Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra ở lợn nuôi tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên và đề xuất biện pháp phòng chống.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.77 KB, 70 trang )




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
  



NGUYỄN THỊ PHƯƠNG



Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH DO ẤU TRÙNG
CYSTICERCUS TENUICOLLIS GÂY RA Ở LỢN NUÔI TẠI THÀNH
PHỐ THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Hệ đào tạo : Hệ chính quy
Lớp : 42B - CNTY
Chuyên ngành : Chăn nuôi Thú y


Khoa : Chăn nuôi Thú y
Khoá học : 2010 – 2014




Thái Nguyên, năm 2014




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
  




NGUYỄN THỊ PHƯƠNG



Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH DO ẤU TRÙNG
CYSTICERCUS TENUICOLLIS GÂY RA Ở LỢN NUÔI TẠI THÀNH
PHỐ THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Hệ chính quy
Lớp : 42B - CNTY
Chuyên ngành : Chăn nuôi Thú y
Khoa : Chăn nuôi Thú y
Khoá học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thu Trang




Thái Nguyên, năm 2014




LỜI CẢM ƠN

Sau quá trình học tập tại trường và thực tập tốt nghiệp tại cơ sở, đến
nay em đã hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp này.
Qua đây em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm Khoa Chăn
Nuôi Thú y, cùng các thầy cô giáo trong khoa, đã tận tình dìu dắt, giúp đỡ em
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Với lòng biết ơn chân thành, em gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo
ThS.Nguyễn Thu Trang đã chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bản
khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới tập thể cán bộ nhân viên, ban lãnh đạo, cán
bộ kỹ thuật và các anh, chị tại Trạm thú y thành phố Thái Nguyên đã tạo điều

kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại cơ sở.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã động viên, cổ
vũ em trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Em xin chúc các thầy giáo, cô giáo luôn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và
thành đạt trong cuộc sống, có nhiều thành công trong giảng dạy và nghiên cứu
khoa học.
Trong quá trình viết khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em
kính mong sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy cô để khóa luận của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên,ngày 31 tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thị Phương



MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Mục đích nghiên cứu: 3
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
1.4.1. Ý nghĩa khoa học 3
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
2.1.1. Đặc điểm của ấu trùng Cysticercus tenuicollis 4
2.1.2. Đặc điểm sinh học của sán dây ký sinh ở chó 5

2.1.3. Đặc điểm dịch tễ học bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis và bệnh
do sán dây chó gây ra 18
2.1.4. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis
gây ra 21
2.1.5. Chẩn đoán bệnh sán dây chó và bệnh Cysticercus tenuicollis 23
2.1.6. Phòng, trị bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra 25
2.2.Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 26
2.2.1.Tình hình nghiên cứu trong nước 26
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 28
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 30
3.1. Đối tượng, vật liệu, thời gian, địa điểm nghiên cứu 30
3.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 30
3.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 30
3.2. Nội dung nghiên cứu 31
3.2.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis
gây ra ở lợn nuôi tại một số xã, phường thuộc thành phố Thái Nguyên, tỉnh
Thái Nguyên 31
3.2.2. Sự thay đổi một số chỉ số huyết học của lợn bị nhiễm ấu trùng
Cysticercus tenuicollis 32
3.2.3. Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis
gây ra 32
3.3. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu 32
3.3.1. Bố trí điều tra và phương pháp xác định tình hình nhiễm ấu trùng
Cysticercus tenuicollis ở lợn 32
3.3.2. Bố trí điều tra và phương pháp xác định tình hình nhiễm sán dây ở chó 33
3.3.3. Phương pháp nghiên cứu và xác định tương quan giữa tỷ lệ nhiễm ấu
trùng Cysticercus tenuicollis ở lợn và tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia hydatigena
ở chó 35
3.3.4. Phương pháp bố trí và xét nghiệm máu của lợn bị nhiễm ấu trùng

Cysticercus tenuicollis và lợn khỏe 35
3.4. Phương pháp xử lý số liệu 35
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra ở lợn tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên 36
4.1.1. Tình hình nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở lợn tại thành phố
Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
36

4.2. Sự thay đổi một số chỉ số huyết học của lợn nhiễm ấu trùng Cysticercus
tenuicollis 39
4.2.1. Số lượng hồng cầu, bạch cầu, hàm lượng huyết sắc tố, tỷ khối hồng cầu,
sức đề kháng của hồng cầu ở lợn khỏe và lợn bệnh 49
4.2.2. Công thức bạch cầu của lợn khỏe và lợn bệnh 51
4.3. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây
ra cho lợn 54
PHẦN 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 56
5.1. Kết luận 56
5.2. Tồn tại 57
5.2. Đề nghị 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 58
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 58
II. TÀI LIỆU DỊCH TỪ TIẾNG NƯỚC NGOÀI 60
III. TÀI LIỆU TIẾNG ANH 60


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis 36


Bảng 4.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở lợn
theo tuổi 39

Bảng 4.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở lợn
theo tính biệt 40

Bảng 4.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis 42

Bảng 4.5. Thành phần và sự phân bố các loài sán dây ký sinh ở chó nuôi
tại thành phố Thái Nguyên 44

Bảng 4.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây ở chó 45

Bảng 4.7. Tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia hydatigena ở chó (qua
mổ khám) và tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở lợn 47

Bảng 4.8. Sự thay đổi một số chỉ số huyết học của lợn khỏe và lợn bệnh 49

Bảng 4.9. Công thức bạch cầu của lợn khỏe và lợn bệnh 52


ơ
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 4.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis tại các địa phương 38

Hình 4.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis ở lợn theo tuổi 40

Hình 4.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis theo tính biệt 41


Hình 4.4. Biểu đồ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis theo tháng 43

Hình 4.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia hydatigena 46

ở chó tại các địa phương. 46

Hình 4.6. Biểu đồ về tính tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia
hydatigena ở chó và tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis . 48

Hình 4.7. Biểu đồ sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của lợn khỏe và lợn
bệnh 51

