ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HOÀNG TRƯỜNG GIANG
Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH
DO GIUN TRÒN TRICHOCEPHALUS SUIS GÂY RA
Ở LỢN TẠI HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Chăn nuôi - Thú y
Khoa : Chăn nuôi - Thú y
Khóa học : 2010 - 2014
THÁI NGUYÊN - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HOÀNG TRƯỜNG GIANG
Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH
DO GIUN TRÒN TRICHOCEPHALUS SUIS GÂY RA
Ở LỢN TẠI HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Chăn nuôi - Thú y
Khoa : Chăn nuôi - Thú y
Lớp : 42 - CNTY - N02
Khóa học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Ngân
Giảng viên khoa Chăn nuôi Thú y
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
THÁI NGUYÊN – 2014
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập ở nhà trường và 5 tháng thực tập, em đã luôn nhận
được sự động viên và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè. Nay em đã
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Thành công này không chỉ do sự nỗ lực của
bản thân mà còn nhờ sự giúp đỡ và công sức của rất nhiều người.
Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú
y, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã dạy dỗ và dìu dắt em trong suốt quá trình
học tập cũng như trong thời gian thực tập tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Ngân -
Giảng viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và NCS. Nguyễn Thị Bích Ngà đã
giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các cán bộ tại trạm Thú y huyện Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên và bà con nông dân địa phương đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và người thân đã
quan tâm, giúp đỡ, động viên em trong suốt thời gian học tập.
Một lần nữa, em xin kính chúc toàn thể thầy, cô giáo sức khỏe, hạnh
phúc và thành đạt. Chúc cán bộ, nhân viên trạm Thú y huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên công tác tốt. Chúc các bạn sinh viên mạnh khỏe, học tập tốt và
thành công trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Hoàng Trường Giang
LỜI NÓI ĐẦU
Với phương châm “Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn sản
xuất”, trong mục tiêu đào tạo của nhà trường, ngoài việc cung cấp kiến thức còn
phải tạo cơ hội cho sinh viên rèn luyện kỹ năng và thái độ nghề nghiệp.
Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình
đào tạo của tất cả các trường Đại học nói chung và Đại học nông lâm Thái
Nguyên nói riêng. Thực tập tốt nghiệp chiếm một vị trí hết sức quan trọng đối
với mỗi sinh viên trước khi ra trường.
Thực tập là thời gian giúp cho sinh viên củng cố và hệ thống lại toàn bộ
kiến thức, rèn luyện tay nghề, học hỏi phương pháp quản lý và làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học để khi ra trường trở thành người cán bộ kỹ thuật
có trình độ chuyên môn vững vàng, quản lý giỏi, nắm được các phương pháp tổ
chức và tiến hành nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Xuất phát từ mục tiêu đó, theo sự phân công của nhà trường, của ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sự
đồng ý của cô giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Ngân và sự tiếp nhận của cơ sở,
em đã về thực tập tại Trạm Thú y huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên từ ngày
9/12/2013 đến ngày 31/5/2014 và thực hiện đề tài: “Nghiên cứu biện pháp
phòng trị bệnh do giun tròn Trichocephalus suis gây ra ở lợn tại huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”.
Do lần đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và thực tiễn
sản xuất, thời gian thực tập ngắn, trình độ chuyên môn còn hạn chế nên bản
khóa luận này của em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để đề tài của
em được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1: Tình hình nhiễm giun T. suis ở lợn tại một số xã thuộc huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 28
Bảng 4.2: Hiệu lực của một số thuốc tẩy giun T. suis cho lợn thí nghiệm 30
Bảng 4.3: Hiệu lực của thuốc tẩy giun T. suis cho lợn trên thực địa 31
Bảng 4.4: Độ an toàn của thuốc tẩy giun T. suis cho lợn trên thực địa 32
Bảng 4.5: Tác dụng diệt trứng giun T. suis bằng thuốc sát trùng trong điều
kiện phòng thí nghiệm 33
Bảng 4.6: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công
thức ủ I 34
Bảng 4.7: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công
thức ủ II 35
Bảng 4.8: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công
thức ủ III 36
Bảng 4.9: Khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis của công
thức ủ IV 37
Bảng 4.10: Đánh giá khả năng sinh nhiệt và tác dụng diệt trứng giun T. suis
của 4 công thức ủ 38
Bảng 4.11: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun T. suis ở lợn trước khi thử nghiệm
biện pháp phòng bệnh 40
Bảng 4.12. Khối lượng lợn ở ô thử nghiệm và lô đối chứng ở các thời điểm
thí nghiệm 42
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Giun Trichocephalus suis 5
Hình 2.2: Sơ đồ vòng đời của giun T. suis ở lợn 6
Hình 4.1: Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn tại một số xã thuộc huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 29
Hình 4.2: Biểu đồ cường độ nhiễm giun T. suis tại một số xã thuộc huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 29
Hình 4.3: Sự thay đổi nhiệt độ của các công thức ủ phân 37
Hình 4.4: Sự thay đổi khối lượng lợn ở lô thí nghiệm và lô đối chứng qua
các thời điểm thí nghiệm 43
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
cs : Cộng sự
Nxb : Nhà xuất bản
T. suis : Trichocephalus suis
A. suum : Ascaris suum
TT : Thể trọng
MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun T. suis lợn 3
2.1.2. Bệnh giun T. suis ở lợn 8
2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh giun T. suis ở lợn 19
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 19
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 20
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 21
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 21
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 21
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 21
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 21
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 21
3.3. Nội dung nghiên cứu 21
3.3.1. Tình hình nhiễm giun T. suis ở lợn tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 21
3.3.2. Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh giun T. suis cho lợn 21
3.4. Phương pháp nghiên cứu 22
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh giun T. suis cho lợn 22
3.4.2. Đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun T. suis cho lợn 27
3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 27
Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 28
4.1. Tình hình nhiễm giun T. suis ở lợn tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 28
4.2. Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh giun T. suis cho lợn 30
