Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu ứng dụng Kit chẩn đoán và thử nghiệm phác đồ điều trị hiệu quả bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





HỨA VĂN TRUNG



Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KIT CHẨN ĐOÁN VÀ
THỬ NGHIỆM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ HIỆU QUẢ
BỆNH TIÊN MAO TRÙNG
(Trypanosomiasis)
Ở TRÂU
TẠI HUYỆN SƠN DƯƠNG - TỈNH TUYÊN QUANG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Chăn nuôi Thú y
Khoa : Chăn nuôi Thú y
Khoá : 2010 - 2014
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Phạm Thị Trang






Thái Nguyên, 2014


1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh tiên mao trùng hay còn gọi là bệnh ký sinh trùng ở trâu, bò và
nhiều động vật khác. Trâu, bò mắc bệnh cấp tính thường sốt cao 41 -
41,7
o
C với các triệu chứng thần kinh như ngã quỵ, kêu rống, đi vòng
tròn… Trâu, bò bệnh sẽ chết sau 7 – 15 ngày. Ở thể mạn tính các triệu
chứng lâm sàng nhẹ hơn và bệnh kéo dài 1 – 2 tháng, con vật ngày càng
gầy, sốt gián đoạn, da khô mốc, thiếu máu kéo dài, viêm giác mạc, phù
thũng 4 chân… Trường hợp bệnh nặng, con vật đột ngột sốt cao, bụng
chướng to rồi lăn ra chết. Vì vậy, cần có những nghiên cứu chẩn đoán
bệnh tiên mao trùng trên đàn trâu, bò bằng nhiều phương pháp để xác
định thực trạng nhiễm bệnh, từ đó thử nghiệm các phác đồ điều trị thích
hợp và hiệu quả.
Tuyên Quang là tỉnh có địa hình khá phức tạp, nhiều đồi núi và
thung lũng, khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết nóng ẩm mưa nhiều là
điều kiện thuận lợi cho ruồi trâu và mòng (vật môi giới truyền bệnh tiên
mao trùng) phát triển. Chúng hút máu, truyền mầm bệnh tiên mao trùng
từ trâu, bò bệnh sang trâu, bò khoẻ, làm cho bệnh tiên mao trùng lây lan,
gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi.

Với sự phát triển của ngành công nghệ sinh học ở nước ta hiện nay,
nhiều phương pháp hiện đại đã được nghiên cứu, ứng dụng sinh học phân
tử, trong chẩn đoán bệnh ở gia súc, gia cầm. Trong đó, có phương pháp
ứng dụng Kit chế tạo theo nguyên lý CATT để chẩn đoán bệnh tiên mao
trùng trên gia súc.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi nhận thấy, cần thiết phải
nghiên cứu về bệnh tiên mao trùng, về biện pháp chẩn đoán nhanh và ứng
dụng phác đồ điều trị có hiệu quả nhằm giúp người chăn nuôi có những

2

hiểu biết cơ bản về cách phòng và trị bệnh, hướng tới mục tiêu cuối cùng
là hạn chế tới mức thấp nhất những hậu quả mà bệnh gây ra cho người
chăn nuôi. Từ mục đích trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
ứng dụng Kit chẩn đoán và thử nghiệm phác đồ điều trị hiệu quả bệnh
tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu tại huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được hiệu quả chẩn đoán bằng Kit CATT tự chế.
- Lựa chọn được phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng có hiệu quả,
phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở Tuyên Quang.
- Xây dựng được quy trình phòng, trị bệnh, góp phần hạn chế những
thiệt hại do bệnh tiên mao trùng cho đàn trâu ở huyện Sơn Dương – tỉnh Tuyên
Quang.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Đề tài ứng dụng Kit chẩn đoán chế tạo từ kháng nguyên tái tổ hợp
(sản phẩm khoa học công nghệ của đề tài cấp nhà nước) là hướng nghiên
cứu mới, ứng dụng công nghệ cao vào thực tiễn sản xuất tại Việt Nam.
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về độ nhạy, độ đặc

hiệu của Kit chẩn đoán và phác đồ điều trị bệnh TMT có hiệu quả cao.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để tiếp tục nghiên cứu sản xuất
kháng nguyên tái tổ hợp phục vụ chế tạo các bộ Kit chẩn đoán bệnh
TMT, đồng thời khuyến cáo cán bộ thú y và người chăn nuôi sử dụng Kit
chẩn đoán nhanh bệnh tiên mao trùng cho đàn trâu để có biện pháp điều
trị kịp thời.
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn sử
dụng phác đồ điều trị bệnh TMT cho trâu, bò có hiệu quả cao.

3

Phần 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU


2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Những hiểu biết về bệnh tiên mao trùng ký sinh ở trâu, bò
2.1.1.1. Phân loại tiên mao trùng ký sinh ở trâu, bò
Theo Levine và cs (1980) (dẫn theo Lương Văn Huấn và cs, 1997) [6],
vị trí của tiên mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào (Protozoa)
như sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Phân bộ Trypanosomatorida
Họ Trypanosomatidae Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843

Giống phụ Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Giống phụ Herpetosoma Donein, 1901
Loài Trypanosoma (H) leisi
Giống phụ Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi
Giống phụ Duttonella Chalmers, 1918
Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trvpanosoma (D) uniform
Giống phụ Nalmomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (N) congolense

4

Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Giống phụ Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Irypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Giống phụ Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Giống phụ Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi (Steel, 1885)
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài được tổ chức dịch tễ
quốc tế (OIE) thông báo là có khả năng gây bệnh cho người và động vật
có vú, đó là: T. brucei, T. congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T.
siminae, T. Vivax.
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng

Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [11] cho biết: Tiên mao trùng có
kích thước nhỏ: 18 – 34 x 2,5 µm, có hình mũi khoan, di động được trong
máu nhờ một roi tự do xuất phát từ phía sau thân, chạy vòng quanh thân
tạo thành một màng rung. Khi rung động roi tự do vung ra phía trước và
màng rung chuyển động giúp cho tiên mao trùng di chuyển rất nhanh trong
máu của vật chủ.
Tiên mao trùng T. evansi được xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ
là một tế bào, có kích thước nhỏ, chiều dài 18 - 34 µm (trung bình là 25
µm), chiều rộng 1,5 – 2 µm. Cơ thể có hình suốt chỉ mảnh hoặc hình thoi, cuối
thân nhọn. Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống như cấu trúc
của các loài tiên mao trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae. Cấu trúc từ
ngoài vào trong được chia thành 3 phần chính:

5

- Vỏ: ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ được chia làm 3 lớp
(lớp ngoài và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp
giữa). Lớp vỏ ngoài cùng được cấu tạo từ các phân tử glycoprotein luôn
biến đổi (Vanant Glycoprotein Surface -VGS). Tiếp giáp với lớp trong
cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc theo chiều dài thân tiên mao trùng.
Chính nhờ sự sắp xếp của các cặp vi ống nên tiên mao trùng có dạng hình
suốt chỉ mảnh (Hoare, 1972 [33]; Phạm Sỹ Lăng, 1982 [10]; Nguyễn Quốc
Doanh, 1999 [4]).
- Nguyên sinh chất: Gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh
chất có chứa các nội quan: Ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào
màu sáng, kinetoplast (thể cơ động), mitochrondno, reticulum (lưới nội bào)
và mạng lưới golgi.
- Nhân: Nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình
trứng. Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể.
Ngoài nhân, về phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa AND (KADN).

Từ kinetoplast có một roi chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ
thể thành một roi tự do. Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống
lớp vỏ của thân. Trong roi có 9 cặp vi ống ở xung quanh và một cặp ở trung
tâm, xếp song song dọc chiều dài roi (Hoare, 1972 [33]; Nguyễn Quốc
Doanh, 1999 [4]).









6



Hình 2.1: Cấu tạo của Trypanosoma
A - roi trước; B - Các khung tế bào phức tạp tiềm ẩn; C - Nhân; D -
Ty thể; E - Các kinetoplast (bộ gen ti thể); F - Thể đặc; G - Túi roi; H -
Phần thân chính; I - Golgi; J - Lưới nội sinh chất. K - Màng nhấp nhô. L -
Tập tin đính kèm của roi vào màng nhấp nhô. M - Chỗ tiếp xúc roi với thân
(Dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan, 2011 [7]).
2.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma evansi
Kháng nguyên của T. Evansi gồm 2 loại: kháng nguyên ổn định
(kháng nguyên không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi.
* Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phần lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến đổi
trong quá trình sống ký sinh. Bằng phương pháp điện di miễn dịch huyết

thanh thỏ tối miễn dịch với T. evansi. Người ta đã phát hiện tới 3 thành
phần kháng nguyên không biến đổi ở màng nguyên sinh chất tế bào (ISG:
Invanant Surface Glycoprotein): ISG 65, ISG 75 và ISG 100. Do cấu trúc

7

không gian ba chiều và đặc tính ưa nước, các loại này không kết hợp với
kháng thể của vật chủ.
* Kháng nguyên biến đổi
Về kháng nguyên biến đổi, cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt
VSG (Variant Surface Glycoprotein), những quan điểm mới về sự xuất
hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng và cơ chế di truyền của
kháng nguyên biến đổi.
Nhờ kháng thể đặc hiệu được đánh dấu mà Vickerman và Luckins
(1969) đã phát hiện ra sự biến đổi của lớp kháng nguyên bề mặt. Cross
(1975) đã mô tả lớp áo bề mặt của tiên mao trùng có thành phần là
glycoprotein bao phủ toàn bộ bề mặt tế bào bằng một lớp phân tử giống
nhau (mỗi tiên mao trùng có 107 phân tử). Lớp áo bề mặt này kích thích cơ
thể vật chủ tạo ra kháng thể đặc hiệu với từng type kháng nguyên biến đổi
VAT (Variable Antigen Type). Chỉ có kháng nguyên biến đổi mới có khả
năng kích thích vật chủ tạo miễn dịch chủ động. Người ta ước lượng rằng,
một con tiên mao trùng có ít nhất vài trăm hoặc vài nghìn VSG, nghĩa là 5 -
10% số gen của tiên mao trùng cung cấp cho kháng nguyên bề mặt này.
Nhiều tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng
biến đổi kháng nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ.
Những quan điểm này là hoàn toàn mới để lý luận về sự xuất hiện kháng
nguyên biến đổi của tiên mao trùng. Như vậy, quan điểm về sự biến đổi
kháng nguyên lớp vỏ của tiên mao trùng cho đến nay vẫn chưa thống nhất.
* Cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi
Khi kháng thể đặc hiệu kết hợp với phân tử của kháng nguyên bề mặt

(VSG), làm tiêu tan tiên mao trùng thì đó cũng là nguyên nhân chính thúc
đẩy sự hoạt hoá của gen. Kết quả là các phân tử kháng nguyên VSG được
thay đổi hoàn toàn bằng các phân tử VSG mới. Lúc này, kháng thể đặc hiệu
lúc trước đã không còn tác dụng đối với kháng nguyên mới này.