Hình 4.8. Biểu đồ công thức bạch cầu của lợn khỏe và lợn bị bệnh
Cysticercus tenuicollis 54


1




PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh sán dây là một bệnh rất phổ biến ở đàn chó nước ta. Ấu trùng một
số loài sán dây ký sinh và gây bệnh trên người và nhiều loài gia súc khác - ký
chủ trung gian của sán dây, gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi cũng
như sức khoẻ con người. Một trong những ấu trùng đó là Cysticercus
tenuicollis, đây là ấu trùng của sán dây Taenia hydatigena, gây bệnh trên lợn,
dê, cừu, trâu, bò, thỏ, ngựa, kể cả con người.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [11] cho biết, ấu trùng Cysticercus

tenuicollis ký sinh trên bề mặt các khí quan trong xoang bụng của vật chủ và
gây bệnh. Ấu trùng là những bọc nước mang đầu sán dây Taenia hydatigena,
có kích thước to, nhỏ không đều nhau bám ở bề mặt màng treo ruột, lách, gan,
thận, phổi Vì thế, trong quá trình giết mổ, có thể dễ nhầm lẫn ấu trùng với
các bọc nước bình thường, từ đó không có biện pháp tiêu diệt ấu trùng, làm
tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh cho người và gia súc.
Theo Phạm Sỹ Lăng (2002) [12], bệnh phân bố ở khắp các vùng, đặc
biệt là những nơi nuôi nhiều chó và giết mổ gia súc bừa bãi, không kiểm soát
chặt chẽ vệ sinh thú y. Tỷ lệ nhiễm bệnh tăng dần theo tuổi do thời gian và cơ
hội tiếp xúc với ấu trùng tăng dần.
Khi bị nhiễm ấu trùng, vật chủ có thể có một số triệu chứng như gầy
yếu dần, đau bụng, bụng căng to, ấn vào vùng bụng con vật có cảm giác đau,
nếu nhiễm nặng có thể hoàng đản da và niêm mạc. Vật chủ có thể chết do
thiếu máu, nội quan bị huỷ hoại hoặc do các bệnh kế phát.
Hiện nay, bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra chưa có thuốc
điều trị đặc hiệu, chủ yếu chỉ điều trị triệu chứng. Ngoài ra, việc chẩn đoán
bệnh đối với con vật còn sống rất khó khăn do triệu chứng bệnh không điển
2

hình. Đặc biệt, không thể tìm ấu trùng bằng cách xét nghiệm phân do ấu trùng
ký sinh trên bề mặt các khí quan trong xoang bụng.
Những năm gần đây, chó vẫn được nuôi phổ biến ở nhiều tỉnh, thành
trong cả nước, trong đó có tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên, chó thường được
nuôi theo phương thức thả rông, nếu chó bị nhiễm sán dây thì rất dễ phát tán
mầm bệnh, làm cho người và các vật nuôi khác dễ nhiễm và mắc bệnh ấu
trùng Cysticercus tenuicollis. Đặc biệt, việc đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú y
trong giết mổ chó cũng như các loài gia súc khác tại tỉnh Thái Nguyên vẫn
chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng chó thải phân bừa bãi còn phổ biến
khiến nguy cơ lây nhiễm bệnh ấu sán trên vật nuôi là khá cao, đồng thời thực
trạng giết mổ trâu, bò, lợn, dê như hiện nay khiến nguy cơ chó nhiễm sán dây

cũng tăng lên.
Những vấn đề trên cho thấy, việc tìm hiểu đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu
trùng Cysticercus tenuicollis gây ra ở một số loài vật nuôi chính, để từ đó xây
dựng các quy trình phòng chống thích hợp là hết sức cần thiết. Nghiên cứu này
không những góp phần hạn chế tỷ lệ nhiễm sán dây ở chó, mà còn góp phần
phòng chống bệnh ấu trùng sán dây cho người và một số loài vật nuôi khác.
Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành đề tài: "Nghiên cứu
đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra ở lợn nuôi
tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên và đề xuất biện pháp phòng
chống".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được các đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra ở lợn nuôi tại thành phố Thái Nguyên. Sự thay đổi chỉ
tiêu huyết học của lợn khi nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis. Đề xuất
biện pháp phòng chống.
3

1.3. Mục đích nghiên cứu:
Làm sáng tỏ những thông tin về bệnh do ấu trùng Cysticercus
tenuicollis gây ra ở lợn, có cơ sở khoa học từ đó xây dựng được quy trình
phòng chống bệnh đạt hiệu quả cao.
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ
bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra ở lợn tại thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, về quy trình phòng chống bệnh hiệu quả, có một
số đóng góp mới cho khoa học.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi áp
dụng quy trình phòng, trị bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis gây ra,

nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm, hạn chế thiệt hại do bệnh gây ra. Góp
phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn phát triển.

4


PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Đặc điểm của ấu trùng Cysticercus tenuicollis
Theo Johannes Kaufmann (1996) [35], ấu trùng Cysticercus tenuicollis
ký sinh ở bề mặt gan, mỡ màng chài ở khoang bụng của cừu và gia súc. Gia súc
nhiễm ấu sán thường không có biểu hiện triệu chứng bệnh, trừ khi nhiễm một
số lượng lớn ấu trùng ở nhu mô gan, tình trạng thiếu máu và chết có thể xảy ra.
Ấu trùng Cysticercus tenuicollis ký sinh trên bề mặt gan, lách, màng treo
ruột, màng mỡ chài… của gia súc (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008 [9]).
Theo Nguyễn Thị Lê (1996) [15], ấu trùng Cysticercus tenuicollis là
những dạng hình túi có cổ mỏng, kích thước 8 – 80 x 8 – 100 mm, chứa dịch
bên trong. Thành bên trong túi có một đầu sán dây có cổ.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] cho biết, ấu trùng Cysticercus
tenuicollis là một bọc có kích thước to nhỏ khác nhau, có thể bằng hạt đậu, quả
cam hoặc quả bưởi, trong bọc có nhiều nước. Có một đầu sán bám vào màng
trong của bọc, đầu sán có 4 giác bám, có 29 – 44 móc.
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] cho biết: căn bệnh là ấu trùng
Cysticercus tenuicollis ký sinh ở gan, màng mỡ chài, màng treo ruột, lách của
lợn, dê, cừu, bò, hươu, đôi khi thấy ở ngựa, người. Kích thước ấu trùng khác
nhau, có khi bằng hạt đậu, quả cam, hoặc to hơn, có hình bọc, bên ngoài là
mô liên kết, bên trong chứa thể dịch trong và một đầu sán trưởng thành, lộn ra
phía ngoài. Ở những vùng nuôi nhiều chó tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus
tenuicollis ở trâu, bò, dê, lợn càng nhiều. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng tăng dần theo

