Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Giải pháp phát triển thị trường giao sau gạo của Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 132 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, trong tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam, giá trị kim ngạch xuất khẩu từ sản phẩm
gạo chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, nhưng trong thời gian vừa qua giá gạo xuất
khẩu của Việt Nam trên thế giới luôn biến động thất thường, điều này ảnh hưởng rất
lớn đến thu nhập của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo và ảnh hưởng lớn nhất là đến
những người sản xuất lúa gạo của Việt Nam.
Hiện nay các doanh nghiệp, thậm chí cả người nông dân sản xuất nông sản,
trong đó có sản xuất lúa gạo ở các nước phát triển đã sử dụng các hình thức giao
dịch của thị trường giao sau như là một công cụ để phòng ngừa rủi ro biến động giá
nông sản. Nhưng hình thức giao dịch này hiện nay rất ít các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh lúa gạo của Việt Nam áp dụng.
Đề tài này nghiên cứu về thị trường giao sau và cách thức sử dụng hợp đồng
giao sau trong phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo xuất khẩu của Việt Nam. Phân
tích sự biến động đối với giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua,
phân tích thực trạng việc sử dụng các hợp đồng giao sau trong phòng ngừa rủi ro
biến động giá gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, xác định các nguyên
nhân và từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường giao sau gạo của Việt
Nam.
2. Mục tiêu của đề tài
Luận giải cơ sở khoa học về thị trường giao sau và cách thức sử dụng các
hợp đồng giao sau trong phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo xuất khẩu.
Nghiên cứu sự biến động giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian
vừa qua, từ đó đưa ra kết luận có cần thiết phải phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo
xuất khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo của Việt Nam hay
không? Và cách thức, công cụ để phòng ngừa rủi ro này?
Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các hợp đồng giao sau để phòng ngừa


rủi ro biến động giá gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
2

Đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường giao sau gạo của Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thị trường giao sau, việc áp dụng các hợp đồng giao sau của các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo của Việt Nam.
Trên thực tế, khi tham gia vào thị trường giao sau gạo mỗi người kinh doanh
sẽ có mục đích riêng của mình. Có người tham gia vào thị trường giao sau với mục
đích đầu cơ để kiếm lời, có người tham gia vào thị trường giao sau với mục đích
phòng ngừa rủi ro. Trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ nghiên cứu việc áp dụng
hợp đồng giao sau với mục đích phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu việc áp dụng hợp đồng giao sau để phòng
ngừa rủi ro biến động giá gạo xuất khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
lúa gạo, trong đó tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp có xuất khẩu gạo của Việt
Nam hoạt động trên phạm vi cả nước. Nhưng mẫu điều tra mang tính đại diện,
chúng tôi xin được giới hạn mẫu điều tra mang tính đại diện chỉ tập trung điều tra
các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo tại Thành phố Hồ Chí Minh và một
số Tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu việc biến động giá gạo xuất khẩu của
Việt Nam và việc các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo sử dụng hợp đồng
giao sau để phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo xuất khẩu của Việt Nam từ năm
1989 đến nay và xu hướng trong tương lai.
Về mặt nội dung: Đề tài nghiên cứu về thị trường giao sau và việc ứng dụng
hợp đồng giao sau để phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo cho các doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh lúa gạo của Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Chọn địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu phải đại diện cho các tỉnh, thành phố nơi có các doanh
nghiệp có điều kiện tiếp cận hợp đồng giao sau thuận lợi nhất, nơi có các doanh

nghiệp tại các vùng sản xuất lúa gạo lớn. Với lý do đó, chúng tôi chọn mẫu điều tra
là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo tại Thành phố Hồ Chí Minh và
một số Tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
3


4.2. Thu thập số liệu, thông tin cần thiết
Điều tra sơ cấp, từ các doanh nghiệp mà chúng tôi chọn làm mẫu điều tra, để
thu thập các thông tin liên quan đến tác động của biến động giá gạo xuất khẩu đến
thu nhập của doanh nghiệp, việc sử dụng các hợp đồng giao sau trong lĩnh vực xuất
khẩu gạo tại các doanh nghiệp.
Các số liệu thứ cấp được thu thập từ nguồn số liệu của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, trên mạng internet.
4.3. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra thông qua bảng câu hỏi và phỏng vấn
- Phương pháp thống kê mô tả
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp phân tích
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài khẳng định các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo của Việt
Nam có thể sử dụng các các hợp đồng giao sau như là một công cụ trong phòng
ngừa rủi ro biến động giá nông sản; đề xuất các giải pháp phát triển thị trường giao
sau gạo của Việt Nam.
Với những nội dung nghiên cứu của đề tài này chúng tôi hy vọng kết qủa
nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lyù Nhà nước
trong việc xây dựng chính sách liên quan đến phát triển thị trường giao sau gạo.
Đồng thời kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là tài liệu tham khảo cho các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo của Việt Nam muốn sử dụng các hợp đồng giao
sau trong phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, kết cấu của đề tài gồm 03
chương:
4

Chƣơng 1: Khung lyù thuyết về thị trường giao sau, chúng tôi đề cập đến lý
thuyết về thị trường giao sau, các chiến lược có thể sử dụng để phòng ngừa rủi ro
biến động giá.
Chƣơng 2: Thực trạng xuất khẩu gạo và việc sử dụng hợp đồng giao sau để
phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong phần này chúng tôi phân tích sự biến động của giá gạo xuất khẩu của Việt
Nam trong thời gian vừa qua. Phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam,
thực tế việc áp dụng hợp đồng giao sau của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
lúa gạo của Việt Nam trong phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo xuất khẩu. Xác
định nguyên nhân các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo của Việt Nam
chưa sử dụng các hình thức giao dịch của thị trường giao sau như là một công cụ để
phòng ngừa rủi ro biến động giá gạo.
chƣơng 3: Đề xuất các giải pháp phát triển thị trường giao sau gạo của Việt
Nam.
