8

Theo Barry và Tumer (1991) [26], Vanhamme và cs (1995) [45], các
VSG được mã hoá nhờ các gen chuyên biệt. Từ kho chứa hàng nghìn đến
khác nhau, một gen VSG được hoạt hoá một cách chọn lọc, dẫn đến tổng
hợp ra một loại kháng nguyên VSG. Mỗi bên VSG mới tạo ra một loại
kháng nguyên VSG mới. Trong bộ gen của tiên mao trùng tồn tại một số
lớn gen VSG, các gen này sử dụng nhiều cơ chế sắp xếp khác nhau, do vậy
tiên mao trùng đã tạo ra nhiều VSG khác nhau ở gia súc bị bệnh mãn tính.
Cơ chế biến đổi kháng nguyên theo 2 cách: Cách thứ nhất là, sử dụng lần
lượt các điểm biểu hiện trên (expression side) khác nhau, không có sự sắp
xếp của ADN. Các điểm biểu hiện khác nhau sẽ mang các gen VSG khác
nhau, sự luân phiên này dẫn đến sự thay đổi type kháng nguyên. Cơ chế
này quan sát được chủ yếu ở giai đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm. Có lẽ
ở giai đoạn đầu này chưa có đáp ứng miễn dịch của vật chủ đối với VSG,
chính điều này không gây ra một cản trở hoạt hoá tự nhiên của các điểm
biểu hiện gen này. Cách thứ hai là, tập hợp lại các đoạn ADN khác nhau để
tái tổ hợp gen, mà việc tái tổ hợp này cho phép thay thế hoàn toàn hoặc
từng phần gen; hoặc việc thay thế diễn ra dựa vào sự chuyển đổi gen chứ
không phải dựa vào tái tổ hợp gen. Trường hợp này được diễn giải như sau:
Một gen hoạt hoá được thay thế bằng bản sao chép của một gen khác. Do có
sự thay thế một phần của gen nên đã tạo ra loại gen phức hợp và đặc trưng.
* Đặc tính của kháng nguyên
Các kháng nguyên bề mặt tạo thành các type biến đổi (Variable
Antigenic Type - VAT) khác nhau giúp cho tiên mao trùng trốn tránh được

hệ thống miễn dịch của vật chủ. Khi con vật mắc bệnh sẽ thấy hiện tượng
sốt hồi quy thể hiện đồ thị hình sin. Ở pha lên (Asending phase) tiên mao
trùng sẽ có type kháng nguyên giống nhau gọi là homotype. Hệ thống miễn
dịch của vật chủ sẽ nhận ra kháng ngyên này và sản sinh ra kháng thể. Lúc
này hiện tượng kháng thể tương đồng tăng lên sẽ xuất hiện cùng với hiện

9

tượng tiên mao trùng giảm xuống, ở đồ thị quá trình này được biểu hiện
bằng pha đi xuống (Descending phase). Tuy nhiên một phần VAT còn lại
sẽ biến đổi và nhân lên tạo thành heterotype mới mà kháng thể lúc trước
không còn khả năng nhận ra nó. Cơ chế đáp ứng miễn dịch như trên lại
được lặp lại theo chu kỳ 10 - 12 ngày một ngày dẫn đến hiện tượng sốt
cách nhật 10 - 12 ngày ở gia súc bị bệnh.
2.1.2. Dịch tễ học bệnh tiên mao trùng
2.1.2.1. Phân bố của bệnh tiên mao trùng
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía Tây sang phía Đông
bán cầu. Phía Tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía Đông bán cầu trải dài từ
châu Phi cho đến Philippine.
Theo Davison (1999) [30] bệnh phổ biến ở trâu, bò, ngựa các nước
nhiệt đới ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ.
Ở châu Phi, bệnh trải dài từ Tây sang Đông, phía Bắc qua vùng sa mạc
Sahara, dọc theo bờ biển Atlantique Địa trung hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra” ở Ả rập Saudi,
Yêmen, Sultanate, Ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie,
Afganistan, Pakistan.
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ,
Malaysia, bán đảo Đông Dương, Trung Quốc, Indonexia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã được thanh toán), hiện
chỉ còn ở vùng Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).

Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến ở
Brazil, Mexico, Venezuela, Colombia.
Châu Úc cũng đã được xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid, 2002
[39]; Losos G. T., 1972 [35]) cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến nhất
ở châu Á và châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonexia, Thái
Lan, Lào, Camphuchia, Iran, Philippine.

10
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái
khác nhau: Miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng
(1982) [10], bệnh tiên mao trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò
nhiễm bệnh với tỷ lệ cao và thay đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở
đồng bằng nhiễm tiên mao trùng cao hơn vùng trung du và miền núi, đặc
biệt ở trâu, bò có nguồn gốc từ miền núi chuyển xuống vùng đồng bằng).
2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và
thú hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hươu, nai, hổ,
báo, sư tử, chó, mèo, lạc đà, voi, thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch ,
nhưng không ký sinh ở người.
Sự lây truyền tiên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là nhờ
các loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng hút
máu (thuộc họ Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh, sẽ
truyền tiên mao trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự lây truyền này
mang tính chất cơ học. Như vậy, ruồi và mòng hút máu là những vật môi
giới truyền bệnh tiên mao trùng quan trọng.
Theo Phan Địch Lân (1974) [12], Phan Địch Lân (1994 - 2004) [13],
phần lớn các loài mòng tập trung ở khu vực miền núi và trung du. Trong 53
loài mòng thì có tới 44 loài phân bố ở vùng rừng núi có độ cao dưới 1.000 mét
so với mặt nước biển, càng lên cao số loài càng ít dần (độ cao trên 1.000 mét

chỉ có 26 loài). Ở vùng trung du (rừng thưa, độ cao không quá 500 mét so với
mặt nước biển) có 27 loài; vùng đồi trọc chỉ có 9 - 11 loài; vùng rừng núi ven
biển phát hiện chỉ có 8 loài. Những loài mòng phổ biến ở tất cả các vùng là:
Tabanus rubidus, T. striatus, Chrysops dispar, Chrysozoma assamensis.
Những loài mòng chỉ gặp ở vùng núi là: Tabanus flavistriatus, T.
fumifer, Chrysops vander. Miền Bắc nước ta có 4 loài ruồi hút máu, 2 loài

