Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.27 KB, 86 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những định chế tài chính quan trọng bậc nhất
của nền kinh tế. Bằng các sản phẩm, dịch vụ của mình ngân hàng đã giúp
các luồng tiền thông suốt, vận động liên tục và thúc đẩy phát triển nền kinh
tế. Như vậy với tầm quan trọng như thế, sự an toàn trong hoạt động của ngân
hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nhiều tổ chức, cá nhân trong
nền kinh tế. Về bản chất, rủi ro của ngân hàng là không tránh khỏi nhưng
điều đó không có nghĩa là không làm gì. Các ngân hàng đều cố gắng hạn chế
tối đa các rủi ro có thể xảy ra bằng các biện pháp khác nhau. Trong bối cảnh
cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính và nền công nghiệp dịch vụ tài
chính - ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ đang đòi hỏi ngành ngân
hàng phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro
trong từng hoạt động dịch vụ.
Sau khi Ngân hàng Nhà Nước ra quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng, rủi ro càng trở thành vấn đề quan tâm của các ngân hàng và
những người quan tâm. Trong quá trình thực tập tại VPBank – chi nhánh
Hoàn Kiếm, em được tiếp xúc với các công việc của tín dụng, hiểu được quy
trình tín dụng cũng như tìm hiểu được một phần các rủi ro có thể xảy ra
trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Rủi ro đối với Ngân hàng có nhiều
loại và phức tạp. Với phạm vi cuả một chuyên đề tốt nghiệp, em chọn đề tài
nghiên cứu về “Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng
thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)”
Qua chuyên đề này em hy vọng có thể góp phần vào việc hạn chế được
những rủi ro hiện hữu cũng như tiềm ẩn tại ngân hàng, tăng độ an toàn trong
hoạt động tín dụng.
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
1

Website: Email : Tel : 0918.775.368


CH   N G I . LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Vài nét về Ngân hàng thương mại
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và
đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ
thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Từ 3500 năm trước công nguyên trở về trước, có rất ít tư liệu về hoạt động
của một cái gì mang tính chất giống như ngân hàng. Thời gian này cho đến
năm 1800 BC, nghĩa là trước cuộc chiến tranh thành Troi (1500 – 1000 năm
BC), tư liệu cho biết là đã có một vài hoạt động mang tính chất khá tương tự
như một số hoạt động của ngân hàng. Lịch sử gọi đây là “giai đoạn của ngân
hàng sơ khai”, nó ra đời khi các thiết chế tổ chức xã hội bắt đầu hình thành.
Ngân hàng vào thời gian này chưa có tên. Hoạt động của ngân hàng sơ khai
này gồm có: bảo quản, giữ hộ tiền và đổi tiền hưởng hoa hồng. Nhà thờ
thường có quyền thế và thợ vàng trở thành những nơi cất giữ tài sản của cải
cho công chúng. Hoạt động của chúng mang hình thích như những “tiệm
cầm đồ”. Ngân hàng sơ khai với những bản quyết toán đơn giản trong đó, dự
trữ cuối kỳ luôn luôn bằng tổng các khoản ký gửi, được gọi là trung tính
trong cung ứng tiền, vì không có một đồng tiền mới nào được tạo ra từ hoạt
động ngân hàng. Dự trữ tiền mặt trong kho như thế gọi là dự trữ 100%.
Ngân hàng ở các giai đoạn sau không dự trữ (reservers) đến mức thế.
Một các thụ động theo sự thúc đẩy của nhu cầu thương mại và trao đổi, các
ngân hàng hoạt động như trên cho đến thời La Mã. Năm 323 trước công
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
2

Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguyên sau cái chết của Alexander Macedoine, đế quốc Hy Lạp về mặt quân

sự và chính trị, nhưng lại bị người Hy Lạp với đời sống và tổ chức xã hội
cao hơn đồng hoá về mặt văn hoá. Người ta gọi đây là thời kỳ “Hy Lạp
hoá”, người La Mã mang văn hoá Hy Lạp về đế quốc của họ củng cố vào
văn hoá bản địa. Nghệ thuật ngân hàng sơ khai cũng được mang theo về La
Mã và trước Thiên Chúa giáng sinh hoạt động này đựoc gọi là “ Ngân
hàng”. Tên gọi đó được tiếp tục giữ và phát triển cho đến ngày nay. Từ ngân
hàng ( Bank) xuất phát từ chữ La tinh là Bancus – Bancus là chiếc bàn dài,
có nhiều hộc được những người nhận tiền gửi và cho vay tiền thời đớ sử
dụng để ngồi làm việc, giao dịch, cất giữ tiền, tài sản và sổ sách. Cả tên gọi
và hoạt động ngân hàng bắt đầu phát triển từ đế quốc La Mã cho đến thế kỷ
thứ V sau công nguyên.
Trong vòng năm thế kỷ - từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ thứ X, nhiều
hoạt động mới được áp dụng khiến cho ngân hàng vào thế kỷ X đã rất tiến
bộ so với ngân hàng sơ khai và người ta gọi đây là “ giai đoạn phát triển thứ
hai” của lịch sử phát triển ngân hàng. Có những bước tiến về mặt nghiệp vụ
ngân hàng: Ngân hàng bắt đầu ghi chép và theo dõi hoạt động của thân chủ
qua số liệu tài khoản. Ngân hàng áp dụng phương pháp bù trừ, và nghiệp vụ
giải ngân , tức là chuyển tiền từ nơi này đi nơi khác cũng được áp dụng...
Ngân hàng đã bước vào giai đoạn ba gắn khá chặt với việc tạo ra “tiền ngân
hàng”. Ngân hàng từ thế kỷ XVII đã có cách tạo ra tiền của nó và dự trữ là
mối dây liên quan đến chu trình này. Các chứng thư do ngân hàng phát ra
(như Séc ngày nay) từ xa xưa đã được chấp nhận như phương tiện thanh
toán trong giao dịch và trao đổi. Ngân hàng thời Trung cổ hay ngân hàng
Amsterdam (1609 – 1891) vào thế kỷ XVII với việc phát ra 100 tiền ngân
hàng thay thế cho việc cất kỹ 100 tiền vàng do nhà nước đúc ra lưu hành,
không tạo thêm được đồng tiền nào vào nền kinh tế. Việc cất tiền mặt như
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
3

Website: Email : Tel : 0918.775.368

thế gọi là “dự trữ tiền mặt 100%”. Ngân hàng hoạt động như thế gọi là có
“tác động trung tính” đới với lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế.
Một ngân hàng vào cuối thế kỷ XVII không hành động như thế. Nó tạo ra
tiền và kể cả rủi ro khi nó không giữ đủ 100 đồng của khách hàng đã gửi
trong kho, mà tìm cách cho vay một ít. Vì tiền ngân hàng từ đầu thế kỷ XVII
đã được chấp nhận trong thanh toán như là tiền mặt, quá trình tạo tiền ngân
hàng ảnh hưởng sâu sắctổng cung tiền tệ trong nền kinh tế.
Từ năm 1609 – 1694 các ngân hàng đều có quyền tạo ra những tờ giấy bạc
có hiệu lực pháp lý như nhau trong lưu thông. Tình trạng được phát hành
tiền ngân hàng bị lạm dụng. Các Nhà nước bắt đầu có ý thức “can thiệp vào
hoạt động ngân hàng” để hạn chế việc phát hành. Chỉ sau khi Chính phủ giới
hạn quyền phát hành tiền tệ về một ngân hàng vào cuối thế kỷ XVII, khoảng
cách giữa các ngân hàng bắt đầu phát sinh: đó là việc chỉ có một ngân hàng
duy nhất được phát hành tiền, trong khi những ngân hàng còn lại thì không.
Từ đó, các ngân hàngcòn lại chỉ làm nhiệm vụ những “trung gian tài chính”
giữa những người cho vay và những người vay tiền trong nền kinh tế, trong
khi ngân hàng độc quyền phát hành đã trở thành Ngân hàng Trung ương, nó
hoàn toàn biệt lập với công chúng. Mọi hoạt động của nó đều thông qua
những định chế trung gian và Chính phủ để lan ra công chúng. Từ nguyên
nhân này, những ngân hàng còn lại trong nền kinh tế được gọi là “ngân hàng
trung gian”.
1.1.2. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua vào ngày 12
tháng 12 năm 2007, định nghĩa:
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này còn
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
4