5

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƢỜNG GIAO SAU

1.1. Một số khái niệm về hợp đồng và thị trƣờng
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng giao ngay
Hợp đồng giao ngay là một thỏa thuận mua bán một số lượng hàng hóa mà
việc chuyển giao hàng hóa được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là hai hoặc ba ngày
làm việc kể từ khi hợp đồng mua bán được ký kết.
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận mua bán một số lượng hàng hóa mà việc
chuyển giao hàng hóa được thực hiện sau một thời hạn nhất định với giá cả đã đồng
ý ngày hôm nay.
1.1.3. Khái niệm về hợp đồng giao sau
Hợp đồng giao sau là một thỏa thuận mua bán một số lượng hàng hóa đã biết
theo một mức giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao
hàng hóa được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao
dịch giao sau.
1.1.4. Khái niệm về thị trường giao sau
Thị trường giao sau là thị trường giao dịch các hợp đồng mua bán giao sau.
1.2. So sánh sự khác nhau giữa hợp đồng kỳ hạn/giao ngay và hợp đồng giao
sau
HỢP ĐỒNG KỲ HẠN/GIAO NGAY HỢP ĐỒNG GIAO SAU
- Người mua và người bán giao dịch
trên cơ sở thỏa thuận cá nhân
- Các điều khoản hợp đồng có thể
thương lượng được

- Rất khó hủy bỏ hợp đồng
- Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trên cơ
sở tín nhiệm
- Có rủi ro đối tác
- Giao dịch trên thị trường có tổ chức,
tuân theo những quy tắc và luật lệ
- Các điều kiện hợp đồng được chuẩn
hoá
- Các trạng thái có thể thanh lý dễ dàng
- Định giá theo giá thị trường
- Hợp đồng được Sở giao dịch bảo đảm

6

1.3. Mục đích của ngƣời kinh doanh khi tham gia vào thị trƣờng giao sau
1.3.1. Phòng ngừa rủi ro biến động giá:
Những người tham gia vào thị trường giao sau với mục đích phòng ngừa rủi
ro biến động giá có mong muốn mua hoặc bán hàng hoá thực, nhưng lo lắng về việc
giá hàng hoá sẽ thay đổi trước khi mua hoặc bán hàng hoá đó trên thị trường.
Như vậy tham gia thị trường giao sau để đạt được sự bảo vệ đối với thay đổi
giá cả thông qua mua hoặc bán các hợp đồng giao sau của cùng loại và cùng số
lượng hàng hoá để triệt tiêu rủi ro giá cả.
1.3.2. Đầu cơ để kiếm lời
Những người tham gia vào thị trường giao sau với mục đích đầu cơ để kiếm
lời cố gắng kiếm lợi nhuận từ việc mua hoặc bán các hợp đồng giao sau bằng việc
dự đoán biến động giá cả trong tương lai.
Khi tham gia thị trường giao sau với tư cách là nhà đầu cơ, nhà đầu cơ chấp
nhận rủi ro giá cả và làm tăng thanh khoản của thị trường giao sau.
1.4. Mối quan hệ giữa thị trƣờng giao sau và giao ngay
1.4.1. Đặc tính của hợp đồng giao sau

Giá thị trường hình thành công khai và minh bạch: Khi các thông tin về
nguồn cung cầu xuất hiện, người mua và bán sẽ đưa các thông tin này vào trong thị
trường. Khi người mua và người bán đạt đến thỏa thuận thì một giao dịch được thực
hiện và giá thị trường được công bố. Giá cả được hình thành thông qua hệ thống
đấu giá công khai như thế chính là biểu hiện cụ thể của cơ chế giá được hình thành
do các tác động của lực cung và cầu. Thay đổi trong giá giao sau mỗi ngày là sự
đồng thuận của người mua lẫn của người bán vào ngày hôm đó.
Quản lý rủi ro biến động giá: Khả năng bù trừ của hợp đồng giao sau cho
phép những người phòng ngừa rủi ro hòa vốn, có nghĩa là thiệt hại trên thị trường
giao sau sẽ bù bằng lợi nhuận trên thị trường giao ngay. Điều này đã cho phép
những người tham gia vào hợp đồng giao sau quản lý được các rủi ro do những bất
ổn gây ra trong giá cả. Đây là nhân tố chính của hợp đồng giao sau hấp dẫn những
người phòng ngừa rủi ro.
7

Tính thanh khoản: Đây là một chìa khóa cho bất cứ thành công nào của hợp
đồng giao sau. Tất cả thành viên tham gia thị trường đều kỳ vọng các biến động giá
cả là nhẹ nhàng hoặc có thể dự báo được. Điều này cho phép họ dễ dàng gia nhập
hoặc rút lui ra khỏi thị trường với một số lượng lớn các giao dịch. Số lượng các giao
dịch càng lớn nhưng không gây tác động đến giá thì thị trường càng được gọi là “có
tính thanh khoản”.
Tính hiệu quả: Thị trường giao sau tạo khả năng cho tất cả những người tham
gia giao dịch với khối lượng lớn với chi phí giao dịch tương đối thấp. Tính hiệu quả
này thật sự hấp dẫn những người mua và người bán.
Tổng lợi nhuận bằng zero: Giao dịch giao sau thường có tổng lợi nhuận bằng
không, bất cứ lợi nhuận nào của những người tham gia thị trường cũng chính là
khoản lỗ của một người khác trong thị trường. Đối với những người phòng ngừa rủi
ro, điều này không là mối bận tâm vì lợi nhuận hoặc thua lỗ của họ được bù trừ trên
thị trường giao ngay.
Những người phòng ngừa rủi ro: Các nhà quản lý, những người sản xuất và

kinh doanh lo ngại những diễn biến tài chính xấu do biến động bất ổn trong giá cả
hàng hóa có thể sử dụng giao sau để giảm rủi ro bằng việc thực hiện một vị thế
ngang bằng nhưng trái ngược trong thị trường giao sau. Hoạt động này được gọi là
phòng ngừa rủi ro. Những người phòng ngừa không thích rủi ro, họ mong muốn
tránh rủi ro và có xu hướng giữ vị thế giao sau trong một thời gian dài.
Các nhà đầu cơ: Các nhà giao dịch giao sau không quan tâm đến hàng hóa
thực. Họ giao dịch hoàn toàn là do lợi nhuận từ những thay đổi giá theo hướng có
lợi cho họ. Các nhà đầu cơ là những người thích rủi ro. Họ thường không thích nắm
giữ các vị thế giao sau trong thời gian dài.
1.4.2. Đường biểu diễn các vị thế mua và vị thế bán trên thị trường giao sau
Các nhà giao dịch mua hợp đồng giao sau có thể kiếm lời nếu hợp đồng này
được bán với giá cao hơn. Quá trình mua giao sau được gọi là thực hiện vị thế mua.
Các nhà giao dịch là người bán giao sau với ý định mua chúng lại sau đó ở
một mức giá thấp hơn để kiếm lời. Các nhà giao dịch có thể bán giao sau cho dù họ
không sở hữu các tài sản cơ sở vì vị thế giao sau và việc cam kết giao hàng có thể
8