11
phổ biến ở tất cả các vùng là Stomoxys calcitrans và Liperosis exigua; 2 loài
chỉ thấy ở những vùng sinh cảnh đặc biệt: loài Bdellolarynx sanguinolentus
(chỉ xuất hiện ở vùng có độ cao dưới 1.000mét), loài Stomoxys indica (chỉ
thấy ở vùng núi Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá).
Phan Địch Lân (1994 - 2004) [13] cho biết, kiểm tra ở nhiều địa điểm
thấy hai loài mòng T. rubidus và T. striatus mang tiên mao trùng với tỷ lệ
15,20% và 14,00%; ruồi hút máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao trùng
với tỷ lệ 12,50%. Ở những vùng đang có bệnh tiên mao trùng, kiểm tra ruồi
và mòng hút máu dễ dàng tìm thấy tiên mao trùng. Sau khi theo máu vào vòi
hút ruồi và mòng, tiên mao trùng vẫn sống đến giờ thứ 53, thời gian hoạt
động mạnh nhất là từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 34 trung bình là 24 giờ. Sự
hoạt động của tiên mao trùng yếu dần từ giờ thứ 35 đến 42. Từ 46 - 53 giờ
thì tiên mao trùng ngừng hoạt động.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo
thời gian: từ 1 - 34 giờ có hình thái, kích thước bình thường; 35 - 45 giờ;
tiên mao trùng có hình dạng thay đổi, tăng kích thước chiều rộng và thô
dần; 46 - 53 giờ; tiên mao trùng trương to, duỗi thẳng, mất khả năng di
động và ngừng hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh khả năng gây bệnh của tiên mao trùng
sau khi xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus như sau: Thời gian từ giờ thứ
1 đến thứ 5, tiên mao trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch
tương tự như khi truyền thẳng máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ

6 đến thứ 7 chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm phát bệnh, thời gian gây bệnh
kéo dài và thời gian chết của chuột cũng dài. Điều này có thể giải thích là
do độc lực của tiên mao trùng giảm dần và số lượng tiên mao trùng còn
hoạt lực gây bệnh cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập vào mòng
Tabanus rubidus. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Phạm Sỹ Lăng
(1982) [10] cho rằng, thời gian xâm nhập của tiên mao trùng càng lâu thì tỷ

12
lệ gây bệnh càng giảm, điều này có thể do giảm số lượng và độc tính của T.
evansi trong máu của mòng.
2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao trùng
và đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhược, thiếu máu, giảm sức
đề kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (1994 - 2004) [13] đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172 trâu
ở các tỉnh đồng bằng: trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,l%), trâu 3 -
5 tuổi nhiễm cao hơn (lo 6 - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất (12,9 -
14,8%), trâu trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm giảm thấp hơn trâu 3 - 8 năm tuổi.
Theo Phan Văn Chinh (2006) [1], tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao nhất
ở 4 - 8 năm tuổi (trâu: 12,71%; bò: 5,77%), thấp nhất là trâu, bò dưới 3
năm tuổi (6,92% và2,31%). Mùa lây lan bệnh thường xảy ra trong các
tháng nóng ẩm, thưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 9). Thời gian này điều
kiện sinh thái thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát triển, hoạt động mạnh.
Hút máu súc vật và truyền tiên mao trùng.
Theo Luckins (1988) [37], sự xuất hiện lượng lớn ruồi, mòng trong
mùa mưa nóng ẩm luôn có liên quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao
trùng ở trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân,
trâu bò nhiễm tiên mao trùng phải sống trong điều kiện thời tiết lạnh, thiếu
thức ăn nên sức đề kháng giảm, bệnh thường phát ra vào thời gian này và
trâu bò bị đổ ngã hàng loạt. Tiên mao trùng có sức đề kháng yếu, dễ chết

khi tiếp xúc với nước cất, cồn và thuốc sát trùng.
2.1.2.4. Cơ chế sinh bệnh tiên mao trùng
Sau khi xâm nhập vào cơ thể vật chủ, T. evansi vào máu sinh sản
nhiều bằng cách nhân đôi theo chiều dọc cơ thể, số lượng T. evansi sản sinh
ra độc tố làm giãn thành mạch gây xuất huyết ở niêm mạc và tăng thẩm
thấu gây hiện tượng thủy thũng. T. evansi còn tiết độc tố làm hệ thần kinh

13
bị trúng độc, chức năng điều hòa thân nhiệt bị rối loạn, con vật sốt, run rẩy,
bại liệt, cứng chân, lăn lộn điên cuồng trước khi chết. T. evansi còn ngăn
cản chức năng sản sinh hồng cầu của lách, tủy xương làm cho hồng cầu
giảm nhiều, máu nhạt màu và loãng. Mặt khác, khi hồng cầu giảm sút máu
thiếu huyết sắc tố khả năng vận chuyển O
2
và CO
2
giảm nên axit tích lại
trong máu gây hiện tượng trúng độc axit, khả năng chết càng cao.
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh
2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu,
bò, ngựa, tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da.
Theo có thể quan sát được phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò gây
nhiễm thực nghiệm tiên mao trùng, kích thước chỗ viêm phụ thuộc vào số
lượng tiên mao trùng được tiêm truyền (Ước chừng khoảng 10
8
tiên mao
trùng có thể gây viêm da ở vị trí tiêm truyền), một số lượng lớn tiên mao
trùng phát triển ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu, trong

bạch huyết và ở trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân chia
theo chiều dọc. Số lượng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào
cũng như nhau. Mật độ tiên mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng
tiên mao trùng cho thấy, xen kẽ giữa những sóng tiên mao trùng mạnh là
những đợt sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên mao trùng bắt đầu bằng sự tăng số
lượng tiên mao trùng trong máu, sau đó giảm và khó phát hiện thấy tiên
mao trùng. Mỗi đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là biểu hiện sự xuất
hiện một quần thể tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề mặt mới, quần
thể này có thể tiếp tục sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể
xuất hiện kháng thể đặc hiệu với chúng.
Tiên mao trùng phát triển nhanh trong máu, tiêu thụ Glucose và các
chất đạm, chất béo và khoáng chất trong máu ký chủ bằng phương thức

