể là trong lĩnh vực hoạt động
vật chất, phụ nữ là một lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi sống
con người. Không chỉ sản xuất ra của cải vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra
con người để duy trì và phát triển xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần,
phụ nữ có vai trò sáng tạo nền văn hoá nhân loại. Nền văn hoá dân gian của
bất cứ nước nào, dân tộc nào cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của
đông đảo phụ nữ [26].
Việt Nam, phụ nữ chiếm trên 50% dân số cả nước, họ tham gia vào tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và càng
ngày càng thể hiện vị trí và vai trò của mình trong xã hội. Trong suốt chặng
đường đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước, lịch sử Việt
Nam đã ghi nhận những cống hiến to lớn của phụ nữ. Trong công cuộc đổi
mới đất nước của Đảng, họ luôn giữ gìn, phát huy và nêu cao tinh thần yêu
nước, đoàn kết, năng động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn để vươn lên

trong học tập, lao động, phấn đấu đạt những thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh
vực. Trong gia đình, mỗi phụ nữ vừa là người con dâu, người vợ, người mẹ,
người thầy của các con, người thầy thuốc của gia đình.
Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ
trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia vào tất cả các lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,… Ở khu vực nông thôn,
cùng với việc tích cực tham gia vào quá trình phát triển kinh tế gia đình, mỗi
phụ nữ còn tham gia nhiều hoạt động xã hội, góp phần quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội, ổn định an ninh quốc phòng địa phương làm thay đổi diện
mạo khu vực nông thôn Việt Nam.

2
Tuấn Mậu là một xã miền núi của huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang
gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau cùng sinh sống, và có đến 50,5%
dân số là phụ nữ. Lực lượng này đã và đang có những đóng góp to lớn vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của toàn xã. Tuy nhiên, sự đóng góp của phụ nữ lại
chưa được ghi nhận một cách xứng đáng, chưa tương xứng với vị trí, vai trò
của họ trong nền kinh tế, trong các quan hệ xã hội và trong đời sống gia đình.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường người phụ nữ phải "nặng gánh hai vai",
vừa phải làm tốt công việc xã hội, vừa đảm nhiệm vai trò làm vợ, làm mặt
rong khi quỹ thời gian của họ cũng chỉ có như mọi người, sức khoẻ lại hạn
chế, Để cố gắng làm tốt, họ phải nỗ lực và hy sinh, nhưng quyền lợi về mọi
mặt của họ lại chưa được quan tâm đúng mức.
Qua quá trình công tác và nghiên cứu trong lĩnh vực liên quan đến phụ
nữ, nhiều câu hỏi được đặt ra cho bản thân, cho các cấp hội phụ nữ và chúng
ta: Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn hiện nay như thế
nào? Thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn hiện
nay ra sao? Giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong quá trình nâng cao
năng lực cho phụ nữ? Vì vậy, nghiên cứu về vai trò của phụ nữ nông thôn
miền núi tại xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang trong việc phát

triển kinh tế được đặt ra như một yêu cầu cấp bách, từ đó đề xuất một số giải
pháp có tính khả thi nhằm phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng này, qua đó
thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo xu hướng đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá như mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã
đề ra.
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên và sự nhận thức sâu sắc về những
tiềm năng to lớn của phụ nữ, những cản trở sự tiến bộ của phụ nữ trong quá
trình đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Vai trò của phụ nữ trong sự phát triển của hộ ở xã Tuấn Mậu huyện Sơn
Động - tỉnh Bắc Giang”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng hoạt động của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ

3
nông thôn, đưa ra giải pháp và khuyến nghị nhằm tạo cơ hội cho phụ nữ phát
huy tiềm năng về mọi mặt để phát triển kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời
sống gia đình, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội xã Tuấn Mậu.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu
có liên quan đến phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Phân tích và đánh giá thực trạng vai trò và đóng góp của phụ nữ trong
phát triển kinh tế xã hội của hộ gia đình nông thôn tại địa bàn nghiên cứu.
- Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của phụ nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội của hộ gia đình nông thôn.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong phát
triển kinh tế - xã hội của hộ gia đình nông thôn.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
+ Nâng cao năng lực, rèn luyện kỹ năng và phương pháp nghiên cứu

khoa học cho bản thân sinh viên.
+ Là tài liệu tham khảo cho nhà trường, cho khoa và các sinh viên khóa
tiếp theo.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Những nghiên cứu và kết luận của đề tài là cơ sở khoa học cho các tổ
chức của nhà nước, các tổ chức xã hội và người dân tham khảo trong việc phát
triển kinh tế hộ gia đình nói riêng cũng như phát triển kinh tế xã hội nói chung.
+ Thấy được tầm quan trọng của phụ nữ và những mặt hạn chế của phụ
nữ khi tham gia vào xã hội để có giải pháp khắc phục.