bù trừ bằng một vị thế mua trước khi đến hạn hợp đồng. Một nhà đầu cơ có thể
chọn mua hàng hóa thực trên thị trường giao ngay và bán trên thị trường giao sau.
Bởi vì các khoản lãi và thua lỗ trên thị trường giao sau phản chiếu tương tự
những gì xẩy ra trên thị trường giao ngay. Bằng việc thực hiện vị thế ngược lại trên
thị trường giao ngay, những người phòng ngừa có thể giảm thiểu rủi ro về giá.
Những thua lỗ trên thị trường giao ngay được bù đắp bằng lợi nhuận trên thị trường
giao sau và ngược lại.
Tóm lại, nếu bạn là người dự định sẽ mua ngũ cốc sau đó, bạn có thể mua
giao sau, đây được gọi là phòng ngừa vị thế mua. Các nhà sản xuất ngũ cốc, hạt có
dầu và thịt tươi sống có thể bảo vệ chính họ chống lại những sụt giảm tiềm ẩn trong
giá cả sản phẩm bằng cách bán giao sau, đây được gọi là phòng ngừa vị thế bán.
1.4.3. Liên kết giữa thị trường giao ngay và thị trường giao sau
Liên kết giữa thị trường giao ngay và thị trường giao sau cho phép những

người phòng ngừa rủi ro sử dụng thị trường giao sau để bù đắp rủi ro về giá trên thị
trường giao ngay. Mối quan hệ này được đo lường bằng basic, đó là chênh lệch giữa
giá giao ngay và giá giao sau có liên quan.
Basic thường không phải là hằng số bất biến. Nhận thức rõ được điều này rất
quan trọng vì nó giúp cho bạn xác định tính hiệu quả của bất kỳ hoạt động phòng
ngừa rủi ro nào. Bạn cần một basic tương đối ổn định hoặc có thể dự đoán được để
đoan chắc rằng lợi nhuận (hoặc thua lỗ) trên thị trường giao sau và thị trường giao
ngay có thể bù đắp lẫn nhau được.
Thị trường giao ngay: Các thị trường địa phương nơi những người mua và
người bán điều chỉnh song phương về số lượng, chất lượng, giá cả, địa điểm và thời
gian giao hàng. Hàng hóa thực sự được trao đổi giữa người mua và người bán.
Thị trường giao sau: Người mua và người bán trao đổi hợp đồng trong đó
có xác định trước về số lượng, chất lượng, địa điểm và thời gian giao hàng cho một
hàng hóa cụ thể. Thị trường giao sau được xem như là một thị trường “giấy” vì
hàng hóa cụ thể ít khi được trao đổi giữa người mua và người bán. Giá giao sau
được dùng như một chuẩn mực cho giá giao ngay.
9

Sự đe dọa về giao nhận hàng: Giá giao ngay và giá giao sau có xu hướng
biến động cùng chiều, mặc dù không luôn luôn cùng một mức độ. Sở dĩ như vậy là
do các cam kết hợp đồng giao sau có thể hoặc là được thực hiện bởi một động tác
giao nhận hàng hóa xảy ra thật sự giữa hai bên hoặc là xảy ra dưới các thanh toán
tiền mặt tiêu biểu cho giá trị lô hàng.
Quá trình giao nhận hàng diễn ra trong suốt tháng giao hàng của hợp đồng
giao sau tại một thời điểm giao hàng cụ thể. Người mua hợp đồng giao sau phải
đồng ý thanh toán và chi trả ngay lập tức cho lô hàng hóa. Các chi phí như chi phí
lưu kho và lãi vay đã được phản ánh hết trong giá giao sau và người mua phải gánh
chịu tất cả các chi phí này.
Nếu như người mua trên thị trường giao ngay chào giá thấp hơn so với giá
giao sau thì người bán hàng trên thị trường giao ngay (người sở hữu hàng hóa) có

thể bán giao sau. Việc khan hiếm những người bán trên thị trường giao ngay cuối
cùng cũng làm cho những người mua tăng giá giao ngay lên. Đồng thời lúc này do
áp lực bán trên thị trường giao sau tăng lên, rốt cuộc làm cho giá giao sau giảm đi.
Chính vì thế giá giao ngay và giá giao sau cuối cùng rồi cũng hội tụ về với nhau.
Ngược lại, nếu giá giao ngay quá cao so với giá giao sau, người mua giao
ngay có thể mua giao sau. Trong tình huống này, người mua nhận sản phẩm với giá
giao sau thấp và sau đó có thể bán chúng lại trên thị trường giao ngay với giá cao
hơn. Những hành vi này rốt cuộc làm tăng giá giao sau làm giảm giá giao ngay cho
đến khi chúng đạt đến mức cân bằng sao cho tới khi nào mọi người không thể tiếp
tục làm như thế nữa để kiếm lời.
Tóm lại: Nỗi lo sợ về giao nhận hàng bảo đảm sự hội tụ của giá giao sau và
giá giao ngay theo thời gian và làm tăng tính hội nhập của hợp đồng giao sau và giá
giao sau.
Hành động mua trên một thị trường và bán chúng trên một thị trường khác và
ngược lại bảo đảm rằng giá giao ngay và giá giao sau sẽ hội tụ với nhau. Nỗi “lo
sợ” rằng việc giao nhận có thể hoặc là ở phía bên “giao” hoặc là ở phía bên “nhận”
làm cho giá giao sau và giá giao ngay sẽ tiến đến gần nhau hoặc là các nhà kinh
10

doanh chênh lệch (arbitrager) sẽ khiến chúng tiến gần nhau bằng những lỗ lực tìm
kiếm lợi nhuận từ bất kỳ những không ngang giá nào.
1.4.4. Sự hội tụ của giá giao ngay và giá giao sau vào ngày đáo hạn
Trước khi hợp đồng giao sau đáo hạn, nếu giá giao sau cao hơn giá giao
ngay, sẽ khuyến khích mọi người mua hàng trên thị trường giao ngay và đồng thời
tiến hành bán giao sau làm cho giá giao sau giảm. Bằng việc bán lại hợp đồng ngay
bây giờ, người nắm giữ vị thế mua sẽ thu được một khoản tiền lãi. Khoản lãi này sẽ
không còn nữa nếu như họ nắm giữ chúng cho đến khi đáo hạn vì tại thời điểm đáo
hạn giá giao sau bằng với giá giao ngay của tài sản cơ sở. Cùng lúc đó, những người
có nhu cầu mua hàng hóa có thể thấy giá giao ngay quá thấp và tiến hành mua hàng
tạo áp lực tăng giá giao ngay.