14
thẩm thấu qua bề mặt cơ thể để duy trì hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị
bệnh, trong 1 ml máu có thể có 10.000 - 30.000 tiên mao trùng. Với số
lượng nhiều như vậy, tiên mao trùng chiếm đoạt dinh dưỡng nhiều, làm cho
súc vật bệnh gây còm, thiếu máu và mất dần khả năng sản xuất sữa, thịt, mất
dần khả năng sinh sản và giảm sức đề kháng với các bệnh khác.
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra độc tố
Trypanotoxin, độc tố này gồm: độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng
thân trong quá trình sống và độc tố do xác chết của tiên mao trùng phân
huỷ trong máu sau 15 - 30 ngày. Độc tố của tiên mao trùng tác động lên hệ
thần kinh trung ương làm rối loạn trung khu điều hoà thân nhiệt, gây sốt
cao và gián đoạn (lúc sốt, lúc hết sốt xen kẽ nhau). Khi sốt thường có rối
loạn về thần kinh (kêu rống, run rẩy, ngã vật xuống). Độc tố cũng phá huỷ
hồng cầu, ức chế cơ quan tạo máu làm cho vật chủ thiếu máu và suy nhược
dần. Độc tố còn tác động tới bộ máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá, làm
con vật ỉa chảy. Hội chứng tiêu chảy thường xảy ra khi xuất hiện tiên mao
trùng trong máu con vật bệnh.

Khi tăng lên với số lượng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc
các mao mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ
thũng chất keo vàng dưới da.
2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò
Bệnh tiên mao trùng thường biểu hiện ở hai thể là thể cấp tính và thể mãn
tính, tuy nhiên trong thực tế thường gặp ở dạng mãn tính là chủ yếu.
+ Thể cấp tính: con vật vẫn béo tốt, đang đi làm đột nhiên bị ngã hoặc
không thể đi làm được nữa, sốt rất cao ở trâu, bò là 39
0
5 - 41
0
5, ở ngựa là
41
0
C – 42
0
C, con vật thở mạnh. Lúc này nếu lấy máu kiểm tra sẽ phát hiện
ra tiên mao trùng. Trong lúc sốt và sau cơn sốt con vật có hiện tượng bỏ ăn,
miệng cắn chặt, nước miếng chảy ra liên tiếp, đầu rủ xuống, nước mắt và nhử
mắt chảy rất nhiều, phân nhão có lẫn máu. Sau cơn sốt con vật gầy đi

15
rất nhiều, nếu không can thiệp kịp thì con vật co giật, giẫy dụa và chết
sau khoảng một vài giờ.
+ Thể mãn tính: triệu chứng ở trâu, bò nhiễm T. evansi thường không rõ
ràng, chúng có hiện tượng chung là gầy yếu và chỉ đến khi thời tiết rét, thức ăn
thiếu thốn, với lao tác nặng nhọc làm giảm sức đề kháng thì bệnh mới biểu
hiện lâm sàng rõ hơn. Lúc này con vật có biểu hiện sốt cách nhật, lông xù xì,
mắt có nhử, giác mạc viêm, hay chảy nước mắt, vùng bụng và chân sau bị phù
thũng. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2011) [8] cho biết: trâu, bò bị bệnh ở

thể mãn tính thường kéo dài, liệt hai chân sau, dần dần suy nhược rồi chết.
Nhưng trên thực tế có rất ít gia súc có biểu hiện đầy đủ các triệu
chứng lâm sàng, do vậy trong quá trình chẩn đoán ta có thể căn cứ vào các
biểu hiện triệu chứng lâm sàng sau:
- Sốt cao và gián đoạn: Sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mòng hút máu truyền
tiên mao trùng, trâu bò thường đột ngột lên cơn sốt (40 - 41,7
0
C) kéo dài 2
- 4 ngày rồi giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn
giữa hai cơn sốt dài hay ngắn tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt, kiểm tra
máu thường thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: Ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện hội
chứng thần kinh như điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tường, chạy vòng
quanh kêu rống lên. Trường hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn ngược rồi
đổ ngã vật xuống, sùi bọt mép giống như trâu bị cảm nắng. Sau 20 - 30 phút
con vật lại đứng dậy đi lại được. Những trâu bò mắc bệnh có triệu chứng lâm
sàng như trên thường là mắc bệnh ở thể cấp tính. Trâu, bò bị bệnh mạn tính
thường kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai chân sau, nằm tư thế quỳ và không đi
lại được. Mặc dù nằm liệt nhưng vẫn ăn và nhai lại cho đến khi sắp chết.
- Phù thũng dưới da: Phù thũng thường thấy ở vùng thấp của cơ thể như ở
bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh dục.
- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: Triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu,

16
bò bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sưng đỏ
ngầu. Khi khỏi bệnh, mắt có màng trắng (củi nhãn) kẻo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: Một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng,
màu vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy
tiếp theo những cơn sốt cách quãng. Ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng
thường dai dẳng và con vật vẫn ăn được.

- Gầy yếu, suy nhược: Ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ
sau 7 - 14 ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu
bệnh kéo dài thì con vật gầy xơ xác, lông dựng ngược, da khô nhăn nheo,
niêm mạc mắt nhợt nhạt, lông dễ rụng, dần dần suy nhược cơ thể nặng, mất
khả năng cày kéo và sinh sản. Nếu gặp điều kiện bất lợi như thiếu ăn, rét
mướt thì trâu, bò dễ chết. Trong thực tế, có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn
vẫn béo khoẻ, làm việc bình thường khi được chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Theo
Davison (1999) [30], số lượng hồng cầu và hàm lượng huyết sắc tố giảm,
số lượng bạch cầu tăng, thành phần bạch cầu thay đổi: bạch cầu lymphô,
bạch cầu ái toan tăng nhưng bạch cầu trung tính giảm, protein tổng số và
Albumin giảm rõ rệt.
2.1.3.3. Bệnh tích của bệnh tiên mao trùng

Trong quá trình ký sinh, T. evansi đã tiết ra độc tố Trypanosoma. Độc
tố này theo máu đi khắp cơ thể, tác động lên nội quan của vật bệnh, đặc
biệt là bộ máy tuần hoàn và gây ra một số bệnh tích đặc biệt. Ở gia súc
mắc bệnh, khi chết mổ khám thường thấy một số bệnh tích sau: Chủ yếu
là các tế bào gan bị hoại tử, bạch cầu đơn nhân thấm qua phế quản, tế
bào ống thận bị hoại tử và bong ra. Các hạch lâm ba bị sưng, niêm mạc
nhợt nhạt.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2011) [7] trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng
khi chết gầy xơ xác, mổ khám thấy có những biến đổi bệnh tích đại thể rõ

17
rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: Tim nhão, xoang bao tim tích nước vàng;
phổi xung huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan sưng to, nhạt màu; lách
sưng, mềm nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sưng và có tụ máu trong hạch; cơ
nhão, màu nhợt nhạt, nhát cắt rỉ nước; xoang ngực và xoang bụng tích dịch
màu vàng nhạt; có những đám keo nhầy vàng dưới vùng da thuỷ thũng.