4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Khái niệm và thuật ngữ liên quan
2.1.1. Khái niệm về giới và các thuật ngữ liên quan
Giới tính: Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới
tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể
thay đổi được [19].
Các đặc trưng của giới tính bị quy định và hoạt động theo các cơ chế tự
nhiên, di truyền.
Ví dụ: Người nào có cặp nhiễm sắc thể giới tính XX thì thuộc về nữ
giới, người nào có cặp nhiễm sắc thể giới tính XY thì thuộc về nam giới. Nữ

giới vốn có chức năng sinh lý học như tạo ra trứng, mang thai, sinh con và
cho con bú bằng bầu sữa mẹ. Nam giới có chức năng tạo ra tinh trùng. Về mặt
sinh lý học nữ giới khác với nam giới.
Giới: Là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa
nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho
phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới
rất đa dạng và có thể thay đổi được.
Sự khác biệt này được nhìn thấy một cách rõ ràng trong vai trò, trách
nhiệm, nhu cầu, khó khăn, thuận lợi của các giới tính.
Khái niệm về "Giới" được xuất hiện ban đầu là các nước nói tiếng Anh,
vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX. Ở Việt Nam, khái niệm này mới
xuất hiện vào khoảng thập kỷ 80.
“Giới” là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học, nói đến
vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. "Giới"
đề cập đến việc phân công lao động các kiểu phân chia: Nguồn lực và lợi ích
giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể. “Giới” là yếu tố luôn biến
đổi cũng như tương quan về địa vị trong xã hội của nữ giới và nam giới,
không phải là hiện tượng bất biến mà liên tục thay đổi. Nó phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. "Giới" là sản phẩm của xã hội, có tính xã

5
hội dùng để phân biệt sự khác nhau trong quan hệ nam và nữ. Đây là cơ sở để
nghiên cứu sự cân bằng về giới và đảm bảo công bằng trong xã hội
* Đặc điểm, nguồn gốc và sự khác biệt về giới:
Đặc điểm về giới:
- Không tự nhiên mà có
- Học được từ gia đình và xã hội
- Ða dạng (khác nhau giữa các vùng miền)
- Có thể thay đổi được
Nguồn gốc giới:

- Trong gia đình, bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ được đối xử tùy theo nó
là trai hay gái. Ðó là sự khác nhau về đồ chơi, quần áo, tình cảm của ông bà, bố
mẹ, anh chị dạy dỗ và điều chỉnh hành vi của chúng theo giới tính của mình.
Trong nhà trường, các thầy cô giáo cũng định hướng theo sự khác biệt
về giới cho học sinh.
Ví dụ: Học sinh nam được hướng theo các ngành kỹ thuật, điện tử, các
ngành cần có thể lực tốt.
Học sinh nữ được hướng theo các ngành như may, thêu, trang điểm, các
ngành cần sự khéo léo, tỷ mỷ.
Sự khác biệt về giới:
Phụ nữ được xem là phái yếu, vì họ sống thiên hơn về tình cảm, họ là
thành phần quan trọng tạo nên sự yên ấm trong gia đình. Thiên chức của phụ
nữ là làm vợ, làm mẹ, nên họ gắn bó với con cái, gia đình hơn nam giới và
cũng từ đấy mối quan tâm của họ cũng có phần khác nam giới.
Nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình. Họ cứng rắn hơn
về tình cảm, mạnh bạo và năng động hơn trong công việc. Đặc trưng này cho
phép hộ dồn hết tâm trí vào lao động sản xuất, vào công việc xã hội, ít bị ràng
buộc bởi con cái và gia đình. Chính điều này đã làm tăng thêm khoảng cách
khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội.

Hơn nữa, nam giới và nữ giới lại có xuất phát điểm không giống nhau
để tiếp cận cái mới, họ có những thuận lợi, khó khăn với tính chất và mức để
khác nhau để tham gia vào các chương trình kinh tế, từ góc để nhận thức, nắm

6
bắt các thông tin xã hội. Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế, từ điều kiện và
cơ hội được học tập, tiếp cận việc làm và làm việc, từ vị trí trong gia đình,
ngoài xã hội khác nhau, từ tác động của định kiến xã hội, các hệ tư tưởng,
phong tục tập quán đối với mỗi giới cũng khác nhau.
* Nhu cầu, lợi ích giới và bình đẳng giới