Trong mỗi trường hợp, giá giao ngay và giá giao sau sẽ hội tụ về với nhau
khi thời hạn thanh toán cuối cùng đến gần.
1.4.5. Đóng vị thế một hợp đồng giao sau
Nghĩa vụ của một hợp đồng giao sau có thể được thực hiện thông qua quá
trình giao hàng hoặc là thông qua bù trừ. Trong trường hợp hợp đồng được thanh
toán bằng tiền mặt, sẽ không có các cuộc giao nhận xảy ra. Trong trường hợp có
giao nhận hàng giữa hai bên, những người tham gia hợp đồng nên làm quen với các
điều kiện giao nhận hàng vốn dĩ luôn luôn thay đổi để đoan chắc rằng việc giao
nhận hàng hóa diễn ra theo ý mình mong muốn. Trong trường hợp thanh toán bù trừ
người nắm giữ hợp đồng giao sau sẽ thực hiện một vị thế bằng nhau nhưng trái
ngược với vị thế giao sau hiện tại.
Nếu bán (1) Giao hàng hóa và chấp nhận thanh toán theo các quy định về
thời hạn và địa điểm giao hàng và (2) Mua một số lượng tự hợp đồng giao sau (bù
trừ vị thế ban đầu).
Nếu mua (1) Nhận hàng hóa và chi trả đầy đủ theo các quy định về thời hạn
và địa điểm giao hàng và (2) Bán lại một số lượng tương tự hợp đồng giao sau (bù
trừ vị thế ban đầu).


11

1.4.6. Cơ chế của phòng ngừa đơn
Phòng ngừa thông qua hợp đồng giao sau cho phép các nhà sản xuất thiết lập
một mức giá cố định. Do bản chất bù trừ của hợp đồng giao sau và hợp đồng giao
ngay, nên bất kỳ khoản lỗ (hoặc lãi) nào trong một thị trường này sẽ được bù trừ
bằng một khoản lãi (hoặc lỗ) trong thị trường khác. Vấn đề quan trọng và cũng là
kết quả cuối cùng của việc tham gia vào một hợp đồng giao sau là nhà sản xuất sẽ
có khả năng chốt lại mức giá cố định cho mình và hiệu ứng cuối cùng đối với nhà
sản xuất như thế nào, sẽ phụ thuộc vào basic.
Phòng ngừa vị thế bán: Giả dụ bây giờ đang là thời điểm ở tháng 2 và nhà

sản xuất có thông tin cho biết giá giao ngay dự kiến vào tháng 10 có khả năng là
$400. Ở thời điểm tháng 2 này, giá giao sau tháng 10 là $420. Do có thông tin về
giá giao ngay kỳ vọng tháng 10 là $400, nên nhà sản xuất đi đến quyết định chốt
bán một phần sản lượng sẽ bán ở cuối tháng 9 ở mức $400 (đúng như mức giá kỳ
vọng). Khi ra quyết định này nhà sản xuất có niềm tin rằng mức giá $400 sẽ tạo ra
được một tỷ suất sinh lợi hợp lý cho vụ mùa mà mình thu hoạch vào mùa thu,
phòng ngừa rủi ro sẽ hạn chế bất kỳ khoản lỗ tiềm ẩn nào, nếu có, do giá thị trường
có khả năng sụt giảm vào tháng 10.


Hình 1.1 Phòng ngừa vị thế bán-Giá giao sau tăng $20
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[466].
Vì người sản xuất là người nắm giữ hàng hóa, nên họ tiến hành thực hiện vị
thế bán trên thị trường giao sau. Trong ví dụ này, hợp đồng giao sau tháng 10 được
440
420
Tháng 2 Tháng 10
Vị thế bán lỗ
$20
12

bán với giá $420 vào tháng 2. Vào tháng 9, chúng ta giả dụ giá giao sau tháng 10
tăng lên là $440, kết qủa là người bán giao sau lỗ $20 (bán $420 vào tháng 2 và
mua lại $440 vào tháng 9). Hình 1.1 cho chúng ta thấy trường hợp lỗ từ vị thế bán,
do giá giao sau tăng lên $20.
Khía cạnh khác nữa của phòng ngừa rủi ro có liên quan đến thị trường giao
ngay. Trong trường hợp này, do basic được giả định là một hằng số không đổi vì thế
giá giao ngay cũng tăng $20, từ $400 lên $420. Lúc bấy giờ nhà sản xuất sẽ bán
hàng hóa trên thị trường giao ngay và thu về $20 lợi nhuận. Kết qủa này bù đắp lại

vào $20 khoản lỗ trên thị trường giao sau. Hình 1.2 cho chúng ta nhận diện được cơ
chế này.


Hình 1.2. Lỗ vị thế bán giao sau bù trừ bằng khoản lãi giao ngay-Giá giao ngay
tăng $20.
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[467].
Đây là tổng số ròng cả giao dịch giao ngay và giao sau, chúng sẽ xác định
hiệu quả của phòng ngừa trong khi chốt các mức giá. Việc các giao dịch có được bù
trừ hoàn toàn hay không sẽ phụ thuộc vào basic. Phòng ngừa rủi ro thông qua hợp
đồng giao sau không đặt thành vấn đề quan trọng đối với các biến động tăng lên hay
giảm xuống của giá giao sau miễn là giá giao ngay thay đổi theo cùng chiều hướng
và với cùng một mức độ giống như giá giao sau. Trong ví dụ của chúng ta, basic là
Tháng 2 Tháng 10
440
420
400
Vị thế
bán lỗ
$20
Giao ngay
Vị thế mua
lãi $20
Giao sau
13

một hằng số nên giá xem như đã được cố định là $400, chính vì thế các khoản lãi và
lỗ hoàn toàn bù đắp cho nhau.
Không nên quan tâm đến lợi nhuận ở thị trường giao ngay khi tham gia vào

vị thế bán ở thị trường giao sau, khi tham gia vào một hợp đồng giao sau ở vị thế
bán, bạn đã có chủ ý bỏ qua cơ hội nhận được lợi nhuận cao hơn do giá giao ngay
có thể tăng lên trong tương lai. Bạn thật sự chỉ có một mong muốn không bị rơi vào
tình huống lợi nhuận có thể sụt giảm thấp hơn so với kỳ vọng, hoặc thậm chí rơi
vào tình trạng lỗ cao hơn do có khả năng giá giao ngay dự kiến giảm đi trong tương
lai.
Hình 1.3 minh họa kết cục xảy ra nếu giá giao ngay giảm $20. Trong trường
hợp này, như đã minh họa ở phần trên, vị thế bán giao sau có được lợi nhuận là $20.
Khoản lãi này sẽ bù đắp lại khoản lỗ trên thị trường giao ngay (do giá giao ngay
giảm $20). Tóm lại, trong khi phòng ngừa rủi ro thông qua hợp đồng giao sau đã
dẫn đến khả năng từ bỏ lợi nhuận tăng lên trong thị trường giao ngay (để bù trừ cho
khoản lỗ trên hợp đồng giao sau), thì một khía cạnh khác chúng lại được bảo vệ để
chống lại khả năng sụt giảm giá trên thị trường giao ngay.