tuổi, điều này được các tác giả lý giải do thời gian tiếp xúc với căn bệnh tăng.
Tình hình nhiễm ấu trùng Cysticercus tenuicollis của lợn và các động vật
khác phụ thuộc vào số chó nhiễm sán trưởng thành. Lợn nuôi gần với chó dễ
nhiễm ấu trùng hơn, còn trâu, bò thả trên bãi chăn nhiễm ít hơn.
5

2.1.2. Đặc điểm sinh học của sán dây ký sinh ở chó
2.1.2.1. Vị trí của sán dây chó trong hệ thống phân loại động vật học
Việc nghiên cứu sán dây ở Việt Nam được bắt đầu từ hơn 1 thế kỷ trước.
Năm 1870, Cande J. lần đầu tiên mô tả loài sán dây Diphyllobothrium latum tìm
thấy ở người Nam Bộ (Việt Nam). Sau đó 10 năm mới xuất hiện các công trình
nghiên cứu lẻ tẻ về một vài loài sán dây gây bệnh cho người. Từ đó, việc nghiên
cứu về thành phần sán dây ở người được chú ý hơn, rồi mở rộng phạm vi nghiên
cứu sang một số động vật nuôi và một số động vật hoang dã.
Năm 1914, Casaux đã phát hiện được ở gan người hai nang sán Cysticercus
tenuicollis của loài sán Taenia hydatigena ký sinh ở chó.
Cho đến nay các hệ thống phân loại sán dây đã trải qua nhiều thay đổi, song
dường như vẫn chưa được thống nhất và ổn định (Nguyễn Thị Kỳ, 2003 [7]).
Faust E. C. và cs (1929) [32] đã lập nên một phân giống là Spirometra
trong giống Diphyllobothrium. Muller (1935) [38] đã mô tả loài Diphyllobothrium
mansonoides trên mẫu vật tìm được từ chó và mèo ở vùng Syracus (New York).
Đến năm 1937 Muller đề xuất giống Spirometra và thống nhất đổi tên loài
Diphyllobothrium mansonoides thành loài Spirometra mansonoides.
Rudolphi (1918) đã phát hiện ấu trùng của sán dây loài Spirometra
ericnaice trên loài nhím ở châu Âu. Faust E. C. và cs (1929) [32] cũng đã
phát hiện ấu trùng loài này trên nhím ở Trung Quốc và dạng sán trưởng
thành ở chó. Khi nghiên cứu về hệ enzym của loài Spirometra erinacei ở
Nhật Bản và ở Australia, Fukumoto S. và cs (1992) [33] nhận xét rằng hai
loài sán này là giống nhau.
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [23], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6], (2003)

[7], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15], hệ thống phân loại sán dây của Việt Nam
đã lựa chọn hệ thống phân loại của Schulz và Gvozdev (1970), để sắp xếp các
loài sán dây phát hiện được ở người, chim, thú nuôi và hoang dại ở Việt Nam.
Trong đó, sán dây ký sinh ở chó có vị trí như sau:
6

Ngành sán dẹp (Plathelminthes)
Lớp Cestoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Eucestoda Southwell, 1930
Bộ Pseudophyllidea Carus, 1863
Họ Diphylloborthriidae Luhe, 1910
Giống Spirometra Mueller, 1937
Loài Spirometra erinacei-europaei
(Rudolphi, 1819) Mueller, 1937
Loài Spirometra mansonoides
(Mueller, 1935) Mueller, 1937
Bộ Cyclophyllidea Beneden in Braun, 1900
Phân bộ Hymenolepidata Skrjabin, 1940
Họ Dipylidiidae Mola, 1929
Giống Dipylidium Leuckart, 1863
Loài Dipylidium caninum Leuckart, 1758
Phân bộ Tta Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Taeniidae Ludwig, 1886
Giống Taenia Linnaeus, 1758
Loài Taenia hydatigena Pallas, 1766
Loài Taenia pisiformis Bloch, 1780
Giống Echinococcus Rudolphi, 1801
Loài Echinococcus granulosus Batsch, 1786
Giống Multiceps Goeze, 1782
Loài Multiceps multiceps Leske, 1780.

Phân bộ Mesocestoidata Skrjabin, 1940
Họ Mesocestoididae Perrier, 1897
Giống Mesocestoides, Wailand, 1863
Loài Mesocestoides lineatus Goeze, 1782
7