Nhu cầu giới (còn gọi là nhu cầu thực tế): Là những nhu cầu xuất phát
từ công việc và hoạt động hiện tại của phụ nữ và nam giới. Nếu những nhu
cầu này được đáp ứng thì sẽ giúp cho họ làm tốt vai trò sẵn có của mình [1].
Nhu cầu giới thực tế là những nhu cầu được hình thành từ những điều kiện cụ
thể mà phụ nữ trải qua. Chúng nảy sinh từ những vị trí của họ trong phân
công lao động theo giới, cùng với lợi ích giới thực tế của họ là sự tồn tại của
con người. Khác với nhu cầu chiến lược, chúng được chính phụ nữ đưa ra từ
vị trí của họ chứ không phải qua can thiệp từ bên ngoài. Vì vậy nhu cầu giới
thực tế thường là sự hưởng ứng đối với sự cần thiết được nhận thức ngay do
phụ nữ xác định trong hoàn cảnh cụ thể.

Lợi ích giới (còn gọi là nhu cầu chiến lược): Là những nhu cầu của phụ
nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã hội của họ. Những lợi
ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam giới theo
hướng bình đẳng [1].
Khoảng cách giới: Là những khác biệt về khối lượng công việc, cơ
hội phát triển và về lợi ích mà nam giới và nữ giới được hưởng.

Bình đẳng giới: Nam giới và nữ giới được coi trọng như nhau, cùng
được công nhận và có vị thế bình đẳng [1].
Nam giới và phụ nữ được bình đẳng về:
- Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng.
- Các cơ hội để tham gia đóng góp, hưởng lợi trong quá trình phát triển.
- Quyền tự do và chất lượng cuộc sống.
* Vai trò của giới
- Vai trò sản xuất: Được thể hiện trong lao động sản xuất dưới mọi
hình thức để tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho gia đình và xã hội.

- Vai trò tái sản xuất sức lao động: Bao gồm các hoạt động nhằm duy


7
trì nòi giống, tái tạo sức lao động. Vai trò này không chỉ đơn thuần là tái sản
xuất sinh học, mà còn cả việc chăm lo, duy trì, phát triển lực lượng lao động
cho hiện tại và tương lai như: Nuôi dạy con cái, nuôi dưỡng các thành viên
trong gia đình, làm công việc nội trợ, vai trò này hầu như của người phụ nữ.

- Vai trò cộng đồng: Thể hiện những hoạt động tham gia thực hiện ở
mức cộng đồng nhằm duy trì và phát triển các nguồn lực cộng đồng để thực
hiện các nhu cầu, mục tiêu chung của cộng đồng.

2.1.2. Khái niệm về phát triển và phát triển kinh tế, nông thôn
*Phát triển: Là quá trình thay đổi toàn diện nền kinh tế, bao gồm sự
tăng thêm về quy mô sản lượng, cải thiện về cơ cấu, hoàn thiện thể chế nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống [10].
* Phát triển kinh tế: Có thể hiểu là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền
kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về
quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội.
Khái niệm về nông thôn: Nông thôn là phần lãnh thổ của một Nhà nước
hay một đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên,
hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác biệt với thành thị và dân cư chủ
yếu làm nông nghiệp [23].
Theo khái niệm về xây dựng nông thôn mới, nông thôn được định nghĩa
thống nhất như sau: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội
thị của các thành phố, thị xã, thị trấn hay phường, được quản lý bởi cấp quản
lý cơ sở là Ủy ban nhân dân xã”.
2.1.3. Khái niệm, đặc điểm hộ gia đình, kinh tế hộ nông dân, kinh tế nông thôn
* Hộ gia đình: Có ba tiêu thức chính thường được nói đến khi định
nghĩa khái niệm hộ gia đình:
- Có quan hệ huyết thống và hôn nhân
- Cùng cư trú

- Có cơ sở kinh tế chung [22].
Về phương diện thống kê, các nhà nghiên cứu Liên hợp quốc cho rằng
hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có
chung một ngân quỹ [22].