Hình 1.3 Lãi vị thế bán giao sau bù trừ bằng khoản lỗ giao ngay-Giá giao ngay
giảm $20.
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[468].
440
420
400
Giao ngay
Vị thế mua lỗ
$20
Vị thế bán lãi
$20
Tháng 2 Tháng 10
Giao sau

14

Phòng ngừa vị thế mua: Khi tham gia vào một hợp đồng giao sau ở vị thế
mua, kết quả sẽ ở một vị thế trái ngược với người phòng ngừa vị thế bán. Các kết
quả này được thể hiện ở cột thứ ba trên bảng 1.1

Bảng 1.1 Các kết quả phòng ngừa vị thế bán và vị thế mua giao sau
Phòng ngừa vị thế bán Phòng ngừa vị thế mua

Mở cửa giao dịch giao sau Bán giao sau Mua giao sau
Đóng cửa giao dịch giao sau Mua giao sau Bán giao sau
Giao ngay Mua Bán
Sụt giảm trong giá giao sau Lãi Lỗ
Gia tăng trong giá giao sau Lỗ Lãi
Sụt giảm trong giá giao ngay Lỗ Lãi
Gia tăng trong giá giao ngay Lãi Lỗ



Hình 1.4. Phòng ngừa vị thế mua-Giá giao sau giảm $0,35
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[469].
Để cho các bạn dễ hình dung hơn, bây giờ chúng ta hãy lấy ví dụ trường hợp
của một chủ trại chăn nuôi gia súc. Bây giờ là tháng 2 và giá bắp giao sau tháng 9
được giao dịch với giá $3,25/tạ, vì thế giá giao ngay được kỳ vọng trong tháng 9 là
$3,25/tạ. Chủ chăn nuôi gia súc quyết định chốt giá mua vào đối với khẩu phần chi
3,25
2,90
Tháng 2 Tháng 9
Vị thế mua

lỗ $0,35
15

phí chăn nuôi vào tháng 9 với giá $3,00/tạ. Khi ra quyết định này ông chủ trại có
niềm tin rằng mức chi phí khẩu phần thức ăn là $3,00/tạ sẽ tạo ra một tỷ suất sinh
lợi hợp lý cho công việc chăn nuôi, phòng ngừa rủi ro sẽ hạn chế bất kỳ khoản lỗ
tiềm ẩn nào, nếu có, do giá thức ăn gia súc trên thị trường có khả năng tăng lên vào
tháng 10.
Vì ông chủ trại chăn nuôi là người mua hàng hóa, nên vị thế mua sẽ được
thiết lập trên thị trường giao sau. Trong ví dụ này, ông chủ trang trại sẽ mua hợp
đồng giao sau tháng 9 với giá $3,25/tạ vào tháng 2. Như vậy, ở thời điểm tháng 2,
ông chủ trại giờ đây đã rơi vào trạng thái mua giao sau bắp trong tháng 9. Vào
tháng 9, thời điểm mua bắp, giá bắp giao sau lại giảm đi chỉ còn là $2,90/tạ, chủ
chăn nuôi thực hiện bản hợp đồng giao sau tháng 9. Hình 1.4 cho thấy, vì giá bắp
giao sau giảm nên vị thế mua giao sau đã tạo ra một khoản lỗ $0,35/tạ - mua với giá
$3,25/tạ vào tháng 2 và bán $2,90/tạ vào tháng 9.
Trong giao dịch này, bạn còn phải quan tâm đến một khía cạnh khác nữa của
phòng ngừa rủi ro có liên quan đến thị trường giao ngay. Theo đó, do basic được giả
định là một hằng số không đổi vì thế giá giao ngay cũng giảm $0,35/tạ (từ $3,00/tạ
xuống $2,65/tạ). Do giờ đây ông chủ chăn nuôi mua bắp trên thị trường giao ngay ít
hơn $0,35/tạ, nên ông đã bù đắp lại vào $0,35/tạ lỗ trên thị trường giao sau. Hình
1.5 sẽ cho bạn thấy được cơ chế này. Nếu giá bắp tăng lên ông chủ trại chăn nuôi sẽ
phải trả với giá khẩu phần thức ăn cao hơn trên thị trường giao ngay. Tuy nhiên chi
phí chăn nuôi cao hơn này sẽ được bù đắp lại bằng với khoản lãi từ giao dịch giao
sau. Như vậy cho dù bất cứ điều gì xẩy ra đi chăng nữa, chi phí chăn nuôi ròng cũng
chỉ là $3,00/tạ như dự kiến của chủ chăn nuôi.
Đây là tổng số ròng cả giao dịch giao ngay và giao sau và chúng sẽ xác định
hiệu quả của phòng ngừa rủi ro trong khi chốt các mức giá. Việc các giao dịch có
được bù trừ hoàn toàn hay không sẽ phụ thuộc vào basic. Phòng ngừa rủi ro thông
qua hợp đồng giao sau không đặt thành vấn đề quan trọng đối với các biến động

tăng lên hay giảm xuống của giá giao sau miễn là giá giao ngay thay đổi theo cùng
một chiều hướng và cùng một mức độ giống như giá giao sau.
16



Hình 1.5. Lỗ vị thế mua giao sau bù trừ bằng khoản lãi giao ngay-Giá giao ngay
giảm $0,35
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[470].
1.5. Rủi ro basic
1.5.1. Khái niệm
Basic là thước đo nói lên mối quan hệ giữa hợp đồng giao sau và hợp đồng
giao ngay, basic thể hiện chênh lệch giữa giá giao ngay và giá giao sau. Basic sẽ là
âm khi giá giao ngay thấp hơn giá giao sau hoặc là dương khi giá giao ngay cao hơn
giá giao sau.
1.5.2. Basic cho ngũ cốc và hạt có dầu
Các loại ngũ cốc và hạt có dầu được thu hoạch tại những thời điểm thu hoạch
trong năm và sau đó được lưu trữ lại trong kho quanh năm. Giá giao sau có nghĩa
quan trọng trong việc lưu trữ hạt có dầu và ngũ cốc, chúng có thể tạo ra động cơ để
lưu trữ hàng hóa, hoặc ngược lại không khuyến khích nhà sản xuất lưu trữ hàng hóa
trong kho khi nguồn cung ứng trở nên khan hiếm.
Các diễn biến này được phản ảnh trong chênh lệch giữa giá cả cho các tháng
đáo hạn khác nhau trên hợp đồng giao sau đối với ngũ cốc và hạt có dầu. Mối quan
hệ này được phản ánh trong basic và do đó basic chính là dấu hiệu cho thấy về
những gì mà thị trường sẽ “chi trả” dựa trên các chi phí lưu trữ và chi phí chuyển
giao có thể phát sinh.
3,25
3,00
2,90