4.2.1. Hiệu lực và độ an toàn của thuốc tẩy trong điều trị bệnh giun T.
suis cho lợn 30
4.2.2. Xác định tác dụng diệt trứng giun T. suis bằng thuốc sát trùng trong
điều kiện phòng thí nghiệm 33
4.2.3. Nghiên cứu công thức ủ phân để tăng khả năng sinh nhiệt diệt
trứng giun T. suis 33
4.3. Bước đầu đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun T. suis ở lợn 43
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 45
5.1. Kết luận 45
5.2. Tồn tại 46
5.3. Đề nghị 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nước ta là một nước nông nghiệp, trong đó ngành chăn nuôi đã và đang
chiếm một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu
nền kinh tế nói chung. Chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành chăn
nuôi gia súc ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Chăn nuôi lợn cung
cấp một khối lượng lớn thực phẩm có giá trị cho con người. Chăn nuôi lợn phát
triển không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm cho xã hội mà còn cung cấp nguyên
liệu cho ngành công nghiệp chế biến và phân bón cho ngành trồng trọt, tạo công
ăn việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân. Phân lợn là loại phân có dinh dưỡng cao đối với cây trồng (5 - 25 %
chất khô; 1,6 - 1,8 % nitơ; 0,6 - 2,1 % photpho và 1,7 - 3,6 % kali). Hiện nay,
phân lợn còn được dùng làm nguyên liệu để sản xuất khí đốt (biogas) vừa đem lại
hiệu quả kinh tế cao vừa có tác dụng chống ô nhiễm môi trường, đặc biệt là khu
vực đông dân cư.
Xác định vai trò quan trọng của ngành chăn nuôi lợn trong những năm
qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy
chăn nuôi lợn phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trên thực tế
dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra, gây nên những thiệt hại đáng kể cho
ngành chăn nuôi. Vì vậy, để phát triển ngành chăn nuôi thì bên cạnh việc thực
hiện tốt công tác giống, thức ăn,…còn phải quan tâm đến công tác thú y, đặc
biệt với xu hướng chăn nuôi tập chung, quy mô trang trại như hiện nay. Nước
ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa có một mùa mưa kéo dài từ
tháng 4 đến tháng 6 với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều đã tạo điều kiện thuận
lợi cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh cho vật nuôi.
Đây chính là vấn đề khó khăn lớn cho ngành chăn nuôi nói chung và ngành
chăn nuôi lợn nói riêng trong công tác phòng trừ và điều trị bệnh ký sinh
trùng. Bệnh ký sinh trùng ở gia súc, gia cầm nói chung và bệnh ký sinh trùng
đường tiêu hoá lợn nói riêng không gây ra các ổ dịch lớn như những bệnh
truyền nhiễm do virus, vi khuẩn. Song, bệnh ký sinh trùng thường diễn ra ở
thể mãn tính, làm lợn sinh trưởng và phát triển chậm, tiêu tốn thức ăn tăng và
2
các chi phí như thuốc điều trị, công chăm sóc nuôi dưỡng cũng tăng. Ngoài ra,
ký sinh trùng ký sinh còn làm giảm sức đề kháng của lợn và là yếu tố mở
đường cho nhiều loại vi khuẩn, virus xâm nhập gây bệnh (Trịnh Văn Thịnh và
cs, 1978) [29].
Huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên có số đông dân số làm nông nghiệp,
chăn nuôi lợn chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu vật nuôi. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về biện
pháp phòng trị bệnh do giun tròn T. suis gây ra ở lợn tại huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc khống chế dịch bệnh, nâng cao
năng suất chăn nuôi lợn, tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu biện pháp phòng
trị bệnh do giun tròn Trichocephalus suis gây ra ở lợn tại huyện Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh T. suis cho lợn.
- Bước đầu đề xuất quy trình phòng trị bệnh giun T. suis cho lợn.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về bệnh và quy trình
phòng chống bệnh giun T. suis cho lợn, có một số đóng góp mới cho khoa học.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi cách
nhận biết được lợn mắc bệnh giun T. suis, để từ đó áp dụng quy trình phòng, trị
bệnh giun T. suis cho lợn, nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm giun ở lợn,
hạn chế tác hại đối với lợn, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy
ngành chăn nuôi lợn phát triển.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun T. suis lợn
2.1.1.1. Vị trí của giun T. suis trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [35], Skrjabin K. I. (1979) [37], Nguyễn
Thị Lê và cs (1996) [21], vị trí của giun T. suis Trichocephalus suis (T. suis) trong
hệ thống phân loại động vật như sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của giun T. suis lợn
Theo Skrjabin K. I. (1979) [37], thì hình thái cấu tạo của giun tròn T. suis
như sau: Con đực: Dài trung bình 40,35 mm; tối thiểu 33 mm; tối đa 48 mm.