Phan Thế Việt và cs (1977) [23], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6], Nguyễn Thị Lê
và cs (1996) [15], khi đề cập về thành phần loài sán dây ký sinh trên chó ở nước ta
đều thống nhất rằng, các loài sán dây ký sinh ở chó đã tìm thấy ở Việt Nam gồm:
Diphyllobothrium mansoni, Diphyllobothrium reptans, Dipylidium caninum,
Taenia hydatigena, Taenia pisiformis, Multiceps multicep, Echinococcus
granulosus, Mesocestoides lineatus.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8]: tính đến thời điểm hiện tại
đã phát hiện hơn 30 loài sán dây ký sinh ở loài ăn thịt gây bệnh cho chó, mèo.
Chúng đều thuộc bộ Cyclophyllidea và Pseudophyllidea.
Phạm Sỹ Lăng (2002) [12] cho biết, đến nay đã phát hiện được 8 loài
sán dây ký sinh trên chó ở miền Bắc Việt Nam.
Việc mô tả hình thái các loài sán dây còn có nhiều thiếu sót, một số loài
chưa có mô tả trên mẫu vật Việt Nam. Cande J. (1870) là người đầu tiên mô tả
loài sán dây Diphyllobothrium latum tìm thấy ở Nam Bộ trên người. Sau này
một số nhà ký sinh trùng học Việt Nam như Đỗ Dương Thái và cs (1978) [17]
loài thuộc giống Diphyllobothrium ký sinh ở người Việt Nam không phải là
Diphyllobothrium latum mà là loài Diphyllobothrium mansoni. Sự phán đoán
này không dựa trên mẫu nên không có sự mô tả loài. Theo Yamaguti (1959),
loài Diphyllobothrium mansoni là tên đồng vật của loài Spirometra erinacei-
europaei thuộc giống Spirometra (họ Diphyllobothriidae).
Theo tài liệu mới nhất về họ Diphyllobothiidae của các tác giả Delaimure
S. L., Skrjabin A. S., Serdukov A. M. (1985) Diphyllobothrium mansoni không là
tên động vật của một loài nào trong họ này. Khi nói về lịch sử nghiên cứu loài
Diphyllobothrium latum, các tác giả còn cho rằng, loài Spirometra erinacei-

europaei của vùng nam bán cầu là một định dạng sai lầm và cho rằng chính loài
này là Diphyllobothrium latum. Tuy nhiên, các tác giả có ý định xem xét vị trí
phân loại của giống Spirometra Mueller, 1937 và muốn coi giống này là giống
chuẩn để thành lập họ Spirometridae (dẫn theo Nguyễn Thị Kỳ, 2003 [7]).
8

Nguyễn Thị Kỳ (2003) [7] cho biết: ở Việt Nam, hiện loài
Diphyllobothrium mansoni, Diphyllobothrium reptans còn chưa rõ vị trí phân
loại và không có mẫu. Nguyễn Thị Kỳ (2003) [7] đã xem xét lại toàn bộ vị trí
phân loại và tình trạng mẫu, tình hình nghiên cứu về từng loài, đã tu chỉnh
một loài Spirometra erinacei- europaei (Rudolphi, 1819) Mueller, 1937.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 40 loài sán dây gây bệnh cho chó và
các thú ăn thịt thuộc họ chó mèo (Vương Đức Chất và cs, 2004 [1]).
2.1.2.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của sán dây chó
* Đặc điểm chung:
Phan Thế Việt và cs (1977) [23], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6], (2003) [7],
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15], cho biết:
Sán dây chó có những đặc điểm của lớp sán dây nói chung: hình dải băng
màu trắng hoặc trắng ngà. Cơ thể dài, dẹp theo hướng lưng bụng, chia thành ba
phần: đầu, cổ, thân (gồm những đốt sau cổ, có hình dạng và cấu tạo khác nhau).
Đầu sán dùng để bám vào thành ruột vật chủ, nên có những hình dạng,
kích thước và các cơ quan bám đặc trưng. Chiều rộng của đầu thường chỉ nhỏ
hơn 1 mm, nhưng cũng có sán có đầu dài vài mm. Cơ quan bám nằm trên đầu
bao gồm rãnh bám hoặc giác bám, mõm, vòi và có nhiều móc. Ở một số loài sán
dây trên móc bám có các móc bé xếp thành nhiều hàng. Giác bám là bộ phận đặc
trưng của sán dây bậc cao. Móc bám nằm ngay trên đầu hay ở phần cuối vòi, sắp
xếp thành một hay hai hàng. Số lượng móc ở các nhóm sán dây dao động từ vài
móc đến vài trăm móc. Ít khi vòi thiếu móc. Kích thước, cấu tạo và số lượng
móc cố định cho mỗi loài.
Cổ là những đốt sán nối tiếp sau đầu. Đốt cổ của sán dây là đốt sinh

trưởng, từ các đốt cổ sinh ra các đốt thân, cơ quan sinh sản ở các đốt cổ chưa
hình thành rõ.
9

Thân sán dây lại gồm ba loại đốt: những đốt chưa thành thục về sinh
dục (ở gần cổ), cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ, chỉ thấy cơ quan sinh
dục đực. Những đốt thành thục về sinh dục (ở giữa thân), cơ quan sinh dục
trong những đốt sán này đã phát triển đầy đủ, có đủ cả bộ phận sinh dục đực
và cái, có hệ bài tiết, cấu tạo mỗi đốt tương tự như mỗi cơ thể sán lá, nhưng
khác sán lá là không có hệ tiêu hoá. Những đốt già (ở cuối thân sán), bên
trong đốt sán chứa đầy tử cung với vô số trứng sán dây. Ở những đốt già, bộ
phận sinh dục đực bị thoái hoá. Những đốt già thường xuyên được rời khỏi cơ
thể sán và theo phân ra ngoài (đặc điểm này thấy ở những loài sán dây thuộc
bộ Cyclophyllidea).
Chiều dài của sán dây chó dao động từ 0,5 mm đến hàng chục mét. Cơ
thể sán dây phủ lớp biểu bì, đến lớp hạ bì, rồi đến lớp cơ vòng, cơ dọc. Phần
bên trong chứa đầy nhu mô. Bên trong lớp cơ là các khí quan của sán. Sán
dây chó cũng giống các sán dây khác ở đặc điểm không có hệ tiêu hóa, sán
lấy thức ăn bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.
Hệ thần kinh ở sán dây kém phát triển, gồm có hạch thần kinh trung ương
nằm ở trên đầu, từ đó có các dây thần kinh chạy dọc cơ thể. Có hai dây phát triển
hơn nằm bên ngoài ống bài tiết và mỗi đốt nối với nhau bởi các cầu nối ngang.
Hệ tuần hoàn và hệ hô hấp tiêu giảm. Hô hấp theo kiểu yếm khí.
Hệ bài tiết của sán dây cấu tạo theo kiểu nguyên đơn thận, gồm 2 ống
chính từ đầu sán đi về cuối thân và thông với lỗ bài tiết. Ngoài ra, ở mỗi đốt
sán còn có những ống ngang nối liền với 2 ống chính.
Hầu hết các loài sán dây là lưỡng tính: Trong mỗi đốt thường có một hệ
sinh dục (gồm một cơ quan sinh dục đực và một cơ quan sinh dục cái) phát
triển ở các giai đoạn khác nhau, ít khi có hai hệ sinh dục hoặc hơn. Sự phát
triển của hệ sinh dục theo một thứ tự nhất định: Ở các đốt non cơ quan sinh