2,65
Tháng 2 Tháng 9
Lãi
$0,35
Giao ngay
Giao sau
Lỗ
$0,35
17

Mẫu hình thị trường chi phí lưu giữ: Chi phí lưu giữ là những biến phí cho
việc nắm giữ ngũ cốc từ tháng này cho đến tháng sau. Thành phần chủ yếu của chi
phí lưu giữ là tiền trả lãi vay. Ví dụ nếu giá bắp ở Chicago là $3/giạ vào tháng 11 và
lãi suất là 5% chúng ta có một cơ hội phí là $0,015/giạ tháng để lưu trữ bắp.
Nếu basic bằng với chi phí lưu giữ, giá giao ngay tại Chicago sẽ là $0,015
thấp hơn giá giao sau tháng 12. Mối quan hệ giữa chi phí lưu giữ này là nhân tố cơ
bản trong việc xác định sự khác nhau trong giá cả giữa các tháng giao sau (chênh
lệch giao sau).
Bởi vì hợp đồng bắp giao sau tháng 3 tượng trưng cho các mức giá ba tháng
kể từ sau tháng 11, nên mẫu hình chi phí lưu giữ sẽ được thỏa mãn nếu hợp đồng
giao sau tháng 3 là $0,045/giạ cao hơn tháng 12 (ba tháng nhân cho $0,015/tháng).
Giả dụ rằng mối quan hệ này được tính toán tương tự cho giá giao sau tháng 5,
chúng cũng sẽ là $0,03 cao hơn so với tháng 3. Như vậy, basic cho tháng 3 và tháng
5 là $0,06 và $0,09 thấp hơn giá giao sau. Nếu chúng ta sử dụng giá giao ngay
tháng 11 là $3, các kết quả của giá giao sau được minh họa như hình 1.6


Hình 1.6. Mẫu hình chi phí lưu giữ
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[472].

Quan hệ giữa chi phí lưu giữ và giá giao sau được xem như là một “điều kiện
cân bằng” cơ bản trên thị trường. Nếu như không có những thay đổi trong quan hệ
cung cầu từ tháng 11 đến tháng 5, các mức giá khác nhau cho các tháng trên thị
trường giao ngay và thị trường giao sau là tương tự như các chi phí lưu giữ. Trong
trường hợp này, sẽ không có các động cơ để lưu giữ hàng hóa và nhà sản xuất
Tháng 12
Tháng 3
Tháng 5
$3,015
$3,06
3,09
Giá giao ngay $3,00
18

không quan tâm nhiều đến việc bán trên thị trường giao ngay hay là nắm giữ hàng
hóa lại trong kho.
Chúng ta có thể nhìn nhận basic giống như một loại “giá cả”, và thông qua
một dạng giá cả đặc biệt này, các bạn có thấy hàm trong đó một tín hiệu để thực
hiện các giao dịch trên thị trường giao sau. Giả dụ rằng một thông tin mới xuất hiện
trên thị trường cho thấy sẽ có một sự khan hiếm về bắp trên thị trường trong tháng
3. Thông tin này lập tức làm cho giá mua giao sau tháng 3 tăng lên $3,08/giạ. Chi
phí lưu giữ vẫn là $0,06 từ tháng 11 tới tháng 3 nhưng chênh lệch trong thị trường
trong tháng 3 giờ đây là $0,08. Basic phản ánh theo thông tin mới phát sinh là -
$0,08 thay vì -$0,06 đã làm cho các thành viên tham gia thị trường có động cơ lưu
giữ bắp lại cho đến tháng 3 thay vì bán chúng ngay trên thị trường giao ngay.
Bằng cách giữ vị thế bán giao sau, nhà sản xuất sẽ cố định giá trong tháng 3
là $3,08/giạ tại Chicago và lưu giữ bắp lại trong kho. Tất nhiên các hành vi tích trữ
bắp từ thị trường giao ngay hiện tại làm cho sức ép trên giá giao ngay tăng lên và
hành vi bán giao sau làm cho giá giao sau giảm xuống. Xu hướng này diễn tiến theo
chiều hướng làm cho chúng quay trở lại mẫu hình chi phí lưu giữ. Nhân tố cơ bản

dẫn dắt mối quan hệ này chính là sự đe dọa về giao nhận hàng hoặc là sự hội tụ của
giá giao ngay và giá giao sau tại thời điểm đáo hạn.




Hình 1.7. Mẫu hình thị trường nghịch đảo
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[473].

$
Tháng 1
$300,00
Tháng 3
$295,00
Tháng 5
$290,00
Tháng 7
$286,00
19

Mẫu hình thị trường nghịch đảo: Ngược với thị trường chi phí lưu giữ là
thị trường “nghịch đảo”. Thị trường nghịch đảo là thị trường mà trong đó giá của
tháng giao sau sau đó sẽ thấp hơn giá của tháng trước đó. Các bạn sẽ thấy điều
tưởng như trái khoáy này trên hình 1.7 nhưng trong thực tế thì mô hình này cũng
không phải là hiếm gì cho lắm. Thường thì trong thực tế mẫu hình chi phí lưu giữ
phổ biến hơn cho những hàng hóa có thời kỳ thu hoạch ngắn và được lưu trữ tồn
kho quanh năm. Trong khi đó, mẫu hình thị trường nghịch đảo thì lại phổ biến hơn
đối với những dạng hàng hóa như là ngũ cốc chẳng hạn, khi mà nguồn cung ứng
thỉnh thoảng lại thấp hơn so với nhu cầu. Nhu cầu cao làm cho giá của tháng đáo

hạn gần nhất cao hơn giá của tháng sau đó. Những khan hiếm hàng hóa trên thị
trường không khuyến khích các nhà sản xuất lưu giữ hàng hóa tồn kho.
Chi phí chuyển giao: Chi phí chuyển giao được phản ánh trong basic đối với
những thị trường không nằm trong phạm vi của khu vực giao hàng. Nếu chúng như
ta gọi thành phố Saskatoon của Canada, nơi trồng hạt canola, là khu vực cung ứng
hay khu vực thặng dư, thì basic của hạt canola chắc chắn sẽ có mối quan hệ với chi
phí lưu giữ tại khu vực thành phố Saskatoon của Canada. Nhưng điều mà các bạn
dễ thắc mắc là basic tại thành phố Tokyo của Nhật thì sao? Tokyo (nơi có nhu cầu
về hạt canola) được gọi là khu vực có nhu cầu hay khu vực thâm hụt. Để có thể hiểu
rõ cơ chế này, các bạn hãy xem hình 1.8 và 1.9


Hình 1.8. Mẫu hình chi phí chuyển giao tại khu vực thặng dư
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[474].
$
Chi phí lưu giữ
Chi phí chuyển giao
Tháng 10 Tháng 7
Giá giao ngay
ở Saskatoon
Giá giao sau tháng 7
Basic
cuối cùng
20