Chiều dài phần trước trung bình 25,3 mm (20 - 30 mm); phần sau 15,1 mm (12 -
19 mm). Tỷ lệ chiều dài phần trước với phần sau 1,68 : 1. Thân phủ lớp cutin, trên
lớp cutin có nhiều rãnh ngang nên lớp cutin có nhiều mấp mô, hình răng nhỏ.
Thực quản kéo dài dọc theo phần mỏng trước thân và chuyển vào ruột ở chỗ ranh
giới giữa phần mỏng và dày của thân. Chiều rộng của phần trước thực quản 0,035
- 0,044 mm; của chỗ chuyển vào ruột 0,074 - 0,092 mm. Thực quản được bao
quanh bởi một hàng tế bào đơn nhân theo dạng móc xích. Ruột kết thúc bởi huyệt
trên phần đuôi. Hệ thống sinh dục gồm những ống dẫn tinh uốn khúc chiếm hầu
hết phần sau
thân. Đuôi con đực vòng xoắn ốc. Giao gai hợp kết thúc bằng một
đỉnh nhọn. Gai có chiều dài nằm trong khoảng từ 1,74 - 2,84 mm. Chỗ rộng
nhất của gai gốc gai dài 0,084 - 0,110 mm. Có bao gai bọc xung quanh và
cùng với gai nhô ra khỏi lỗ huyệt. Bao gai được phủ bởi rất nhiều gai nhỏ,
những gai này xếp theo thứ tự quân cờ. Số lượng hàng gai nhỏ gần nơi
4
chuyển của bao vào thân 24 - 42; ở đầu đối diện với nó số lượng hàng tăng tới
44 - 46. Hình dạng bao gai tròn, căng, dài 0,044 mm. Chiều rộng của bao gai
ở chỗ lồi ra khỏi huyệt tăng lên về kích thước: Chiều rộng chỗ gần huyệt là
0,057 - 0,092 mm; trong khi đó ở chỗ cuối gai 0,079 - 0,159 mm. Tất cả con
đực có một đầu bao gai gập hình cổ tay áo hay là hình bao tay, bao này một
phần hay toàn bộ bao phủ phần bao gai lồi ra khỏi thân. Chiều dài của chỗ gập
0,242 - 0,330 mm; rộng 0,290 - 0,352 mm.
Con cái: Thân dài trung bình 45,55 mm; tối thiểu 38 mm và tối đa 53 mm.
Phần trước mỏng, phần sau dày. Chiều dài phần trước của thân trung bình
30,55 mm (25 - 35 mm); chiều dài phần sau 15 mm (13 - 18 mm). Trên danh
giới chỗ chuyển tiếp của phần thân trước và phần thân sau, hơi dịch về phía
sau cách đầu cuối của thực quản có âm hộ. Âm hộ nhô ra ngoài, dạng hình trụ
hơi cong về phía sau (0,037 - 0,061 mm) và hơi rộng ở chỗ cạnh tự do (0,050
- 0,075 mm). Chỗ này được phủ rất nhiều gai nhỏ hình lưới (3 - 4 µm). Tử
cung có hình ống thẳng hay hơi cong, nằm ngay trước âm hộ, dài 0,92 - 1,28
mm; trong tử cung có trứng xếp thành một hàng. Đuôi con cái tù. Trứng dài
0,056 - 0,066 mm và rộng 0,025 - 0,030 mm. Màu sắc thay đổi từ vàng nhạt
đến vàng sẫm.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [21] đã mô tả giun T. suis như sau:
Con đực: Dài 37,52 - 40,63 mm; rộng nhất 0,634 - 0,713 mm.
Phần trước cơ thể dài 23,48 - 25,75 mm; phần sau dài 14,00 - 15,00 mm; có
dạng xoắn lò xo. Gai sinh dục dài 1,70 - 2,55 mm; rộng 0,07 - 0,10 mm; mút
cuối gai nhọn. Bao gai phủ đầy gai nhỏ. Lỗ huyệt nằm ở mút cuối đuôi.
Con cái: Cơ thể dài 37,89 - 50,60 mm; rộng 0,734 - 1,012 mm; phần
trước cơ thể dài 23 - 33 mm. Ống sinh dục đơn. Âm đạo có thành cơ dày,
chứa đầy trứng. Kích thước trứng 0,024 - 0,027 x 0,056 - 0,061 mm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [19]: Giun T. suis có màu trắng đục.
Thân chia ra làm hai phần rõ rệt: phần đầu nhỏ, trông giống như sợi T. suis;
phần sau ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực đuôi hơi
tù, cuộn tròn lại, có một gai giao hợp dài 1,70 - 2 mm, lỗ huyệt thông ra ngoài
phần cuối của giun. Giun cái đuôi thẳng, hậu môn ở đoạn cuối của thân.
5
Hình 2.1. Giun Trichocephalus suis
a: Trứng giun; b: Giun cái; c: Giun đực
(Nguồn: Phan Địch Lân và cs, 2005)[20]
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [17] cho biết: Hình thể của giun T. suis
giống như một sợi T. suis màu trắng. Cơ thể chia thành hai phần rõ rệt. Phần
trước nhỏ như sợi T. suis, dưới lớp biểu bì là thực quản, thực quản do các tế
bào xếp nối tiếp như chuỗi hạt, phần này chiếm 2/3 chiều dài cơ thể. Phần sau
ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực dài 20 - 52 mm
đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại chỉ có một gai giao hợp rất dài 5 - 7 mm,
gai giao hợp được bọc trong một cái màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Giun cái
dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng, âm hộ ở đoạn cuối cùng của thực quản.