dục chưa phát triển, sau đó hình thành cơ quan sinh dục đực rồi đến cơ quan
10
sinh dục cái. Sau khi thụ tinh, cơ quan sinh dục đực teo dần còn lại cơ quan
sinh dục cái. Ở các đốt già, trứng chứa đầy trong tử cung.
Hệ sinh dục đực gồm tinh hoàn, ống dẫn tinh và các tuyến sinh dục. Số
lượng tinh hoàn trong mỗi đốt có từ một đến hàng trăm và là dấu hiệu để phân
loại mỗi loài. Từ tinh hoàn có nhiều ống dẫn tinh nhỏ đi ra và hợp lại với
nhau thành ống dẫn tinh, ống này đổ vào cơ quan giao phối là lông gai. Lông
gai nằm trong nang lông gai. Phần cuối ống dẫn tinh có thể phình ra gọi là túi
tinh. Nếu túi tinh ở ngoài nang lông gai gọi là túi tinh ngoài, còn ở trong nang
lông gai thì gọi là túi tinh trong. Lông gai dùng để đưa vào lỗ sinh dục cái khi giao
phối. Nang lông gai và lông gai ở mỗi loài có hình dạng, kích thước và cấu tạo
khác nhau.
Hệ sinh dục cái có cấu tạo phức tạp hơn, gồm có buồng trứng, ống dẫn
trứng, ootyp, tuyến noãn hoàng, túi nhận tinh, tuyến vò (thể Melis) và tử
cung, thường có hai buồng trứng nằm giữa hoặc phía sau đốt sinh dục, ít khi ở
phía trước. Trong buồng trứng hình thành các tế bào sinh dục cái (tế bào
trứng). Từ buồng trứng có ống gắn nối với âm đạo, mở ra ở huyệt sinh dục.
Ống này phình rộng ra gọi là túi nhận tinh. Trứng thụ tinh được đưa vào
ootyp. Tuyến noãn hoàng gồm nhiều bao noãn bé nằm trong nhu mô hoặc
thành khối nằm hai bên đốt hoặc phía sau buồng trứng. Từ tuyến noãn hoàng
các chất dinh dưỡng đổ vào ooptyp giúp cho việc hình thành trứng. Tuyến vỏ
tiết ra các sản phẩm cần thiết để hình thành trứng. Trong ootyp, trứng thụ tinh
được hình thành, sau đó trứng rơi vào tử cung. Cấu tạo tử cung của sán dây
rất khác nhau. Ở sán dây bậc thấp (Pseudophyllidea), tử cung là những ống
cong, dẫn từ ooptyp đến lỗ ngoài nằm ở mặt bụng của mỗi đốt. Ở những đốt
sán dây này trứng được thải ra ngoài tùy theo mức độ hình thành của trứng. Ở
sán dây bậc cao (Cyclophyllidea), tử cung kín, không có lỗ ngoài. Ở những
sán dây này tử cung chứa đầy trứng trong đốt già và mỗi đốt thực chất biến
11

thành một cái túi chứa trứng. Trứng được rơi ra ngoài bằng cách nứt thành cơ thể
của đốt. Quá trình này thường thực hiện ở môi trường ngoài, ở nơi mà các đốt sán
dây già được thải ra cùng với phân vật chủ.
Trứng sán dây bộ Cyclophyllidea hình tròn hoặc hơi bầu dục, có 4 lớp
vỏ, trong có phôi 6 móc. Còn trứng sán dây bộ Pseudophyllidea giống trứng
sán lá, một đầu có nắp (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [8].
* Đặc điểm hình thái, kích thước của một số loài sán dây ký sinh ở chó:
- Giống Dipylidium Leuckart, 1863
Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6], (2003) [7], Nguyễn Thị Lê và cs (1996)
[15], cho biết:
+ Loài Dipylidium caninum: Cơ thể dài 15 – 17 cm, gồm 80 – 250 đốt.
Đầu rộng 0,24 – 0,50 mm. Đầu có vòi hình chóp, có 4 – 10 hàng móc, mỗi
hàng có từ 16 – 20 móc, móc hàng trên cùng dài 0,013 – 0,016 mm, móc hàng
cuối cùng dài 0,003 – 0,008 mm. Lỗ sinh dục kép, mở ra ở hai bên đốt. Túi
sinh dục dài 0,1 – 0,3 mm, đáy hướng lên phía trên đốt. Buồng trứng phân
thùy hình quạt. Tuyến noãn hoàng hình khối. Đốt già chứa nang trứng, mỗi
nang chứa 3 – 30 trứng, có kích thước 0,026 – 0,060 mm. Phôi 6 móc có kích
thước 0,020 – 0,036 mm.
- Giống Taenia Linnaeus, 1758
Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6], (2003) [7], Nguyễn Thị Lê và cs (1996)
[15], Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8], cho biết:
+ Loài Taenia hydatigena: Dài 5000 mm gồm 550 – 700 đốt rất rộng.
Đầu hình quả lê hay hình thận, đường kính 1 mm, vòi có 26 – 44 móc,
xếp thành hai hàng, móc hàng trên dài 0,170 – 0,022 mm, có mỏm rất
cong, móc hàng dưới dài 0,110 – 0,160 mm, có lưỡi rất cong, các giác
bám gần nhau và có đường kính 0,110 mm, cổ dài 0,500 mm. Có 600 –
700 tinh hoàn ở giữa các ống bài tiết. Xung quanh noãn hoàng, buồng
12
trứng, ống dẫn tinh và âm đạo không có tinh hoàn, ống dẫn tinh có dạng
túi hẹp uốn khúc nhiều, không có túi tinh. Nang lông gai hình trụ dài