2.1.4. Những phương pháp chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
2.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò,
ngựa không phải lúc nào cũng phát hiện được. Rất nhiều gia súc mang bệnh
nhưng khó phát hiện các triệu chứng đặc trưng, nhất là đối với những gia
súc mắc bệnh tiên mao trùng mãn tính. Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp
tính, các biểu hiện bệnh đặc trưng là sốt cao, bỏ ăn, có triệu chứng thần
kinh (điên loạn) và chết nhanh. Trâu bị bệnh mãn tính có thể thấy triệu
chứng: sốt gián đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm giác mạc, phù
thũng ở bụng và chân sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng, 1982 [10] ),
chứng sẩy thai có thể thấy ở trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng (Nguyễn Đăng
Khải, 1995 [6]).
Theo Damayanti R và cs. (1994) [29]: Trâu bệnh có những biểu hiện
gầy yếu, kém vận động, bỏ ăn. Khối lượng cơ thể giảm rõ rệt.
Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [11] cho biết: trâu, bò bị thiếu
máu và suy nhược suốt trong quá trình bị bệnh. Hồng cầu giảm thấp chỉ
còn 3 triệu/1mm
3
(trâu, bò khỏe: 5 - 6 triệu/1mm
3
).
Một số trâu, bò bệnh bị viêm kết mạc và giác mạc mắt: mắt đỏ, niêm
mạc sưng đỏ, chảy dử liên tục, kéo màng trắng ở giác mạc.
Khoảng 30% trâu, bò bệnh bị viêm ruột ỉa chảy kéo dài sau những cơn
sốt. Hầu hết trâu, bò bệnh bị suy nhược, mất dần khả năng sinh sản và giảm
sản lượng sữa 30 – 50%; chết do kiệt sức.

18
2.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phương pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí

nghiệm, mục đích là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng
trường hợp bệnh, tuỳ điều kiện mà có thể làm cùng lúc một số phương
pháp hoặc lựa chọn một phương pháp phù hợp và có độ chính xác cao.
* Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trực tiếp:
Muốn phát hiện tiên mao trùng trực tiếp, có thể áp dụng những
phương pháp sau:
- Phương pháp xem tươi (Direct smear)
Khi bệnh súc sốt, T. evansi thường xuất hiện trong mao quản ngoại vi;
vì vậy, nên lấy máu vùng ngoại vi để xem tươi. Cho 1 giọt máu nhỏ lên
phiến kính đã có sẵn 1 giọt Natri citrat 3,8%; dùng góc của la men khuấy
đều, đậy la men lên để máu dàn theo la men thành một lớp mỏng. Soi
dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 10 và 10 x 20) để phát hiện tiên
mao trùng sống.
- Phương pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky)
+ Phương pháp giọt dầy: Đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng
một góc của đầu một phiến kính khác ria tròn giọt máu với đường kính
khoảng 1 - 1,25 cm. Để khô tự nhiên trong khoảng 1 giờ, rồi cố định bằng
cồn Methanol, nhuộm Giemsa [1 giọt Giemsa + 1 ml dung dịch PBS
(Phosphat Buffered Saline) pH = 7,2] trong 25 phút. Rửa tiêu bản dưới vòi
nước chảy mạnh, để khô rồi soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100
hoặc 10 x 90).
Phương pháp này có nhược điểm là dễ làm tổn thương tiên mao trùng,
do đó khó phân biệt được các loài khác nhau trong trường hợp nhiễm nhiều
loài tiên mao trùng cùng một lúc.
+ Phương pháp giọt mỏng: Đặt 1 giọt máu cách 1 đầu phiến kính 2
cm, dùng la men ria máu thành một lớp mỏng. Để khô, cố định bằng cồn

19
Methanol trong 2 phút. Nhuộm Giemsa trong 25 phút (l giọt Giemsa + 1 ml
dung dịch PBS pH = 7,2). Rửa tiêu bản dưới vòi nước chảy mạnh, để khô,

soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x 90).
Ưu điểm của phương pháp giọt mỏng là có thể phân biệt được hình
thái các loài tiên mao trùng khác nhau.
+ Phương pháp làm tan hồng cầu: dung dịch SDS (Sodium Dodecyl
Sulfat) là chất làm tan hồng cầu. Nhờ dung dịch SDS, tiên mao trùng dễ
dàng được phát hiện trong máu. Dung dịch SDS rất độc nên tránh tiếp xúc
với da và tránh hút bằng pipet. Dung dịch SDS dễ bảo quản ở nhiệt độ
thường trong nhiều tháng (Van Meirvenne, 1989).
- Phương pháp tập trung tiên mao trùng:
Người ta đã sử dụng phương pháp ly tâm tập trung tiên mao trùng
bằng ống Haematocrit hoặc tách tiên mao trùng bằng gen DEAE -
cellulose.
Phương pháp ly tâm tập trung bằng ống Haematocrit (WOO, 1971):
cho máu động vật nghi mắc bệnh vào ống Haematocrit, một đầu ống được
bịt kín bằng chất dẻo matit, một đầu ống để hở. Ly âm với tốc độ 14.000
vòng/phút trong 5 phút. Sau đó kiểm tra sự tập trung của tiên mao trùng tại
vị trí tiếp giáp giữa huyết tương và hồng cầu (độ phóng đại 10 x 10).
Phương pháp này đơn giản, phát hiện tiên mao trùng tốt hơn phương
pháp xem tươi và nhuộm Giemsa. Song, tỷ lệ phát hiện chưa cao.
Với ống Haematocrit trên, có thể thực hiện phương pháp Darkground:
dùng cưa y tế cắt ống ở vị trí tiên mao trùng tập trung (ranh giới giữa huyết
tương và hồng cầu), nhỏ 1 giọt huyết tương lên phiến kính, đậy la men và
kiểm tra dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 40).
- Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm:
Đây là phương pháp phổ biến, hiệu quả, chính xác và thường được
ứng dụng nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Nam. Phương