2.1.1.3. Vòng đời của giun T. suis lợn
Skrjabin K. I. (1979) [37] cho biết: Giun T. suis phát triển không cần
vật chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi trường ngoại
cảnh. Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành dạng cảm
nhiễm từ 3 đến 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã hình thành
hoàn toàn và chuyển động bên trong trứng.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1985) [31], Đào Trọng Đạt và cs (1996) [6] thì
tuổi thọ của giun T. suis ở lợn là từ 4 - 5 tháng.
6
Theo Lương Văn Huấn và cs (1990) [8], giun T. suis sống được trong
cơ thể lợn 114 ngày.
Bonner Stewart T. và cs (2000) [36] cho biết: Khi lợn nuốt phải những
ấu trùng giun T. suis này nằm sâu trong niêm mạc 2 tuần, nhô ra khỏi niêm
mạc ở tuần thứ 3 và phát triển thành giun trưởng thành.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [20], thời gian hoàn thành vòng đời
của giun tròn T. suis là 30 ngày.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [18] cho biết: Điều kiện thuận lợi nhất cho
sự phát triển của trứng giun T. suis thành trứng cảm nhiễm ở ngoài môi
trường là nhiệt đột từ 18 - 30
0
C, ẩm độ 80 - 85% sẽ phát triển thành trứng
cảm nhiễm sau 15 - 28 ngày.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2012) [17], vòng đời phát triển của
giun T. suis diễn ra theo sơ đồ sau:
Hình 2.2: Sơ đồ vòng đời của giun T. suis ở lợn
Giun T. suis trưởng thành kí sinh ở manh tràng đẻ trứng, trứng theo
phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng) qua 15 - 28
ngày trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm. Trứng này lẫn vào thức ăn,
nước uống, nếu gia súc ăn phải, vào đường tiêu hóa trứng nở thành ấu trùng,
thọc sâu phần đầu vào niêm mạc ruột già, tiếp tục phát triển thành giun trưởng
thành. Thời gian hoàn thành vòng đời trong cơ thể đối với T. suis cần 30 ngày.
Trứng có sức
gây bệnh
7
2.1.1.4. Sự phát triển, sức đề kháng của trứng giun T. suis lợn ở ngoại cảnh
Sức đề kháng là khả năng chống lại những tác nhân ngoại cảnh tác
động đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường của trứng giun T. suis.
Việc nghiên cứu về sức đề kháng của trứng T. suis ở môi trường ngoại cảnh
có ý nghĩa quan trọng trong dịch tễ học bệnh giun T. suis, đồng thời là cơ sở
khoa học để đề ra những biện pháp phòng trị bệnh giun T. suis có hiệu quả.
Theo Đặng Văn Ngữ và cs (1965) [24], ở ẩm độ tối đa (gần 100 %) và
nhiệt độ 22
o
C thì trứng phát triển được đến giai đoạn trứng cảm nhiễm.
Nhưng cũng điều kiện ẩm độ như trên mà ở 30
o
C thì trứng sẽ chết sau 1
tháng. Nhiệt độ phát triển thuận lợi nhất của trứng giun Trichuris trichiura
(giun T. suis người) ở ngoại cảnh là 25 - 30
o
C. Thời gian là 17 - 30 ngày tỷ lệ
trứng có ấu trùng gần 90 %. Nhiệt độ lên quá 50
o
C làm hỏng phần lớn trứng
trước khi tới giai đoạn trứng cảm nhiễm. Như vậy, trứng giun T. suis và trứng
giun Trichuris trichiura có giới hạn nhiệt độ phát triển thuận lợi ở ngoại cảnh
tương tự nhau.
Đỗ Dương Thái và cs (1975) [25] cho biết, trứng giun T. suis bị hủy hoại
nếu ẩm độ dưới 30 % kéo dài. Mặt khác, trứng giun T. suis có thể bị diệt bởi
những tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời. Trong cùng một thời gian dưới tác
dụng của tia tử ngoại thì trứng đã phát triển đến giai đoạn ấu trùng bị diệt nhanh
hơn trứng non.
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [21], trứng giun T. suis bị diệt
dưới tác dụng của ủ phân nhiệt sinh học. Sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng
lên tới 45
o
C sẽ làm hủy trứng giun T. suis. Tuy nhiên, trứng non có khả
năng chịu đựng các điều kiện nhiệt độ cao hơn trứng cảm nhiễm.
Theo Lehand S. Shapiro (2005) [42], trứng giun T. suis có thể tồn tại rất
lâu (vài năm) trong đất. Sự phát triển của trứng phụ thuộc vào nhiệt độ: Ở 30
o
C
cần 17 ngày, ở nhiệt độ thất hơn, thời gian này kéo dài hơn. Ở 10
o
C trứng ngừng
phát triển nhưng vẫn duy trì khả năng sống. Nhiệt độ từ 45
o
C trở lên diệt được
trứng giun T. suis.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [18] cho biết: Các chất sát trùng như dung
dịch NaOH 2%, Cresyl 3%, nước vôi 10% diệt được trứng giun T. suis.
8
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [17]: Trứng giun T. suis có vỏ dày nên
có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh.