0,450 mm, rộng 0,130 mm, buồng trứng hai thùy ở nửa dưới của đốt, cạnh
phía không lỗ lớn hơn phía có lỗ, noãn hoàng là ống hẹp kéo dài theo
chiều ngang, thể Melis tròn ở giữa buồng trứng và noãn hoàng, phần đầu
âm đạo phình rộng, sau hẹp dần, tới thùy buồng trứng tạo thành túi nhận
tinh. Ở các đốt già thân tử cung có 5 – 10 nhánh ngang, mỗi đầu tự do lại
tạo thành các nhánh phụ, trứng bầu dục, dài 0,038 – 0,031 mm, rộng
0,034 – 0,035 mm, vỏ dày 0,004 mm.
Dạng ấu trùng Cysticercus tenuicollis gặp nhiều ở gan và xoang bụng
của lợn, trâu, bò, nhiều loài thú khác, kể cả người. Ấu trùng này có dạng túi
chứa đầy dịch trong. Thành bên trong túi có một đầu sán dây, có cổ. Đầu có
móc và giác bám, đường kính của giác bám 0,099 – 0,310 mm, có 28 – 40
móc, xếp hai hàng, móc hàng trên dài 0,185 – 0,210 mm, móc hàng dưới dài
0,126 – 0,160 mm, vỏ trong của nang được bọc bằng vỏ ngoài, vỏ này bám
vào thành mô cơ của vật chủ, kích thước của nang phụ thuộc vào nơi ký sinh
của ấu trùng.
+ Loài Taenia pisiformis: Sán dài 600 – 2000 mm và rộng 4,8 mm gồm
400 đốt, đường kính đầu 1,3 mm, vòi 0,515 – 0,640, có 34 – 48 móc xếp
thành hai hàng, móc hàng trên dài 0,225 – 0,294 mm, có lưỡi rất cong. Móc
hàng dưới dài 0,132 – 0,177 mm, giác bám tròn hay bầu dục, đường kính
0,310 – 0,330 mm, cổ ở ngay sau đầu dài 1,7 mm. Lỗ sinh dục xen kẽ không
đều, các núm sinh dục hơi nhô ra. Có 400 – 500 tinh hoàn, tròn hay bầu dục,
đường kính 0,096 – 0,132 mm, ở toàn bộ khoảng trống giữa đốt trừ vùng noãn
hoàng và buồng trứng. Ống dẫn tinh bắt đầu từ túi tinh tròn có đường kính
0,210 – 0,350 mm, nang lông gai hình trụ hay bầu dục ngang, dài 0,460 –
0,800, rộng 0,130 – 0,140 mm, buồng trứng hai thùy, ở nửa dưới của đốt,
13
những thùy bên hình thận và có kích thước như nhau, noãn hoàng hình ba
góc, ở bờ dưới của đốt. Thể Melis ở giữa noãn hoàng và buồng trứng, âm đạo
đi từ lỗ sinh dục, tạo thành túi nhận tinh ở sát thùy của buồng trứng. Ở những
đốt già, mỗi phần của thân tử cung có 8 - 14 nhánh bên, từ đó tạo thành các

nhánh phụ, trứng tròn hay hơi bầu dục, đường kính 0,032 - 0,037 mm.
- Giống Echinococcus Rudolphi, 1810
Phan Thế Việt và cs (1977) [23], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [15],
Nguyễn Thị Kỳ (2003) [7] cho biết:
+ Loài Echinococcus granulosus: Sán dài 2,7 - 3,4 mm, gồm 3 - 4 đốt.
Đầu không lớn, có đường kính 0,258 - 0,369 mm, đường kính giác bám 0,098
- 0,133 mm, vòi 0,100 – 0,140 mm. Có 36 - 40 móc vòi, thường thay đổi về
kích thước và số lượng móc, móc hàng trên dài 0,032 – 0,043 mm, móc hàng
dưới dài 0,020 – 0,036 mm, cán không thẳng và dài hơn lưỡi móc, đôi khi cán
phình rộng hoặc có mỏm lớn. Cơ quan sinh dục cái ở nửa dưới của đốt, buồng
trứng gồm hai khối đặc hình bầu dục, nối với nhau bằng ống ngang hẹp, noãn
hoàng dưới buồng trứng, thể Melis dưới buồng trứng và noãn hoàng, có 32 -
40 tinh hoàn. Nang lông gai dài 0,025 – 0,026 mm, dài tới giữa đốt, lỗ sinh
dục mở ra ở hai bên đốt, tử cung dài bằng chiều dài đốt già, có các nhánh bên
với số lượng và hình dạng không giống nhau. Trứng tròn hay bầu dục, đường
kính từ 0,028 - 0,036 mm.
Ấu trùng Echinococcus enilocularis ký sinh ở trâu, bò, dê. Nó có dạng
túi, trong chứa đầy dịch, nang có hai vỏ, vỏ ngoài màu trắng sữa đôi khi hơi
vàng, vỏ ngoài sinh ra vỏ trong, vỏ trong gọi là vỏ mầm, sinh ra từ phía trong
xoang nang, mỏng, không màu, là thành mô sinh ra nang, có thể sinh ra một
nang cùng lúc tạo thành đầu phôi và nang thứ hai (nang con).
- Giống Multiceps Goeze, 1782
Theo Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6], (2003) [7], Nguyễn Thị Lê và cs
(1996) [15],:
14
+ Loài Multiceps multiceps: Sán dài 400 - 1000 mm, gồm 200 - 250 đốt,
rộng gần 5 mm. Đầu hình quả lê và có đường kính 0,800 mm. Vòi có đường
kính 0,300 mm, có 22 - 32 móc, xếp thành hai hàng, móc hàng một dài 0,150
mm, hàng hai dài 0,090 – 0,130 mm. Giác bám có đường kính 0,290 - 0,300
mm. Cổ dài 2 - 3 mm. Ống dẫn tinh bắt đầu ở phía có lỗ, gần thân giữa của tử