20
pháp này có ưu điểm là chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy tiên mao
trùng sau khi nhân chúng lên trong động vật thí nghiệm mẫn cảm. Song,

nhược điểm của phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm là khi
cần chẩn đoán nhanh, với số lượng nhiều và thời gian ngắn thì phương
pháp này không thể đáp ứng được (Đoàn Văn Phúc và cs, (1981) [17]).
Laha R. và Sasmal N. K. (2009) [36] sử dụng phương pháp tiêm
truyền chuột thí nghiệm để xác định tỷ lệ nhiễm T. evansi trên trâu, bò và
ngựa ở khu vực phía Đông của Ấn Độ. Các tác giả đã phát hiện 18,4% số
bò; 15,6% số trâu và 46,9% số ngựa nhiễm T. evansi.
* Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học:
Bằng phương pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể hoặc kháng
nguyên tiên mao trùng. Đây là các phương pháp huyết thanh học đặc hiệu.
- Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu
chống lại tiên mao trùng. Những phương pháp sau cho phép phát hiện
kháng thể kháng tiên mao trùng trong máu vật chủ:
+ Phương pháp ngưng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination
Test): hoà tan 1 giọt huyết thanh gia súc nghi mắc bệnh vào 1 giọt nước
muối sinh lý trên phiến kính, sau đó cho 1 giọt máu chuột bạch có nhiều tiên
mao trùng vào, trộn đều, đậy la men và soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10
x 20 hoặc 10 x 40). Nếu thấy ngưng kết hình hoa cúc là (+) và ngược lại là (-).
Phương pháp này đơn giản, dễ làm và có thể áp dụng trên diện rộng.
+ Phương pháp LATEX (Latex Agglutination Test)
LATEX là phương pháp được dùng để phát hiện kháng thể lưu động
có trong máu của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý của phương pháp LATEX: khi kháng nguyên bề mặt T.
evansi gắn lên các hạt latex kết hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao
trùng ở trên bản nhựa, thì sẽ xảy ra phản ứng ngưng kết giữa kháng nguyên

21
với kháng thể. Hiện tượng ngưng kết có thể quan sát được bằng mắt
thường, và được giải thích là do kháng nguyên bề mặt tiên mao trùng được

gắn lên các hạt latex là loại kháng nguyên hữu hình, có nhiều điểm quyết
định tính kháng nguyên bề mặt (epitop surface). Còn kháng thể đặc hiệu
kháng tiên mao trùng lại có nhiều điểm thụ thể (receptor) tương ứng, đặc
hiệu với các điểm quyết định của kháng nguyên. Do đó, khi kháng nguyên
tiên mao trùng gặp kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ có hiện
tượng một phân tử kháng thể đặc hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng
nguyên và ngược lại. Kết quả là các hạt latex cùng với kháng nguyên chụm
lại, tạo thành đám ngưng kết có thể quan sát bằng mắt thường. Kháng
nguyên dùng cho phản ứng là kháng nguyên bề mặt được tinh chế từ chủng
T. evansi không nhuộm màu.
Phương pháp này có thể ứng dụng trong kiểm tra dịch tễ và có thể
ứng dụng ở cơ sở. Tuy nhiên tỷ lệ phát hiện bệnh không cao do phương
pháp này cho kết quả dương tính cả khi con vật khỏi bệnh nhưng vẫn còn
kháng thể tồn tại trong huyết thanh; mặt khác, đối với những súc vật mới
nhiễm bệnh TMT trong huyết thanh chưa có kháng thể nên khi kiểm tra
bằng phương pháp LATEX sẽ cho kết quả âm tính.
+ Phương pháp CATT (Card Agglutination Test for Trypanosomiasis)
Đây là phương pháp ngưng kết trực tiếp giữa kháng nguyên và kháng
thể trên bản nhựa, được dùng để phát hiện kháng thể lưu động trong máu
động vật nhiễm bệnh.
Nguyên lý: kháng nguyên TMT đã được nhuộm màu kết hợp với
kháng thể tạo thành những đám kết tủa li ti màu xanh.
Cách tiến hành: dùng ống hút 2,5 ml dung dịch buffer cho vào lọ
kháng nguyên chuẩn đã được nhuộm màu (CATT reagent), lắc đều. Cho
vào lọ kháng nguyên đối chứng (đối chứng dương, đối chứng âm) mỗi lọ
0,5 ml dung dịch buffer, lắc đều. Dùng micropipette pha loãng huyết thanh