2.1.2. Bệnh giun T. suis ở lợn
2.1.2.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun T. suis
* Những thiệt hại kinh tế do giun T. suis gây ra ở lợn
Bệnh ký sinh trùng thường là những bệnh mãn tính, làm giảm mức sinh
trưởng và sinh sản của gia súc, ảnh hưởng đến sản phẩm chăn nuôi. Lợn nuôi
lấy thịt chậm lớn, sụt cân, phẩm chất thịt giảm (theo Trịnh Văn Thịnh và cs,
1982) [30].
Bonner Stewart T. và cs (2000) [36] cho biết: Tại Mỹ, nội ký sinh trùng
ở lợn hàng năm gây thiệt hại ước tính khoảng 538 triệu đô la, bao gồm thiệt
hại do lợn chết, tiêu hủy, giảm thu và chi phí để tẩy giun sán.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [18], T. suis ký sinh là một trong
những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn nuôi và tạo điều kiện cho các
mầm bệnh khác xâm nhập. Lợn bị bệnh giun T. suis giảm tăng trọng từ 15 -
20 % so với lợn khỏe.
* Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [35], lợn nhà và lợn rừng đều cảm
nhiễm với giun T. suis.
Theo Nguyễn Phước Tương (2002) [34], người nhiễm bệnh sau khi
nuốt phải trứng giun T. suis lẫn trong nước hay thức ăn thực vật chưa được
nấu chín. Sau khi vào người, trứng cảm nhiễm phát triển thành giun T. suis
trưởng thành, khu trú ở ruột thừa và gây bệnh cho người. Giun đẻ trứng, trứng
này được bài xuất ra ngoài qua phân người, sau khi phát triển thành trứng cảm
nhiễm thì có khả năng gây nhiễm lại lợn (tuy nhiên tỷ lệ trứng phát triển chỉ
có 11 %, trong khi trứng giun T. suis ở lợn có tỷ lệ phát triển là 86 %).
Phan Địch Lân và cs (2005) [20] đã điều tra trên các giống lợn
Yorkshire, Landrace nhập nội, lợn lai F
1
(ngoại x nội) và giống lợn nội ở
vùng đồng bằng (Hà Nội, Hà Tây) cho biết: thành phần các loại giun sán
chính ở lợn ngoại, lợn lai và lợn nội khác nhau không nhiều; các loài giun sán
phổ biến ở lợn ngoại và lợn lai cũng là: T. suis, A. suum, O. ransomi…
9
Bùi Quý Huy (2006) [9] cho biết : Giun T. suis ở lợn và giun Trichuris
trichiura ở người có nhiều điểm giống nhau về hình thái, hóa học và kháng
nguyên, do đó bệnh giun T. suis dễ lây sang người.
* Đường lây nhiễm
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [19], bệnh lây nhiễm qua đường tiêu
hóa do lợn nuốt phải trứng cảm nhiễm lẫn trong thức ăn, nước uống.
Lây nhiễm trực tiếp: lợn bệnh bài xuất trứng giun T. suis qua phân,
những trứng này phát tán trên nền chuồng, máng ăn, máng uống. Vì vậy, lợn
khỏe dễ dàng bị nhiễm trứng giun T. suis. Lây nhiễm trực tiếp chủ yếu giữa
lợn bệnh và lợn khỏe trong cùng một ô chuồng. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu
khi bú sữa mẹ, nuốt phải trứng bám ở đầu vú lợn mẹ.
Lây nhiễm gián tiếp: dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc… cũng là tác
nhân mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm
giun T. suis từ lợn bệnh sang lợn khỏe, từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Ngoài ra, ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn trứng
giun theo bụi, mang trứng giun T. suis từ chuồng này sang chuồng khác gây
phát tán mầm bệnh.
* Điều kiện vệ sinh thú y
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [20]: Các cơ sở chăn nuôi có điều kiện vệ
sinh kém lợn bị nhiễm bệnh với tỷ lệ cao, gây thiệt hại đáng kể cho đàn lợn con.
* Tuổi mắc bệnh
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963) [27], bệnh thường xảy ra nặng nề đối với
lợn con dưới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn trưởng thành nhiễm giun T. suis nhẹ
hơn, ít thể hiện các triệu chứng lâm sàng.
Theo Lương Văn Huấn và cs (1990) [8] cho biết, tỷ lệ nhiễm giun T.
suis theo tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4 %
Từ 3 - 4 tháng tuổi nhiễm 21,2 %
Từ 5 - 6 tháng tuổi nhiễm 8,5 %
Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4 %.
10
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [19], tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn
theo tuổi ở Hà Nội như sau: Lợn từ 2 - 6 tháng tuổi nhiễm 4,3 - 30 %, lợn trên
6 tháng tuổi nhiễm 0,56 - 7,8 %.
* Mùa vụ
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [19], bệnh giun T. suis lây nhiễm
quanh năm nhưng tập trung từ mùa xuân tới mùa thu. Mùa đông, thời tiết
lạnh, độ ẩm thấp, không thích hợp cho trứng phát triển thành dạng trứng cảm
nhiễm nên tỷ lệ nhiễm giun T. suis trong đàn lợn giảm đi.
* Vùng mắc bệnh
Theo Nguyễn Đăng Khải (1996) [10], tỷ lệ nhiễm T. suis ở 7 vùng kinh
tế như sau:
1. Trung du và miền núi Bắc Bộ
+ Trung du: 29,8 %
+ Miền núi: 27,8 %
2. Đồng bằng sông Hồng: 24,8 %
3. Bắc Trung Bộ: 13,9 %
4. Nam Trung Bộ:
+ Đồng bằng: 17,5 %
+ Miền núi: 34,7 %
5. Tây Nguyên: 20,8 %
6. Tây Nam Bộ: 9,4 %
7. Đông Nam Bộ: 13,1 %
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [18], bệnh giun T. suis ở lợn phân bố
trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, bệnh cũng đã được phát hiện ở tất cả các
tỉnh miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Ở Hà Nội, lợn bị nhiễm T. suis từ
4,3 - 30 % (ở lứa tuổi từ 2 - 6 tháng) và 0,56 - 7,8 % (ở lứa tuổi trên 6 tháng).