8
Đại đa số các hộ ở Việt Nam đều gồm những người có quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống. Vì vậy khái niệm hộ thường được hiểu đồng nghĩa
với gia đình, nhiều khi được gộp thành khái niệm chung là hộ gia đình.
* Kinh tế hộ nông dân:
Theo Frank Ellis (1988) thì kinh tế hộ nông dân là: Các nông hộ thu
hoạch các phương tiện sống từ đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong
sản xuất nông trại, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản
được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với
một trình độ không hoàn chỉnh cao [22].
Kinh tế hộ nông dân được phân biệt với các hình thức kinh tế khác
trong nền kinh tế thị trường bởi các đặc điểm sau:
* Đất đai: Nghiên cứu hộ nông dân là nghiên cứu những người sản xuất
tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai.
* Lao động: Sản xuất chủ yếu là do các thành viên trong hộ tự đảm
nhận. Sức lao động của các thành viên trong hộ không được xem là lao động

dưới hình thức hàng hoá, hộ không có khái niệm tiền công, tiền lương.
* Tiến vốn: Chủ yếu do họ tự tạo ra từ sức lao động của họ.
Mục đích chủ yếu của sản xuất trong hộ nông dân là đáp ứng cho nhu cầu tiêu
dùng trực tiếp của hộ, sau đó phần dư thừa mới bán ra thị trường
2.2. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn
Vị trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội
Trên toàn thế giới, phụ nữ đóng vai trò then chốt trong gia đình về khả
năng sản xuất và tái sản xuất. Họ chiếm trên 50% trong tổng số lao động; số

giờ lao động của họ chiếm 2/3 tổng giờ lao động của xã hội và sản xuất ra 1/2
trong tổng sản lượng nông nghiệp. Cùng với việc đảm nhiệm nhiều công việc
khác nhau, lao động nữ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ với trình độ không ngừng được nâng cao.
Theo kết quả của những công trình nghiên cứu trước cho biết: Phụ nữ là
người tạo ra phần lớn thực tiêu dùng cho gia đình. 1/4 số hộ gia đình trên thế
giới do nữ làm chủ hộ và nhiều hộ gia đình khác phải phụ thuộc vào thu nhập
của lao động nữ [3]. Tuy vậy, sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại ở rất nhiều

9
nước trên thế giới. Đặc biệt là ở các vùng nông thôn, phụ nữ bị hạn chế về
mọi mặt, đời sống, điều kiện sống và làm việc tồi tàn, địa vị trong xã hội thấp.
Trong số hơn 1,3 tỷ người trên thế giới ở trong tình trạng nghèo khổ thì đến
70% là nữ. Có ít nhất 1/2 triệu phụ nữ tử vong do các chứng về mang thai,
sinh đẻ,
Việt Nam ngày nay, phụ nữ chiếm trên 50% dân số và gần 50% lực
lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy
Nhà nước. Hiện có tới 27,3% đại biểu nữ trong Quốc hội (cao nhất ở Châu Á)
là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới); tỷ lệ
nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sỹ 33,95%; tiến sỹ 25,69%. Nghĩa vụ
công dân và thiên chức làm vợ, làm mẹ của phụ nữ được thực hiện tốt là một
trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự ổn định và phát triển lâu dài
của đất nước. Ngày càng có nhiều phụ nữ thành đạt trong các lĩnh vực kinh tế,
khoa học, chính trị và xã hội. Điều đó cho thấy phụ nữ ngày càng có vai trò
quan trọng hơn trong các lĩnh vực của xã hội.
Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế nông thôn
Phụ nữ luôn là người đóng vai trò then chốt trong gia đình về khả năng
sản xuất và tái sản xuất. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã đem lại cho xã hội
nguồn nhân lực, trí lực dồi dào và ngày càng phát triển. Vai trò của phụ nữ

trong sự phát triển kinh tế nông thôn thể hiện như sau:
- Trong lao động sản xuất: Phụ nữ là người làm ra phần lớn lương thực,
thực phẩm tiêu dùng cho gia đình. Đặc biệt các hộ nghèo sinh sống chủ yếu
dựa vào kết quả làm việc của phụ nữ.

- Ngoài việc tham gia vào lao động sản xuất đóng góp thu nhập cho gia
đình, phụ nữ còn đảm nhận chức năng người vợ, người mẹ. Họ phải làm hầu
hết các công việc nội trợ chăm sóc con cái, các công việc này rất quan trọng
đối với sự tồn tại, phát triển của gia đình và xã hội.
- Trong sinh hoạt cộng đồng: Phụ nữ tham gia hầu hết các hoạt động
cộng đồng tại xóm, thôn bản.