Mỗi trường hợp ở hình nói trên cho thấy giá giao sau luôn là một hằng số
không đổi.
Giá giao ngay tại Saskatoon trên hình 1.8 tượng trưng cho đường đậm. Basic
ở khu vực thặng dư ở Saskatoon chính là giá gia sau trừ đi hai loại chi phí (1) chi

phí lưu giữ tính cho đến tháng 7 và (2) chi phí chuyển giao tính từ điểm giao hàng
Saskatoon đến điểm nhận hàng Tokyo. Tại khu vực thặng dư, giá giao ngay ở
Saskatoon sẽ thấp hơn giá giao sau một khoản chênh lệch, bằng với chi phí lưu giữ
hạt canola đến tháng 7 và chi phí chuyển giao.
Vào tháng 10, basic chính là bề rộng dải băng cho thấy giá giao ngay của hạt
canola thấp hơn ở Saskatoon khi không có hoặc có rất ít chi phí lưu giữ tính cho
điểm giao hàng. Giá giao sau tháng 7 thì thể hiện hoàn toàn và đầy đủ chi phí lưu
giữ tính đến tháng 7. Theo thời gian, basic tháng 7 sẽ hẹp dần lại khi thị trường đưa
chi phí lưu giữ tính vào trong giá giao ngay. Theo đó, giá giao ngay tăng dần lên và
cuối cùng tiệm cận tại mức chúng ta có basic bằng đúng với chi phí chuyển giao
hoặc chi phí vận chuyển từ Saskatoon đến Tokyo.



Hình 1.9. Mẫu hình chi phí chuyển giao tại khu vực thâm hụt
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM”[475].
Nhìn vào hình 1.9, các bạn sẽ thấy đối với khu vực thâm hụt tại Tokyo, basic
cuối cùng vào tháng 7 sẽ bằng với chi phí chuyển giao để vận chuyển hạt canola từ
Basic cuối cùng
$
Chi phí
chuyển giao ở Tokyo
Giá giao ngay ở Saskatoon
Tháng 10 Tháng 7
Giá giao ngay ở Tokyo
Giá giao ngay tháng 7
21

Saskatoon tới Tokyo. Trước tháng 7, giá giao ngay ở Tokyo sẽ bằng với giá giao

ngay ở Saskatoon cộng với chi phí chuyển giao. Giá giao ngay ở Tokyo tăng dần
lên khi thị trường tính chi phí lưu giữ (từ tháng 9) và cộng thêm chúng vào giá giao
ngay ở Saskatoon
Basic và sự đe dọa về giao nhận hàng: Các ví dụ sau đây cho thấy sự đe
dọa về giao hàng sẽ hoạt động như thế nào trong trường hợp Basic âm (khu vực
thặng dư) và basic dương (khu vực thâm hụt) cho các hàng hóa lưu kho.
Basic âm: Nếu giá mua giao ngay quá thấp tại điểm giao hàng, nhà sản xuất
sẽ nắm giữ hàng tồn kho và tiến hành bán giao sau. Nếu có nhiều người làm như
thế, sẽ tạo nên sức ép làm giảm giá giao sau. Trong khi đó, việc thiếu vắng những
người bán hàng trên thị trường giao ngay làm cho người mua tăng giá mua lên. Giá
giao ngay và giá giao sau sẽ di chuyển cùng nhau như trong hình 1.10
Basic dương: Nếu giá giao ngay cao hơn tại thời điểm giao hàng, nhà sản
xuất sẽ bán giao ngay hàng hóa của mình và tiến hành mua giao sau. Nếu có nhiều
người làm như thế, sẽ tạo nên sức ép làm giảm giá giao ngay. Trong khi đó, do có
nhiều người mua, nên sẽ làm cho giá giao sau tăng lên. Giá giao ngay và giá giao
sau sẽ di chuyển cùng nhau như trong hình 1.11
Cả hai giao dịch này được hiểu như là kinh doanh mua bán song hành nghĩa
là cùng một lúc những nhà kinh doanh tiến hành mua và bán trên thị trường giao
ngay và giao sau. Những người kinh doanh mua bán song hành tiến hành mua trên
thị trường được định giá thấp và bán trên thị trường được định giá cao. Do sự hội tụ
của giá giao ngay và giá giao sau, những người kinh doanh mua bán song hành làm
cho giá giao ngay và giá giao sau di chuyển theo hướng sao cho chi phí chuyển giao
và chi phí lưu giữ sẽ được phản ánh trong basic-sự hội của giá giao ngay và giao
sau.
Mối quan hệ giữa giá giao ngay và giá giao sau được hình thành từ sự đe dọa
về giao hàng sẽ hấp dẫn cả hai nhà đầu cơ và những người phòng ngừa rủi ro trên
thị trường giao sau. Nếu nói theo cách hài hước, do những người kinh doanh không
đồng ý mua bán hàng, thị trường giao sau sẽ xuất hiện với nghĩa là một thị trường
22


“giấy”. Chính sự đe dọa về giao nhận hàng đã thiết lập nên mối quan hệ giữa thị
trường giao ngay và thị trường giao sau.
Hình 1.10 Basic âm
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM.”[476]

Hình 1.11 Basic dương
“Nguồn: Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống Kê,
TP.HCM.”[476]
GIAO SAU
GIAO NGAY
Bán giao sau
Nhiều người bán làm giảm
giá bán giao sau
Kết quả: giá giao ngay và giá
giao sau tiến lại gần nhau hơn
Ít người bán làm
tăng giá mua
giao ngay
Lưu giữ hàng hóa trên thị trường
GIAO NGAY
GIAO SAU
Lưu giữ hàng hóa trên thị trường
Ít người bán làm
tăng giá mua
giao sau
Kết quả: giá giao
ngay và giá giao sau
tiến lại gần nhau hơn
Nhiều người bán làm

giảm giá bán giao ngay
Bán giao ngay
23

1.5.3. Biến động của basic
Basic sẽ xác định phòng ngừa rủi ro hiệu quả như thế nào trên thị trường
giao sau đối với nhà sản xuất. Tùy vào phòng ngừa rủi ro là bán giao sau (mua giao
ngay), hoặc mua giao sau (bán giao ngay), mà các tác động lên basic thay đổi khác
nhau. Điều này càng trở nên quan trọng hơn nếu những nhà kinh doanh muốn thoát
khỏi vị thế trước ngày đáo hạn của hợp đồng giao sau, hoặc họ đang rơi vào tình thế
khả năng giao nhận hàng trên hợp đồng giao sau là không thể thực hiện được hoặc
không khả thi.
1.6. Định giá hợp đồng giao sau
1.6.1. Giá trị của một hợp đồng giao sau
Chúng ta ký hiệu v
t
(T) là giá trị của hợp đồng giao sau tại t, f
t
(T) là giá cả
của hợp đồng giao sau tại thời điểm t, hợp đồng này được tạo ra tại thời điểm 0 và
đáo hạn tại thời điểm t, S
t
giá giao ngay tại thời điểm t. Chúng ta đã biết hợp đồng
giao sau được điều chỉnh theo thị trường hàng ngày và giá trị của một hợp đồng
giao sau vào lúc ban đầu khi ký kết bằng zero.
Giá giao sau khi đáo hạn: Ngay tại lúc đáo hạn, giá của hợp đồng giao sau
phải là giá giao ngay. Nói cách khác, nếu bạn tham gia vị thế mua một hợp đồng
giao sau sẽ đến hạn ngay sau đó là bạn đã đồng ý mua một tài sản ngay sau đó, trả
bằng giá giao sau. Điều này giống với giao dịch giao ngay. Như vậy:
f