* Phương thức chăn nuôi
Giun tròn T. suis là loài phát triển trực tiếp nên tỷ lệ nhiễm trong đàn
lợn là rất cao, lên đến 100 %. Còn những loài giun sán phải qua ký chủ trung
gian thì tỷ lệ nhiễm phụ thuộc vào điều kiện đất đai, thức ăn trồng ở nước hay
ở cạn, sự tồn tại của ký chủ trung gian và điều kiện vệ sinh chăn nuôi (dẫn
theo Trịnh Văn Thịnh và cs, 1978) [29].
11
Mổ khám 57 lợn và xét nghiệm 1000 mẫu phân lợn tại xã Yên Nguyên
(Tuyên Quang) cho biết: Tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn ở lợn thả rông là 47 %
(dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs, 1978) [29].
* Yếu tố stress
Các yếu tố stress (chuồng trại chật chội, thức ăn kém dinh dưỡng, nhiệt
độ, ẩm độ môi trường thay đổi…) đóng vai trò thúc đẩy mức độ và tốc độ lây
lan bệnh giun T. suis ở lợn.
2.1.2.2. Cơ chế sinh bệnh
* Vị trí gây bệnh
Giun T. suis ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt là manh tràng
và kết tràng (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [13].
* Đường xâm nhập
Bệnh lây nhiễm qua đường tiêu hóa do lợn nuốt phải trứng cảm
nhiễm lẫn trong thức ăn, nước uống (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2009 [19]).
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2012) [17] cho biết: Bệnh giun T. suis lây
nhiễm trực tiếp không qua vật chủ trung gian. Trứng cảm nhiễm xâm nhập
vào cơ thể vật chủ qua đường tiêu hóa do lợn ăn phải thức ăn, nước uống
có lẫn trứng giun T. suis.
* Đường bài xuất mầm bệnh
Lợn mắc bệnh sau một thời gian bài xuất trứng theo phân ra ngoài ngoại
cảnh. Vì vậy, trứng được phát triển rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình phát
triển bắt đầu để tạo thành trứng cảm nhiễm (trứng có ấu trùng bên trong).
* Cơ chế sinh bệnh
Giun T. suis có phần đầu nhỏ, dài, phần này cắm sâu vào niêm mạc ruột
gây tổn thương, mở đường cho vi khuẩn gây bệnh vào cơ thể ký chủ. Trong
quá trình sống, giun T. suis tiết độc tố và thải cặn bã làm con vật trúng độc.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13]: Giun T. suis lấy dịch tổ
chức niêm mạc ruột để sống gây ra hiện tượng xuất huyết, viêm ruột và dẫn
đến ỉa chảy.
Ngoài tác động chiếm đoạt dinh dưỡng của lợn, giun T. suis còn gây tác
hại nặng nề cho lợn.
12
- Tác hại cơ giới: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13], Phạm
Sỹ Lăng và cs (2006) [18], phần đầu của giun T. suis cắm sâu vào thành ruột
gây tổn thương, làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết, gây rối loạn
tiêu hóa, làm cho lợn có hội chứng hồng lỵ.
- Tác hại mang trùng: Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [6], giun T.
suis ký sinh gây tổn thương, tạo điều kiện cho các nhân tố khác xâm nhập.
Nhân tố gây bệnh kế phát là xoắn khuẩn và phẩy khuẩn.
- Tác hại tiết độc tố: Độc tố là những sản phẩm mà giun T. suis bài tiết
ra làm cho ký chủ trúng độc, gầy còm, thiếu máu, gây rối loạn tiêu hóa.
2.1.2.3. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích
* Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của bệnh thay đổi tùy thuộc vào tuổi con vật và
số lượng giun T. suis ký sinh trong cơ thể lợn. Ở những lợn trưởng thành
không thấy biểu hiện triệu chứng lâm sàng nhưng khi kiểm tra phân lợn mới
thấy lợn nhiễm giun T. suis.
Theo Skrjabin K.I. (1979) [36], triệu chứng bệnh giun T. suis phụ thuộc vào
cường độ nhiễm. Khi nhiễm nặng lợn có biểu hiện da khô, xù lông, ỉa chảy rồi bị
táo bón…
Lợn trưởng thành nhiễm giun T. suis thường không thể hiện rõ các triệu
chứng lâm sàng. Lợn con ở các lứa tuổi 2 - 4 tháng bị nhiễm giun xuất hiện
các dấu hiệu: Ỉa chảy, lúc đầu phân lỏng sau phân sệt có nhiều dịch nhày như
mũi, lẫn máu. Mỗi lần thải phân lợn bệnh phải cong lưng để rặn, nhưng phân
chỉ ra rất ít. Các triệu chứng trên giống như lợn bị kiết lỵ. Nếu không được
điều trị kịp thời lợn con sẽ bị kiệt sức rồi chết sau 6 - 10 ngày. Lợn bị bệnh
mãn tính còi cọc, thiếu máu, tăng trọng giảm.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [17]: Khi nhiễm nhẹ thì triệu trứng
không rõ, khi nhiễm nặng thì con vật ăn kém, gầy yếu, thiếu máu, tiêu chảy,
trong phân có lẫn máu và những mảnh niêm mạc ruột bị bong tróc. Con vật có
khi bị kiết lỵ, đi ngoài liên tục nhưng mỗi lần đi rất ít phân, phân lẫn máu và
chất nhày. Bệnh thường thấy ở lợn con, lợn mẹ và lợn 6 tháng tuổi trong giai
đoạn vỗ béo thì rất ít bị bệnh.