cung, uốn khúc và đi vào nang lông gai. Nang có dạng quả lê dài 0,315 – 0,350
mm, rộng 0,110 – 0,145 mm. Buồng trứng có hình cánh bướm, ở gần bờ dưới
đốt, hai thùy gần như bằng nhau và có hình bầu dục, noãn hoàng hình ba góc, ở
sát bờ dưới đốt. Thể Melis nhỏ ở giữa buồng trứng và noãn hoàng. Âm đạo có
dạng ống cong xuống một thùy của buồng trứng và phình rộng thành túi chứa
tinh, tử cung có thân giữa và mỗi bên có 9 - 12 nhánh, trứng có đường kính
0,029 - 0,037 mm, có vỏ dày 0,004 mm.
Ấu trùng Coenurus cerebralis là một nang lớn, hình tròn hay bầu dục, vỏ mờ
đục, mềm ở trong có rất nhiều đầu sán dính vào, trong nang là chất dịch không
màu, số lượng dịch thay đổi phụ thuộc vào kích thước nang. Kích thước nang
khác nhau, phụ thuộc vào mức độ phát triển, vị trí não ký sinh và loại động vật.
- Giống Mesocestoides Vaillant, 1863
Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6], (2003) [7], Nguyễn Thị Lê và cs (1996)
[15], cho biết:
+ Loài Mesocestoides lineatus: Sán trưởng thành dài đến 2m. Đầu không
có vòi, có móc bám và 4 giác bám. Tử cung có dạng túi dọc nằm ở giữa đốt.
Kích thước trứng 0,040 – 0,060 x 0,035 – 0,043 mm. Phôi 6 móc, đôi móc giữa
dài hơn móc bên.
2.1.2.3. Chu kỳ sinh học của sán dây chó
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [17], chu kỳ sinh học
của sán dây khá phức tạp, tiến triển ở nhiều ký chủ liên tiếp. Ở bộ
Cyclophyllidae trứng chứa thai trùng sáu móc đã hình thành. Vào dạ dày ký chủ,
15
thai trùng sáu móc thành ấu trùng (đã mất móc) có cấu tạo và tên gọi khác nhau:
Cysticercus, Coenurus, Echinococcus, Cysticercoid. Ở bộ Pseudophyllidae có
hai thể ấu trùng liên tiếp: Procercoid và Plerocercoid. Những dạng ấu trùng
này sống lâu hay chóng ở KCTG và phải được một ký chủ cuối cùng thích hợp
nuốt vào mới phát triển thành sán trưởng thành.
Để hoàn thành vòng đời, sán dây ký sinh ở chó cần vật chủ trung gian là
nhiều loài động vật khác nhau, có thể là động vật có xương sống, hoặc có thể

là động vật không xương sống Có loài cần 1 KCTG để hoàn thành vòng đời,
nhưng cũng có loài cần 2 KCTG mới hoàn thành vòng đời.
Các họ sán dây khác nhau có chu kỳ sinh học khác nhau. Các loài sán dây:
Spirometra erinacei-europae, Spirometra mansonoides, Dipylidium caninum,
Taenia hydatigena, Taenia pisiformis, Multiceps multiceps ký sinh ở ruột của
chó. Chó là vật chủ cuối cùng của sán, giúp sán hoàn thành vòng đời và ký
sinh ở giai đoạn thành thục. Cụ thể vòng đời của các loài sán dây thường gặp
ký sinh ở chó diễn ra như sau:
+ Loài Spirometra erinacei-europae
Vòng đời phát triển của Spirometra erinacei-europae có sự tham gia của
vật chủ trung gian thứ nhất là các các loài giáp xác, KCTG bổ sung là cá.
Trứng được thải ra ngoài theo phân chó không có phôi, ở trong nước, trứng nở
ra ấu trùng có những lông nhỏ xung quanh thân gọi là Coracidium, được vật
chủ trung gian thứ nhất là các loài giáp xác thuộc giống Mesocyclops,
Eucyclops nuốt. Trong cơ thể bọ nước, Coracidium phát triển thành dạng ấu
trùng đặc biệt – Procercoid. Trong trường hợp cá nuốt phải bọ nước bị nhiễm
Procercoid thì ấu trùng Procercoid sẽ phát triển thành dạng ấu trùng mới -
Plerocercoid. Chó ăn cá có ấu trùng Plerocercoid sẽ nhiễm sán, sau 15 – 18
ngày sẽ xuất hiện trứng trong phân chó thải ra.
16
+ Loài Spirometra mansonoides
Vòng đời phát triển cần có sự tham gia của vật chủ trung gian thứ nhất
là các loài giáp xác nước ngọt (Copepods), vật chủ trung gian thứ hai là
những loài chim, rắn, bò sát, lưỡng cư, động vật gặm nhấm. Trứng theo phân
chó ra ngoài, trải qua lần lượt các giai đoạn ở vật chủ trung gian thứ nhất và
thứ hai, trở thành ấu trùng gây bệnh Plerocercoid. Chó ăn phải vật chủ trung
gian chứa ấu trùng sẽ bị nhiễm sán. Sau 10 – 30 ngày ấu trùng phát triển
thành sán trưởng thành.
+ Loài Dipylidium caninum
Vòng đời của loài này có sự tham gia của vật chủ trung gian là các loài