Như vậy, dù được thừa nhận hay không thừa nhận, thực tế cuộc sống và

10
những gì phụ nữ làm đã khẳng định vai trò và vị trí của họ trong gia đình,
trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong bước tiến của nhân
loại. Phụ nữ cùng lúc phải thực hiện nhiều vai trò, cho nên họ cần được chia
sẻ, thông cảm cả về hành động lẫn tinh thần, gia đình và xã hội cũng cần có
những trợ giúp để họ thực hiện tốt hơn vai trò của mình.
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế nông thôn
* Quan niệm về giới, những phong tục tập quán ở Việt Nam và một số
nước Á Đông: Phụ nữ trước hết phải lo việc gia đình, con cái. Dù làm bất kỳ
công việc gì, thì việc nội trợ vẫn là trách nhiệm của họ, đây là một quan niệm
ngự trị ở nước ta từ nhiều năm nay. Sự tồn tại những hủ tục lạc hậu, trọng
nam khinh nữ đã kìm hãm tài năng sáng tạo của phụ nữ, hạn chế sự cống hiến
của họ cho xã hội và cho gia đình. Việc mang thai, sinh đẻ, nuôi dưỡng con
nhỏ và làm nội trợ gia đình đè nặng lên đôi vai người phụ nữ. Đây là trở ngại
lớn cho họ tập trung sức lực, thời gian, trí tuệ vào sản xuất và các hoạt động

chính trị, xã hội. Vì vậy nhiều chị em trở nên không mạnh bạo, không năng
động sáng tạo bằng nam giới và gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp xã hội.
Phong tục tập quán là một nguyên nhân cơ bản cản trở phụ nữ tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế [7].
* Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật của lao động nữ
còn nhiều hạn chế: Ở nông thôn, đặc biệt là miền núi phương tiện thông tin
nghe nhìn và sách báo đến với người dân còn rất nhiều hạn chế, do vậy việc
lao động nữ tiếp cận và nắm bắt các thông tin kỹ thuật về chăn nuôi, trồng trọt
còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài thời gian lao động sản xuất, người phụ nữ
dường như ít có thời gian dành cho nghỉ ngơi hoặc hưởng thụ văn hoá tinh
thần, học hỏi nâng cao hiểu biết kiến thức xã hội mà họ phải giành phần lớn
thời gian còn lại cho công việc gia đình. Do vậy, phụ nữ bị hạn chế về kỹ
thuật chuyên môn và sự hiểu biết xã hội. Phụ nữ ở độ tuổi lao động có trình
chuyên môn kỹ thuật là 6%, còn ở nam giới tỷ lệ này là 10%. Theo thông báo
của Liên hiệp quốc thì hiện nay trên thế giới còn hơn 840 triệu người bị mù
chữ, trong đó nữ giới chiếm 2/3; trong số hơn 180 triệu trẻ em không được đi

11
học thì có tới 70% là trẻ em gái. Còn ở Việt Nam, theo thống kê cho thấy tỷ lệ
lao động nữ không qua đào tạo là rất cao, chiếm gần 90% tổng số lao động
không qua đào tạo trong cả nước; chỉ có 0,63% công nhân kỹ thuật có bằng là
nữ, trong khi chỉ tiêu này của nam giới là 3,46%. Tỷ lệ lao động nữ có trình
độ đại học và trên đại học 0,016%, tỷ lệ này ở nam giới là 0,077% (gấp 5 lần
so với nữ giới) [12]. Điều đó cho thấy trình độ học vấn và chuyên môn nghề
nghiệp của phụ nữ là rất thấp và thấp hơn so với nam giới. Phụ nữ bị hạn chế
về kỹ thuật, chuyên môn và sự hiểu biết nên gặp không ít khó khăn trong việc
nắm bắt kiến thức pháp luật, tìm nguồn vốn, tìm kiếm thị trường khó khăn
trong việc tiếp cận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời
sống. Do vậy, hiệu quả công việc và năng suất lao động của họ thấp.
* Yếu tố về sức khoẻ: Với phụ nữ nông thôn vừa phải lao động nặng vừa

phải thực hiện thiên chức của mình là phải mang thai, sinh con và cho con bú
bằng bầu sữa của mình, cùng với điều kiện sinh hoạt thấp kém đã làm cho sức
khoẻ của họ bị giảm sút. Điều này không những ảnh hưởng đến khả năng lao
động mà còn làm vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng như trong việc phát
triển kinh tế gia đình trở nên thấp hơn.
* Khả năng tiếp nhận thông tin: Do phụ nữ phải đảm nhận một khối
lượng công việc lớn nên cơ hội để họ giao tiếp rộng rãi, tham gia hoạt động
cộng đồng để nắm thông tin rất hiếm. Ở nhiều vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh
người dân còn chưa hề được tiếp xúc với báo chí và các hình thức truyền tải
thông tin khác.
* Các yếu tố chủ quan: Một yếu tố khác không thể không nhắc đến đó
nguyên nhân chủ quan do chính phụ nữ gây ra, đó chính là quan niệm lệch lạc
về giới, ngay cả phụ nữ cũng có cái nhìn không đúng về những vấn đề đó. Họ
cũng cho rằng, những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con cái,… là việc
của phụ nữ. Họ tỏ ra không hài lòng về người đàn ông thạo việc bếp núc, nội
trợ. Trong khi họ lên tiếng đòi quyền bình đẳng thì họ vô tình ràng buộc thêm
trách nhiệm cho mình. Vậy nên, toàn bộ công việc gia đình, sản xuất càng đè
nặng lên đôi vai phụ nữ khiến họ mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần. Ta có
thể khẳng định rằng, phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển của