13
* Bệnh tích
Theo Rutter J. M và cs (1974) [44], khi mổ khám những lợn con bị
bệnh T. suis thấy: Viêm ruột tăng lên trong hầu hết các trường hợp, thành ruột
già dày lên và phù thũng, trong ruột chứa chất nhày, máu và các tế bào hoại tử
bong ra từ lớp niêm mạc.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [30], khi lợn bị nhiễm bệnh giun T. suis
nặng, toàn bộ manh tràng xuất huyết màu hồng sẫm. Niêm mạc ruột bong ra.
Phạm Sỹ Lăng (2009) [19] mổ lợn bệnh thấy: Niêm mạc ruột bị viêm, xuất
huyết. Trên niêm mạc có nhiều giun trưởng thành cắm sâu vào niêm mạc ruột.
Đào Trọng Đạt và cs (1996) [6] cho biết: Về mặt tổ chức học, giun
T. suis ký sinh gây viêm niêm mạc, thâm nhiễm tế bào, hình thành nhiều
vết loét và tạo nhiều niêm dịch.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [17]: Lợn bị bệnh giun T. suis xác
chết gầy, có nhiều giun T. suis ở ruột già (nhất là manh tràng). Một số giun
T. suis vẫn cắm sâu vào niêm mạc ruột, phải kéo mạnh mới lấy ra được.
Trên niêm mạc ruột có những lỗ loét to bằng hạt đậu xanh. Khi bị nhiễm
nặng, toàn bộ ruột già có giun T. suis ký sinh dày đặc, niêm mạc ruột sần
sùi, xuất huyết, lớp chất nhầy trên niêm mạc có màu hồng sẫm. Niêm mạc
ruột có thể bị bong tróc từng mảng.
2.1.2.4. Chẩn đoán bệnh giun T. suis ở lợn
Việc chẩn đoán bệnh giun T. suis ở lợn có thể dựa vào đặc điểm
dịch tễ, triệu chứng lâm sàng của bệnh, xét nghiệm phân lợn và kiểm tra
bệnh tích.
* Với gia súc sống
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13], để chẩn đoán bệnh có thể
áp dụng hai phương pháp là chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ
và chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm gồm: Nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định tính nhằm xác định có hoặc không
có giun T. suis ký sinh. Đây là phương pháp thông dụng để nghiên cứu tình
hình nhiễm giun T. suis ở lợn. Nghiên cứu định lượng nhằm xác định lượng
14
trứng trong phân để đánh giá mức độ nhiễm và hiệu quả của một số thuốc
tẩy giun.
Phương pháp chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ: Những
biểu hiện lâm sàng cần chú ý là lợn ăn kém, gầy yếu, da khô, lông xù, ỉa chảy,
tình trạng vệ sinh thú y… Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các đặc điểm nói trên để
chẩn đoán thì sẽ không chính xác. Bởi vì các bệnh ký sinh trùng thường có
những triệu chứng lâm sàng tương tự nhau (rối loạn tiêu hóa, thể trạng gầy, da
khô, lông xù…). Vì vậy, để chẩn đoán chính xác bệnh phải tiến hành xét
nghiệm phân tìm trứng giun T. suis.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [20], có 4 phương pháp xét nghiệm
phân: Phương pháp trực tiếp, phương pháp Fullerborn, phương pháp Darling
và phương pháp Cherbovick.
- Phương pháp trực tiếp
Dùng đũa thủy tinh lấy 1 mẫu phân bằng hạt đậu của con vật định xét
nghiệm, để mẫu phân lên phiến kính sạch, nhỏ 1 - 2 giọt glycerin 50 % vào
mẫu phân. Nghiền nát phân trong glycerin và gạt cặn bã ra 2 đầu phiến kính.
Phân được dàn mỏng trên phiến kính và kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm
trứng giun tròn.
- Phương pháp phù nổi (Fulleborn)
Nguyên lý: Dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng của dung dịch muối
NaCl bão hòa lớn hơn tỷ trọng của trứng giun. Trứng sẽ nổi lên trên, ta có thể
tìm thấy trứng giun dưới kính hiển vi, độ phóng đại 100 hoặc 400.
Cách pha dung dịch muối bão hòa: Cho 380 g muối NaCl vào 1 lít
nước sôi, khuấy đều đến khi muối không tan được nữa, khi để nguội trên bề
mặt có lớp muối kết tinh là được. Lọc qua vải màn hoặc bông, bỏ cặn.
Cách xét nghiệm phân: Dùng đũa thủy tinh lấy 1 mẫu phân khoảng 5 - 10
gam của con vật cần xét nghiệm, chẩn đoán. Để phân vào cốc (nên dùng cốc
nhựa) cho tiếp nước muối bão hòa vào cốc với lượng thể tích gấp 10 lần khối
lượng phân. Dùng đũa thủy tinh khuấy nát phân và lọc qua phễu lọc vào lọ tiêu
bản. Cặn bã bỏ đi, dung dịch lọc được giữ lại.