22
theo tỷ lệ cần chẩn đoán (1/8). Cho các mẫu huyết thanh cần chẩn đoán đã
được pha loãng lần lượt vào các vòng tròn của bản CATT, cho kháng

nguyên đối chứng vào hai vòng tròn khác của bản, mỗi loại 1 giọt (tương
đương 45µl). Sau đó cho vào tất cả các vòng tròn trên bản CATT 1 giọt kháng
nguyên chuẩn. Dùng que nhựa trộn đều. Cuối cùng cho lên máy lắc 5 phút (60 -
70 lần/ phút) và đánh giá kết quả.
+ Phương pháp kháng thể huỳnh quang gián tiếp IFAT (Indirect
Fluorescent Antibody Test)
Phản ứng này là phản ứng huyết thanh học đặc hiệu có độ nhạy cao, được
ứng dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm và thực địa. Ngoài việc được dùng
làm phản ứng chuẩn để so sánh với các phương pháp huyết thanh khác, phương
pháp IFAT còn được dùng trong nghiên cứu các dòng kháng nguyên, phát hiện
kháng thể (Luckins, 1988 [37]; Davison, 1999 [30]).
Trong phương pháp IFAT, huyết thanh dương chuẩn được lấy từ trâu bò
mắc bệnh tiên mao trùng, huyết thanh âm chuẩn được lấy từ trâu bò khoẻ
mạnh, huyết thanh cần chẩn đoán là huyết thanh lấy từ gia súc nghi mắc bệnh.
Ứng dụng phương pháp này ở Việt Nam, Lương Tố Thu và cs (1994)
[22] đã chế tạo conjugate huỳnh quang trên thỏ kháng IgG của bò để chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng. Độ pha loãng của conjugate tự chế sử dụng cho
phản ứng là 1/8 và huyết thanh chuẩn pha loãng ớ 1/40. Theo Lương Tố
Thu và Lê Ngọc Mỹ (1996) [23], độ nhạy của phương pháp IFAT là 71,25.
Để tinh chế kháng nguyên T. evansi dùng trong phản ứng miễn dịch
huỳnh quang gián tiếp để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở trâu bò, Vương
Thị Lan Phương (2004) [19] đã nghiên cứu kháng nguyên bề mặt T. evansi
phân lập từ trâu, bò ở 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam và cho biết: đã thu được 6
mẫu tiên mao trùng từ 6 tỉnh, tiến hành phân dòng, phân VAT (Variable
Antigenic Type) và thu được 26 VAT thuộc 6 kho kháng nguyên khác
nhau. Bằng phản ứng dung giải miễn dịch và phương pháp thấm miễn dịch,

23
tác giả đã xác định được sự thay đổi kháng nguyên bề mặt của T. evansi: đa
số các VAT của các kho kháng nguyên khác nhau là khác nhau, chỉ có 8

VAT/26 VAT có hiệu giá kháng thể đơn giá đặc hiệu, có phản ứng chéo
với các VAT của các kho kháng nguyên khác. Các VAT trội xuất hiện sớm
trong 4 tuần lễ đầu nhiễm bệnh, có tính kháng nguyên mạnh có thể nghiên
cứu ứng dụng chế kháng nguyên chẩn đoán. Từ đó, tác giả đã tinh chế
kháng nguyên theo phương pháp tách tiên mao trùng để dùng trong phản
ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
+ Phương pháp ELISA (Enzym Linked Immunosorbent Assay)
Phương pháp ELISA là một trong những phương pháp hiện đại nhất
được ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý: dùng kháng thể hoặc kháng thể kháng Globulin (kháng kháng
thể) có mang một enzym (phosphatase hoặc Peroxydase) được gắn trên mảnh Fc, cho
kết hợp trực tiếp hoặc gián tiếp với kháng nguyên. Sau đó, cho cơ chất sinh màu vào,
cơ chất sẽ kết hợp với enzym và bị enzym phân huỷ tạo nên màu. So sánh với màu
của quang phổ kế sẽ định lượng được mức độ của phản ứng.
Phương pháp ELISA hiện đang được sử dụng rộng rãi ở các nước trên
thế giới. Ở Việt Nam, Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) [16] đã bước đầu chế
kháng nguyên tiên mao trùng và ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao
trùng ở nước ta.
- Các phương pháp phát hiện kháng nguyên tiên mao trùng:
+ Phương pháp ELISA kháng nguyên (Ag - ELISA)
Đây là phương pháp sử dụng phản ứng ELISA kháng nguyên để phát
hiện kháng nguyên lưu động trong máu của gia súc nhiễm bệnh. Phản ứng
dựa trên kháng thể đơn dòng đặc hiệu với tiên mao trùng. Lê Ngọc Mỹ và
cs (1994) [16] đã bước đầu ứng dụng phương pháp này để chẩn đoán bệnh
tiên mao trùng ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo cơ quan năng lượng nguyên tử

24
thế giới (IAEA) (1997), phương pháp ELISA kháng nguyên có độ nhạy
kém hơn so với các phương pháp phát hiện tiên mao trùng cổ điển. Vì vậy,

phương pháp này đã không được phổ biến trong thời gian hiện tại và tương
lai (IAEA đã không sản xuất đĩa Ag - ELISA cho nhiều nước trên thế giới).
+ Phản ứng Suratex
Phản ứng Suratex là phản ứng ngưng kết giữa các hạt latex được gắn
kháng thể đơn dòng với kháng nguyên lưu động trong máu động vật nhiễm tiên
mao trùng. Phản ứng này hiện đang được thử nghiệm và đánh giá ở thực địa.
+ Phương pháp phát hiện ADN của tiên mao trùng bằng phản ứng PCR
(Polymerase Chain Reaction):
PCR là phương pháp hiện đại nhất, mới được đưa vào ứng dụng để chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng trong những năm gần đầy.
Nguyên lý: dựa vào phản ứng chuỗi Polymerase để xác định sự có mặt
gen AND của tiên mao trùng trong máu động vật nhiễm bệnh.
Phương pháp PCR có độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao. Tuy nhiên,
phương pháp này đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao, trang thiết bị hiện
đại nên hiện nay mới đang được thử nghiệm tại một số phòng thí nghiệm
hiện đại.
2.1.4.3. Độ nhạy và độ đặc hiệu của các phương pháp chẩn đoán tiên mao trùng
* Khái niệm độ nhạy và độ đặc hiệu
- Độ nhạy:
Độ nhạy của một phương pháp là tỷ lệ những trường hợp thực sự có
bệnh và có kết quả xét nghiệm dương tính trong toàn bộ các trường hợp có
kết quả dương tính. Công thức để tính độ nhạy như sau:
Độ nhạy =
Số trường hợp dương tính thật
Số trường hợp dương tính thật + số trường hợp dương tính giả

×