12
nhân loại. Song có nhiều nguyên nhân gây cản trở sự tiến bộ của họ trong
cuộc sống. Các yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động không tốt khiến
cho phụ nữ đặc biệt là phụ nữ nông thôn bị lâm vào vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói và bất bình đẳng. Vì vậy, cần phải tiến tới quyền bình đẳng đối với
nữ trên toàn thế giới. Bình đẳng nam nữ nhằm giải phóng sức lao động xã hội,
xây dựng và củng cố thêm nền văn minh nhân loại.
2.4. Thực trạng vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam
Khái quát về thực trạng vai trò của phụ nữ ở một số nước trên thế giới:
Tại Châu Phi, Châu Á và Thái Bình Dương, trung bình một tuần phụ nữ làm

việc nhiều hơn nam giới 12 - 13 giờ và có ít thời gian để nghỉ ngơi hơn. Hầu
hết mọi nơi trên thế giới, phụ nữ được trả công thấp hơn nam giới cho cùng
một loại công việc. Thu nhập của phụ nữ bằng khoảng 50% - 90% thu nhập
của nam giới [5].
* Phụ nữ chiếm một tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động: Tỷ lệ nữ
tham gia hoạt động kinh tế theo các nhóm tuổi rất cao. Một số tài liệu thống
kê sau đây sẽ chứng minh cho nhận định đó:
Bangladesh: Có 67,3% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động
so với 82,5% nam giới. Tỷ lệ này của phụ nữ nông thôn cao gấp 2 lần phụ
nữ thành thị (28,9%). Theo nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
nhiều nhất ở độ tuổi 30 - 49, tiếp đó là các nhóm tuổi 25 - 29, 50 - 54. Đáng
chú ý rằng, gần 61% phụ nữ nông thôn ở độ tuổi 60 - 64 vẫn tham gia lực
lượng lao động, cao gần gấp 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi. Đặc biệt
phụ nữ nông thôn trên 65 tuổi vẫn có 36% tham gia lực lượng lao động [7].
Trung Quốc: Nhóm phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động cao
nhất từ 20 - 29 tuổi, tiếp đó là nhóm 30 - 39 tuổi, và giảm dần theo các nhóm tuổi
cao hơn. Giống như ở Bangladesh, ở nông thôn Trung Quốc phụ nữ ở độ tuổi 60 -
64 vẫn còn 32,53% tham gia lực lượng lao động, con số này cao gấp 2 lần phụ nữ
thành thị cùng nhóm tuổi [7].
Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp: Nhìn chung, trình độ chuyên môn
kỹ thuật của lao động nữ nông thôn ở các nước đang phát triển còn rất thấp. ở
các nước đang phát triển cho đến nay có tới 31,6% lao động nữ không được

13
học hành, 5,2% mới chỉ học xong phổ thông và 0,4% mới tốt nghiệp cấp hai.
Ít có điều kiện học hành nên những người phụ nữ này không có điều kiện tiếp
cận một cách bài bản với các kiến thức về công nghệ trồng trọt và chăn nuôi
theo phương thức tiên tiến, những kiến thức họ có được chủ yếu là do tự học
từ họ hàng, bạn bè hay từ kinh nghiệm của những người thân của mình. Một
hạn chế lớn là những loại kinh nghiệm được truyền đạt theo phương pháp này