bọ chét giống Ctenocephalides. Đốt sán già thải ra ngoài có mang theo nang
trứng. Đốt sán vỡ ra, trứng ở ngoài tự nhiên được các vật chủ trung gian nuốt
vào, phát triển thành ấu trùng. Chó ăn phải bọ chét có ấu trùng sẽ bị nhiễm
sán dây. Sau 3 – 4 tuần ấu trùng phát triển thành sán dây trưởng thành.
+ Loài Taenia hydatigena
KCTG là lợn, trâu, bò, dê, cừu. Vòng đời bắt đầu từ khi đốt sán già
rụng theo phân ra ngoài, vỡ ra, giải phóng trứng sán. KCTG nuốt phải
trứng sán, vào đến ruột, ấu trùng 6 móc nở ra và phát triển thành ấu trùng
gây bệnh Cysticercoid sau 3 tháng. Chó ăn phải nội tạng của vật chủ trung
gian có ấu trùng sẽ bị nhiễm sán. Sau 2 tháng ấu trùng phát triển thành
sán dây trưởng thành.
+ Loài Taenia pisiformis
Vòng đời phát triển cần có sự tham gia của vật chủ trung gian là
động vật gặm nhấm, chủ yếu là thỏ và thỏ rừng. Các giai đoạn phát triển
của ấu trùng thực hiện trong các vật chủ trung gian để trở thành ấu trùng
cảm nhiễm sau 15 – 30 ngày. Chó ăn phải nội tạng của thỏ có ấu trùng sẽ
nhiễm sán.
17
+ Loài Multiceps multiceps
Vòng đời của loài này cần có sự tham gia của vật chủ trung gian là dê,
cừu. Đốt sán già ra ngoài theo phân chó. Đốt vỡ ra giải phóng trứng sán; dê, cừu
- vật chủ trung gian ăn trứng sán vào cơ thể, trứng nở và phát triển thành ấu
trùng cảm nhiễm ở óc dê, cừu sau 6 – 8 tháng. Chó ăn phải óc vật chủ trung gian
có ấu trùng sẽ nhiễm sán.
Phan Thế Việt (1977) [23] đã mô tả: “Tất cả bề mặt của sán dây là một
cái “mồm” khổng lồ. Thức ăn ngấm qua “da” của sán dây. Các loài sán dây
thường tắm trong nguồn thức ăn giàu có của cơ thể vật chủ. Cái mồm đã
không cần, thì hệ tiêu hoá của chúng cũng không có. Ăn và tiêu hoá đều qua
bề mặt cơ thể của sán dây”. Hiện tượng rụng đốt của sán dây làm cho người ta
có thể nghĩ rằng: Cơ thể sán dây sẽ dần dần ngắn lại. Song, không phải như

vậy, bởi các đốt mới được sinh ra thay thế các đốt già đã rụng làm cho sán
dây trở nên “trẻ lại”. Sau đốt đầu là đốt cổ, người ta gọi đốt cổ là đốt sinh
trưởng, từ đó sẽ mọc ra các đốt khác. Các đốt mới sinh ra đẩy các đốt cũ lùi
dần ra phía sau.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [9] cho biết: Những đốt sán dây
hầu như là những cơ thể độc lập với nhiều cơ quan riêng biệt và hoàn
toàn độc lập. Nhờ có sự hóa đốt mà khả năng sinh đẻ của sán dây tăng
lên gấp bội. Trong cùng một lúc, ở những đốt thành thục của sán dây có
thể sinh ra hàng chục triệu trứng. Ngoài ra, sự hóa đốt còn có lợi cho sán
dây về những mặt khác. Đó là, do có đốt sán già lần lượt đứt và thải ra
môi trường bên ngoài mà sự reo rắc trứng ở đó được thuận lợi hơn, bản
thân sán dây thải bỏ đi những đốt già cỗi, đời nó hầu như từng thời được
trẻ lại, có sức lực và năng lượng mới để phát triển những loạt đốt thành
thục mới.
18
2.1.3. Đặc điểm dịch tễ học bệnh do ấu trùng Cysticercus tenuicollis và
bệnh do sán dây chó gây ra
2.1.3.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh Cysticercus tenuicollis
Bệnh Cysticercus tenuicollis xảy ra trên toàn thế giới, chủ yếu ở khu vực
nông thôn. Tỷ lệ nhiễm ở các khu vực thay đổi rất nhiều. Dịch bất ngờ có thể
xảy ra do điều kiện khí hậu có lợi cho sự tồn tại của trứng trong đồng cỏ hoặc
các hoạt động của động vật hoang dã mang bệnh (P. Junquera, 2013) [41].
Mổ khám 589 dê có nuôi ở các tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thấy tỷ lệ
nhiễm ấu sán cổ nhỏ ở dê là 23,8% và cường độ nhiễm sán là 1 - 18 ấu sán/dê.
Tuổi gia súc càng cao thì tỷ lệ nhiễm càng tăng lên và mức độ nhiễm càng
nặng hơn (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [8].
Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Quyên, Phạm Công Hoạt (2012) [10]
đã mổ khám 1273 trâu, bò, lợn của ba huyện thành tỉnh Phú Thọ phát hiện
294 con nhiễm ấu sán Cysticercus tenuicollis (23,10%), trong đó tỷ lệ ở trâu
biến động từ 10,59 - 31,78%, ở bò từ 9,82 - 28,10% và ở lợn từ 10,28 -

37,66% với cường độ nhiễm từ 1 - 56 ấu sán/con. Tương quan giữa tỷ lệ
nhiễm sán dây Taenia hydatigena ở chó và tỷ lệ nhiễm ấu sán Cysticercus
tenuicollis ở trâu, bò, lợn là tương quan thuận rất chặt với hệ số tương quan R
= 0,881; 0,990 và 0,997.
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5]:
- Phân bố của bệnh: phổ biến khắp các vùng, lợn nước ta nhiễm
khoảng 44%. Ở những nơi nuôi nhiều chó, bệnh càng phổ biến và gây nhiều
thiệt hại.
- Biến động nhiễm ấu sán theo tuổi: nhìn chung tỷ lệ nhiễm tăng dần
theo tuổi lợn, vì số lần tiếp xúc với căn bệnh tăng theo tuổi.
+ Lợn con dưới 2 tháng: tỷ lệ 48,2%
+ Lợn từ 3 - 4 tháng: tỷ lệ 46,3%

×