15
Sau khi đã để yên từ 15 - 20 phút, dùng vòng vớt lớp váng phía trên
mặt dung dịch để lên phiến kính sạch, đậy lá kính và kiểm tra dưới kính hiển
vi tìm trứng giun tròn.
- Phương pháp Darling
Nguyên lý: Dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng giữa dung dịch NaCl bão
hòa và trứng giun, đồng thời lợi dụng lực ly tâm để phân ly trứng giun T. suis
nhẹ hơn ra khỏi phân. Khi đó, dùng vòng sắt vớt lớp váng phía trên ta sẽ tìm
được trứng giun.
Cách xét nghiệm: Lấy khoảng 5 - 10 gam phân của con vật cần chẩn
đoán, để vào một cốc nhựa. Cho vào đó một lượng nước sạch gấp khoảng 10 lần
thể tích khối lượng phân, dùng đũa thủy tinh khuấy tan phân và lọc qua phễu lọc
vào các ống ly tâm, cặn bã bỏ đi. Sau đó ly tâm dung dịch phân với tốc độ 3000
vòng /phút từ 3 - 5 phút. Đổ bỏ lớp nước phía trên và giữ lại cặn trong các ống ly
tâm. Sau đó cho nước muối bão hòa váo ống ly tâm bịt miệng ống và lắc đều cho
cặn bã hòa đều trong dung dịch, tiến hành li tâm lần 2 với thời gian và tốc độ
như trên, dùng vòng vớt để vớt lớp váng nổi trên bề mặt, đặt lên các phiến kính
sạch, đậy lá kính, kiểm tra dưới kính hiển vi tìm trứng giun.
- Phương pháp Cherborvich:
Phương pháp này hoàn toàn giống phương pháp Darling, chỉ khác dung
dịch bão hòa sử dụng là MgSO
4
.
Thường dùng để chẩn đoán, xét nghiệm phân tìm trứng giun tròn có tỷ
trọng cao (khi có ấu trùng bên trong). Cách tiến hành tương tự như phương
pháp Darling nhưng dùng dung dịch MgSO
4
bão hòa có tỷ trọng cao hơn
nước muối (NaCl) bão hòa để làm nổi những trứng đã hình thành ấu trùng bên
trong khi theo phân ra ngoài.
* Với lợn chết
Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) [33], đối với nhiều bệnh giun sán,
phương pháp chẩn đoán khi con vật chết là chính xác nhất. Việc chẩn đoán
bệnh giun T. suis được tiến hành qua phương pháp mổ khám, kiểm tra bệnh
tích ở ruột già và tìm giun T. suis. Khi phát hiện nhẹ nhàng lấy giun ra và để
chết tự nhiên trong nước sạch, sau đó bảo quản trong dung dịch Barbagallo
(dung dịch Barbagallo gồm 30 ml Formol; 7,5 g NaCl; nước cất 1000 ml) và
có ghi nhãn đầy đủ.
16
2.1.2.5. Biện pháp phòng và trị bệnh giun T. suis cho lợn
* Biện pháp phòng bệnh
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [21], biện pháp hữu hiệu để phòng
chống bệnh giun sán ở gia súc là biện pháp phòng trừ bệnh tổng hợp, nghĩa
là ở những vùng sinh thái nhất định, đồng thời sử dụng nhiều biện pháp có
hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn phát triển của giun sán, ở môi trường
cũng như trong cơ thể vật chủ.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [18], để phòng bệnh T. suis cần thực
hiện tốt các biện pháp sau:
Vệ sinh chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng nuôi để hạn chế sự
phát tán trứng giun, kết hợp với sử dụng hóa chất phun vào chuồng trại theo định
kỳ như: Dung dịch NaOH 2 %, Cresyl 3 %, nước vôi 10 % để diệt trứng giun.
Việc phòng bệnh giun T. suis nói riêng và các bệnh ký sinh trùng nói
chung có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả trong việc
phòng ngừa bệnh T. suis, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn, giảm
thiệt hại kinh tế chúng ta cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
- Vệ sinh chuồng trại, thiết bị sạch sẽ. Không sử dụng chung các dụng
cụ chăn nuôi khi chưa qua khử trùng. Cơ sở chăn nuôi phải được xây ở nơi
cao ráo, có nhiều ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp. Chuồng trại khi xây dựng
phải đảm bảo đông ấm, hè mát.
- Ở các cở sở bị ô nhiễm, có thể sử dụng những hóa dược đặc hiệu tẩy
dự phòng cho lợn nái trước khi sinh và cho lợn từ 2 - 4 tháng.
- Chất thải từ đàn gia súc phải được thu gom ủ phân để diệt trứng giun.
Hiện nay có hai phương pháp ủ đó là ủ yếm khí (biogas) và ủ hiếu khí (ủ phân
compost), khi ủ phân nhiệt độ trong hố ủ có thể lên đến 75
o
C làm cho trứng
giun sán bị chết.
- Thường xuyên có biện pháp tiêu diệt côn trùng, chuột và động vật
hoang dã vì chúng là những động vật môi giới mang mầm bệnh phát tán trong
tự nhiên.
- Không nuôi chung lợn ở nhiều lứa tuổi khác nhau trong cùng một khu vực.
- Thức ăn phải đảm bảo về chất lượng, nước uống sạch sẽ.
- Có kế hoạch tẩy giun T. suis định kỳ cho lợn.