thường ít khi làm thay đổi được mô hình, cách thức sản xuất của hộ [7].
* Bắt bình đẳng giới mang tính phổ biến: Bất bình đẳng giới tồn tại ở
hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó trước hết bắt nguồn từ tình trạng
phụ nữ có trình độ học vấn thấp. Một nguyên nhân khác không kém phần
quan trọng là những định kiến xã hội không coi trọng phụ nữ đã được hình
thành ở hầu hết các nước đang phát triển. Do vậy, ngay cả khi phụ nữ có bằng
cấp cao và kỹ năng tốt thì những công việc họ làm vẫn không được ghi nhận
một cách xứng đáng. Đấu tranh để đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và
nữ trong xã hội ta nói riêng và trên thế giới nói chung là vấn đề lâu dài và còn
nhiều khó khăn, thử thách. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái
tiến bộ và lạc hậu. Đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm phong kiến, tư
tưởng “Trọng nam khinh nữ” vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận
dân chúng, nhất là ở những vùng, miền còn nặng nề về hủ tục lạc hậu,…
Ngay tại các bộ, ngành và những đơn vị hành chính, kinh tế lớn, vấn đề bình
đẳng giới vẫn còn gặp những khó khăn nhất định. Việc bồi dưỡng phát triển
cán bộ nữ có lúc, có nơi còn bị hạn chế, một số đơn vị kinh tế thậm chí không
muốn nhận lao động nữ,… Như vậy, mặc dù đã đạt được những thành quả
nhất định nhưng vấn đề bình đẳng về giới vẫn còn những bất cập mà chúng ta
còn phải tiếp tục phấn đấu để đạt được mục tiêu bình đẳng thật sự.
2.5. Thực trạng phụ nữ nông thôn Việt Nam và vai trò của phụ nữ trong
phát triển kinh tế nông thôn
Thực trạng phụ nữ Việt Nam: Là một nước có nền công nghiệp chưa
phát triển, Việt Nam hiện có khoảng gần 80% số người trong độ tuổi lao động
sống ở nông thôn, trong đó phụ nữ chiếm trên 50%, nhưng họ là nhóm người
yếu thế và thiệt thòi nhất trong xã hội, không được như đội ngũ công nhân, trí

14
thức, phụ nữ nông thôn bị hạn chế bởi trình độ nhận thức. Nhưng họ lại là lực
lượng chính tham gia vào hầu hết các khâu trong sản xuất nông nghiệp như:
Cấy lúa, nhổ mạ, chăm sóc cây lúa, sát gạo [6].

Hiện tượng tăng tương đối của lực lượng lao động nữ nông thôn những
năm gần đây là do một số nguyên nhân chính sau: Do sự gia tăng tự nhiên số
người trong độ tuổi lao động, hiện nay hàng năm nước ta có khoảng 80 - 90
vạn người bước vào tuổi lao động, trong đó: Lao động nữ chiếm 55%.
Do quá trình chuyển đổi cớ chế quản lý kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu tổ
chức của các ngành doanh nghiệp, đa số lao động nữ ở các cơ quan, xí nghiệp
bị giảm biên chế, không có việc làm phải quay về nông thôn làm việc.
Do sự tan rã của thị trường Đông Âu, Nga vào đầu những năm 90, khiến
cho các nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt Nam mất nguồn tiêu thụ
hàng hoá, đa số phụ nữ làm nghề này lại chuyển về làm nghề nông nghiệp.
Ngoài ra, trong cơ chế thị trường, do sức cảnh tranh yếu nên nhiều hợp
tác xã thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn cũng lâm vào tình trạng phá
sản. Kết quả là công nhân chủ yếu là nữ công nhân thuộc các hợp tác xã thủ
công này phải trở về nghề nông.
*Vai trò và những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong phát triển kinh
tế - xã hội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, vấn đề giải phóng
phụ nữ luôn gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Quyền bình đẳng của phụ nữ đã được ghi trong Điều 36 Hiến pháp Việt Nam
năm 1946, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi và bổ sung năm 2002) một
lần nữa khẳng định: "Công dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính
trị, kinh tế, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ
nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã
hội". Trên tinh thần đó, các tầng lớp phụ nữ đã tích cực học tập, lao động sáng
tạo, họ tham gia vào tất cả các lĩnh vực và giữ vị trí quan trọng.
Phụ nữ trong hệ thống dân cử:
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm của phụ nữ trong xã hội và trong
quản lý Nhà nước. Chỉ thị 37 - CT/TW ngày 16/5/1994 khẳng định "nâng cao
tỷ lệ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế là một yêu cầu quan trọng