t
(T) = S
t
(1.1)
Nếu điều này không đúng thì mua giao ngay và bán giao sau hoặc mua giao
sau và bán giao ngay sẽ cho một lợi nhuận arbitrage.
Giá trị của một hợp đồng giao sau trong ngày giao dịch nhưng trước khi điều
chỉnh theo thị trường: Giả sử chúng ta mua một hợp đồng giao sau tại thời điểm t-1,
khi giá giao sau là f
t-1
(T). Chúng ta cũng giả định rằng đó cũng là giá mở cửa trong
ngày và bằng với giá thanh toán của ngày hôm trước. Bây giờ chúng ta hãy cho là
chúng ta đang ở vào cuối ngày nhưng thị trường vẫn chưa đóng cửa. Giá là f
t
(T) còn
giá trị của hợp đồng là bao nhiêu? Nếu bạn bán hợp đồng bạn sẽ lợi f
t
(T) - f
t-1
(T).
Như vậy chúng ta có thể nói giá trị của hợp đồng giao sau là:
v
t
(T) = f
t
(T) - f
t-1
(T) (1.2) trước khi hợp đồng điều chỉnh theo thị trường.
24


Giá trị của hợp đồng giao sau chỉ đơn giản là sự thay đổi giá vì thời hạn của
hợp đồng là mở (hoặc nếu nó được mở vào ngày hôm trước), giá cuối cùng thay đổi
do điều chỉnh theo thị trường. Dĩ nhiên là giá trị có thể âm. Nếu chúng ta xem xét
giá trị của hợp đồng giao sau đối với người nắm giữ vị thế bán, đơn giản là chúng ta
thay đổi dấu.
Giá trị của hợp đồng giao sau ngay khi điều chỉnh theo thị trường: Khi một
hợp đồng giao sau điều chỉnh theo thị trường thì sự thay đổi giá cả do điều chỉnh
theo thị trường cuối cùng hoặc nếu hợp đồng được mở suốt trong ngày, thì sự thay
đổi giá do hợp đồng để mở được phân phối cho bên có lợi từ giá biến động và trừ
vào bên giá biến động bất lợi cho họ. Dĩ nhiên điều này là qúa trình điều chỉnh theo
thị trường. Ngay sau khi hợp đồng điều chỉnh theo thị trường, giá của hợp đồng trở
về zero. Như vậy: v
t
(T) = 0 ngay sau khi hợp đồng điều chỉnh theo thị trường.
Nếu giá giao sau vẫn còn ở mức giá thanh toán cuối cùng và các nhà kinh
doanh giao sau sau đó cố gắng bán hợp đồng để giành được giá trị của nó thì sẽ
không có lợi nhuận vì giá trị bằng zero.
Như vậy để tóm lược hai kết quả trên, chúng ta thấy rằng giá trị của hợp
đồng mua giao sau ở bất kỳ thời điểm nào là lợi nhuận được tạo ra khi bán hợp
đồng đi. Do điều chỉnh theo thị trường hàng ngày nên giá trị của một hợp đồng giao
sau trở về zero ngay khi nó được điều chỉnh theo thị trường. Giá trị của người nắm
giữ vị thế bán của hợp đồng giao sau thì ngược lại của người nắm giữ vị thế mua.
Đối với hợp đồng mua giao sau giá trị được tạo ra bằng sự thay đổi giá cả có giá trị
dương còn đối với người bán hợp đồng giao sau giá trị được tạo ra bằng sự thay đổi
giá cả có giá trị âm.
Nếu hợp đồng giao sau đáo hạn tại thời điểm t được ký kết vào thời điểm 0
có giá f
0
(T), giá vào cuối ngày sau đó f
1

(T), ngày tiếp theo là f
2
(T) và tiếp tục cho
đến khi đáo hạn là f
t
(T), đây là giá giao ngay S
t
. Lợi nhuận điều chỉnh theo thị
trường lần cuối cùng là f
t
(T) – f
t-1
(T). Chúng ta thấy rằng các hợp đồng này rõ ràng
có các dòng tiền khác nhau được tóm tắt trong bảng dưới đây:


25

Bảng 1.2. Dòng tiền giao sau
Ngày Dòng tiền giao sau
0 0
1 f
1
(T) – f
0
(T)
2 f
2
(T) – f
1

(T)
3 f
3
(T) – f
2
(T)
… …
t-2 f
t-2
(T) – f
t-3
(T)
t-1 f
t-1
(T) – f
t-2
(T)
t f
t
(T) – f
t-1
(T) = S
t
– f
t-1
(T)

1.6.2. Giá giao ngay, phần bù rủi ro và chi phí lưu giữ
Gọi S
0

là giá giao ngay, s là chi phí tồn trữ tài sản trong thời kỳ từ 0 đến t, i
là lãi suất hay còn gọi là cơ hội phí của tiền bị cột chặt vào qúa trình dự trữ. Như
vậy, iS
0
là tiền lãi tính trên S
0
đô la đầu tư vào tài sản trong suốt thời kỳ.
Trước tiên chúng ta hãy giả định là giá tài sản giao ngay tương lai hầu như
đã được biết trước một cách chắc chắn. Chúng ta gọi S
t
là giá giao ngay tương lai
của tài sản tại thời điểm t. Như vậy, giá hiện hành của tài sản sẽ là:
S
0
= S
t
- s - iS
0
(1.3)
Nói cách khác, giá tài sản hôm nay chính là giá giao ngay tương lai trừ đi chi
phí tồn trữ và chi phí cơ hội. Không ai phải chi trả nhiều hơn số tiền này để mua tài
sản, cũng không ai bán tài sản ít hơn số tiền này bởi vì luôn luôn có những người
sẵn sàng chi trả nhiều hơn và bằng với số tiền đã xác định trong công thức trên.
Nếu giả định là chưa biết một cách chắc chắn giá giao ngay tương lai, chúng
ta sử dụng giá giao ngay kỳ vọng, E(S
t
). Tuy nhiên, nếu các nhà đầu tư không quan
tâm đến rủi ro, họ sẽ sẵn sàng nắm giữ tài sản mà không có bất kỳ kỳ vọng nào để
nhận về phần thưởng xứng đáng tương ứng với rủi ro mà họ phải gánh chịu. Trong
trường hợp này:

S
0
= E(S
t
) - s - iS
0
(1.4)

×