15

thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài
năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ" [2]. Nước ta được đánh giá là số
đại biểu nữ cao trong Quốc hội, đứng đầu Châu Á và đứng thứ hai khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương và xếp thứ 9/135 các nước trên thế giới. Trong
chặng đường 60 năm, Quốc hội nước ta đã trải qua 12 nhiệm kỳ, đội ngũ cán
bộ nữ trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Số lượng nữ ĐBQH khá cao
từ 24 - 27%, Khóa X là 26,22%, khóa XI là 27,31%. Trong Khóa XIII tỷ lệ nữ
ĐBQH là 24,4%, đứng thứ 2 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chất
lượng nữ ĐBQH ngày một nâng lên, các nữ ĐBQH Việt Nam đã và đang
tham gia tích cực các hoạt động của Quốc hội và đóng góp quan trọng vào sự
phát triển KT - XH của đất nước [11].
Phụ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng:
Trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, tỷ lệ phụ nữ trong các cấp uỷ tăng
lên không đáng kể. So với các cấp, số lượng phụ nữ tham gia Ban chấp hành
Trung Ương Đảng chiếm tỷ lệ thấp nhất, khoá VII có 12 đồng chí, khoá VIII
tăng lên là 18 đồng chí nhưng đến khoá IX lại còn 12 đồng chí, khóa XI có 18
ủy viên nữ trong tổng số 200 ủy viên - chiếm 9%. Năm 2012, tỷ lệ nữ Đảng
viên trên cả nước đạt 32%, tăng đáng kể so với năm 2005 chỉ có 20% Đảng
viên nữ [11].
Phụ nữ tham gia các cấp chính quyền:
Trong những năm gắn đây, tỷ lệ lãnh đạo nữ ở cấp Trung ương thấp.
Năm 2008, tỷ lệ phó chủ tịch nước là 25%, bộ trưởng là 4,55%, tế tương
đương Bộ trưởng là 11,43%, Thứ trưởng 2,75%, tương đương thứ Trưởng là
9,21%, vụ trưởng và tương đương là 20,74% [11].
Tỷ lệ nữ là chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/thành nhiệm kỳ 1999 -
2004 chỉ có 1,64%, đến nhiệm kỳ 2004 - 2009 tăng lên là 3,12%, nhưng ở cấp
huyện lại có xu hướng giảm, từ 5,27% ở cả 2 cấp giảm xuống còn 3,62% [12].
Hiện nay, số cán bộ công chức nữ tham gia công tác quản lý nhà nước trong
hệ thống chính quyền các cấp nhiều hơn so với trước. Tuy nhiên, tỷ lệ nữ
tham gia lãnh đạo ở cấp bộ, vụ còn thấp, mới khoảng 8 - 15%, chưa tương

xứng lực lượng lao động và năng lực đóng góp của phụ nữ.

16
Trong các doanh nghiệp:
Trong hơn 300 nghìn doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp,
có 15% phụ nữ đứng đầu hoặc nắm cương vị chủ chốt. Tỷ lệ phụ nữ làm quản
lý doanh nghiệp ở một sự ngành dệt, may mặc, giầy dép, thực phẩm,… chiếm
hơn 50%, ở các ngành giao thông, vận tải, xây dựng, khai khoáng,… chiếm
20%. Trong 900 nghìn hộ kinh doanh gia đình có 27% phụ nữ điều hành [12].
Bên cạnh việc tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, phụ nữ
Việt Nam còn luôn cố gắng làm tròn nhiệm vụ người vợ, người mẹ gánh vác
công việc nội trợ. Trong hoàn cảnh còn thiếu thốn, phụ nữ nông thôn phải lo
cho gia đình đủ cơm ăn, con cái được học hành và khoẻ mạnh. Người phụ nữ
còn là người giữ gìn, truyền thụ những giá trị văn hoá nét đẹp của dân tộc ta
từ thế hệ này sang thế hệ khác, gia đình Việt Nam đến nay vẫn giữ được
truyền thống tốt đẹp là do công lao to lớn của người phụ nữ.
* Đường lối, chủ trương của Ðảng và Nhà nước Việt Nam đối với phụ nữ:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng đến việc giải phóng phụ nữ.
Bác nhấn mạnh: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng được
một nửa loài người”. Người cho rằng, muốn giải phóng phụ nữ trước hết phải
giải phóng họ ra khỏi sự trói buộc của tư tưởng trọng nam khinh nữ, ra khỏi
sự bất công trong gia đình mình cũng như xã hội, đồng thời nâng cao vị thế
của họ trong xã hội. Thế nên, Người đã yêu cầu các ngành, các địa phương
phải tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, để
phụ nữ phát huy quyền và khả năng công dân của mình
Tiếp tục kế thừa và phát huy tư tưởng của người, Đảng và Nhà nước ta
ban hành và thực hiện không ít những quyết sách mang tính chiến lược đối với
vấn đề phụ nữ như: Nghị quyết số 04 - NQ/TW, ngày 12/4/1993 của Bộ Chính
trị “Về đổi mới và tăng cường vận động phụ nữ trong tình hình mới ”; Chỉ thị
số 37 - CT/TW, ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII

“Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới ”. Năm 1995, Tại
Hội nghị lần thứ IV về phụ nữ của Liên Hợp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh (Trung
Quốc), các quốc gia đã nhất trí thông qua Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ
của phụ nữ đến năm 2000, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ và tăng cường quyền lực

×