Website: Email : Tel : 0918.775.368

định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh
doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Luật tổ chức tín dụng không có định nghĩa hoạt động của ngân hàng vì khái
niệm này đã được định nghĩa trong Luật Ngân hàng Nhà nước, cũng do
Quốc hội khoá X thông qua cùng ngày. Luật Ngân hàng Nhà Nước định
nghĩa: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1.3.1.2 Hoạt động cấp tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho
thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
như bao thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, và
cho vay theo hạn mức tín dụng, và hạn mức tín dụng dự phòng,…Trong các
hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ
trọng lớn nhất.
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
5


Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Cho vay
Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình
thức sau:
Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và đời sống.
Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
* Bảo lãnh
Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng
khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận
bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của
một ngân hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của
ngân hàng thương mại.
* Chiết khấu
Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác đối với các tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các
thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín
dụng khác.
* Cho thuê tài chính
Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành
lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động
của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
* Bao thanh toán
Các Ngân hàng thương mại triển khai thực hiện bao thanh toán như là một
hình thức cấp tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp như: bao thanh toán
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
6


Website: Email : Tel : 0918.775.368
truy đòi, bao thanh toán miễn truy đòi, bao thanh toán ứng trước hay bao
thanh toán chiết khấu, bao thanh toán khi đáo hạn trong phạm vi buôn bán
nội địa lẫn quốc tế.
*Tài trợ nhập khẩu
Hiện nay, khá nhiều Ngân hàng thương mại cung cấp tài trợ xuất nhập khẩu
bao trọn gói để hỗ trợ doanh nghiệp.
Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các phương tiện
và giấy tờ liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ
của mình trong hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm:
Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu
Cho vay ứng trước một phần để thanh toán cho người bán hay ứng trước tiền
thuế nhập khẩu.
Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
Chấp nhận hối phiếu.
Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hoá nhập khẩu với giá
cho thuê phải chăng (nhờ lợi thế về quy mô số lượng khách hàng của ngân
hàng) tại các địa điểm hay các địa phương khác nhau.
Giúp khai báo thuế (thí dụ, lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác nhanh
chóng, nhận lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thế tạm tính thuế phải
nộp,…).
Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho xuất khẩu nếu đến hạn mà
nhập khẩu chưa có tiền.
Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại,
mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hoá, theo
dõi và kiểm tra hoá đơn chứng từ và hàng hoá cả về số lượng, quy cách và
chất lượng.
Các hỗ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp,…
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C

7

Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Tài trợ xuất khẩu
Các hình thức tài trợ xuất khẩu của các NHTM còn phong phú hơn do các
doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận được tài trợ từ các NHTM về giao dịch
kinh doanh cả trước và sau thương vụ xuất khẩu, bao gồm:
- Cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên vật liệu để sản xuất, cho
vay đầu tư nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm dịch vụ, cho vay bảo trì
đối với các dự án chiến lược máy móc thiết bị, nhà xưởng ở nước ngoài.
- Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
- Giúp khai báo thuế (thí dụ lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác,
nhanh chóng, nhận lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính
thuế phải nộp, khấu trừ lại thuế GTGT,…).
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương
mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hoá,
theo dõi kiểm tra hoá đơn chứng từ và hàng hoá cả về số lượng, quy cách và
chất lượng.
- Các hỗ trợ cần thiết khác do sự khác biệt về tập quán, luật pháp…
- Cho thuê kho bãi để chứa và đóng gói hàng hoá xuất khẩu với giá cả phải
chăng (do lợi thế và quy mô số lượng).
- Cho vay hỗ trợ dịch vụ vận chuyển chuyển giao hàng hoá.
- Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ.
- Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải thu, bảo
đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng
và thu hộ.
- Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu
(ứng trước tiền hàng xuất khẩu).
- Ngân hàng chấp nhận thanh toán bằng cách ký chấp nhận hối phiếu do
doanh nghiệp ký phát.

Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
8

Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Cho vay thấu chi
Nhiều NHTM, đặc biệt là các chi nhánh NHTM nước ngoài, đang mở rộng
nghiệp vụ thấu chi đến các khách có mở tài khoản tại ngân hàng của họ. Khi
sử dụng dịch vụ này, mỗi khách hàng được cấp một hạn mức thấu chi khi
khách hàng tạm thời thiếu hụt trong thanh toán. Khách hàng không cần phải
thế chấp hay tín chấp.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng
- Cho vay theo hạn mức tín dụng
Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho một hay nhiều món vay
vào đầu quý, NHTM cấp một hạn mức tín dụng là mức dư nợ cho vay tối đa
được duy trì trong một thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
NHTM cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định
ngoài hạn mức tín dụng đã được ký ban đầu giữa ngân hàng và khách hàng,
áp dụng hạn mức tín dụng dự phòng khi khách hàng không có đủ vốn vì mức
vốn đầu tư cho dự án tăng them, nhu cầu tiêu dung, mua sắm tăng thêm,…
1.1.3.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua
ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong
và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông
qua Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi
tại Ngân hàng Nhà nước nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư
tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của NHTM được
mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi
đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của

NHTM bao gồm các hoạt động sau:
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
9

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác nhau theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
- Thực hiện dịch vụ thu và phát triển tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
1.1.3.4 Các hoạt động khác
- Góp vốn mua cổ phần
Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn,
mua cổ phần các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được góp vốn,
mua cổ phần và liên doanh với Ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân
hàng liên doanh.
- Tham gia thị trường tiền tệ
Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị
trường tiền tệ.
- Kinh doanh ngoại hối
Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công

ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và
thị trường quốc tế.
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
10

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Uỷ thác và nhận uỷ thác
Ngân hàng thương mại được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý trong các lĩnh
vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu
tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý.
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập
công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định
của pháp luật.
- Tư vấn tài chính
Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ
cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn
trực thuộc ngân hàng.
- Bảo quản vật quý giá
Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ
có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo quy
định của pháp luật.
1.1.4 Vai trò của Ngân hàng thương mại
Đối với hầu hết chúng ta, ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh
có vai trò vô cùng quan trọng. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có
thể nhận được các khoản vay để mua nhà, mua ôtô mới hay trang trải chi phí
học tập, kinh doanh. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng là một địa chỉ hữu ích
nếu như chúng ta mong muốn nhận được những lời khuyên về việc đầu tư
các khoản tiết kiệm hay việc lưu giữ và bảo quản các giấy tờ có giá.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, ngân hàng là một trong những tổ chức trung

gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với
hàng triệu hộ tiêu dùng, hầu hết các doanh nghiệp và kể cả các cơ quan
chính quyền. Ngân hàng còn là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
11

Website: Email : Tel : 0918.775.368
vĩ mô của Chính phủ. Trên thực tế, để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, vai trò của ngân hàng ngày càng
lớn, thể hiện qua:
- Vai trò thực thi chính sách tiền tệ: Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc
về Ngân hàng Trung ương; để thực thi các chính sách tiền tệ đó phải sử dụng
các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn
mức tín dụng...Chính các Ngân hàng thương mại là chủ thể chịu sự tác động
trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc
chuyển tiếp các tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng
vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách ti tiền tệ
đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua Ngân
hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình, sản
lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt...của nền kinh tế được
phản hồi về cho Ngân hàng Trung ương để Chính phủ và Ngân hàng Trung
ương có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại gắn liền với các hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong
quá trình hoạt động đó, Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tham gia
điều tiết kinh tế vi mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của
mình, biểu hiện các mối quan hệ giữa Ngân hàng thương mại đối với các tổ
chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền
mặt... đảm bảo hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường.
Vai trò điều tiết nền kinh tế vi mô của Ngân hàng Thương mại được thể hiện

qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào
Ngân hàng thương mại, đồng thời Ngân hàng thương mại cũng cung ứng
tiền mặt theo nhu cầu khi các doanh nghiệp rút tiền mặt từ tài khoản của
mình để trả lương cho công nhân viên chức, trả tiền mua nguyên vật liệu, thu
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
12

Website: Email : Tel : 0918.775.368
mua hàng hoá..., khi công chúng rút tiền gởi để chi dùng cho những nhu cầu
của mình. Quá trình thu nhận và cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền
kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ
trong từng khu vực.
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ, Ngân
hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác, trong nền kinh
tế. Đây là những dịch vụ trung gian, tạo cho Ngân hàng thương mại những
nguồn lợi đáng kể, góp phần tăng thêm các khoản thu nhập cho Ngân hàng
thương mại, đồng thời cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các chủ thể kinh tế. Với tư cách là trung gian thanh toán không dùng tiền
mặt, Ngân hàng thương mại đã giúp các chủ thể tham gia thanh toán, tiết
kiệm chi phí trong mua bán hàng hoá, cung ứng và tiếp nhận các dịch vụ,
tiết kiệm thời gian, đồng thời giúp cho doanh nghiệp thu hồi tiền bán hàng
nhanh để tiếp tục quá trình luân chuyển vốn tiếp theo, tạo thuận lợi cho sự
phát triển của doanh nghiệp..., từ đó đảm bảo quyền lợi của người mua và
người bán, đảm bảo an toàn và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, góp phần
tạo nên văn hoá tiền tệ cho xã hội.
- Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo
tiền của Ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô
thuộc về Ngân hàng Trung ương. Chức năng này thể hiện trên hai mặt:

Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn
thảo chính sách tiền tệ. Với chức năng và vai trò của mình, Ngân hàng
Trung ương có đủ điều kiện thiết lập một kế hoạch tổng thể về việc phân bổ,
sử dụng các nguồn lực cho nhu cầu phát triển kinh tế, từ đó Ngân hàng
Trung ương trở thành một trong những trung tâm điều độ, mà sự phát triển
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
13

Website: Email : Tel : 0918.775.368
của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào trung tâm điều độ này. Chính sách tiền
tệ là loại công cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ
chế thị trường và quy luật vận động của nó. Nhưng Ngân hàng Trung ương
không trực tiếp giao dịch với công chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản
hồi từ các định chế tài chính trung gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách
tiền tệ. Như vạy, rõ ràng là nếu không có hệ thống Ngân hàng thương mại
cung cấp, thì việc hoạch định chiến lược và soạn thảo chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương sẽ không hoàn hảo.
Thứ hai, chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ Ngân hàng Trung
ương, lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây
chuyền của hệ thống ngân hàng trung gian và các tổ chức tài chính trong
nước. Như vậy, nếu không có sự chấp hành của hệ thống ngân hàng trung
gian thì mục đích và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương sẽ không
thực hiện được. Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng
Trung ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã
hội, mà trước hết là trong hệ thống Ngân hàng thương mại. Các công cụ này
là những thao tác hoạt động của Ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói
rằng, mọi hoạt động của Ngân hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh
tế vĩ mô trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã vạch ra.
Sự điều tiết tiền tệ (bao gồm chính sách tiền tệ và các công cụ của nó) có thể
điều tiết gián tiếp và vô cùng hiệu quả đến những hoạt động của nền kinh tế

quốc gia từ vĩ mô đến vi mô. Một nội dung quan trọng của điều tiết tiền tệ là
điều hoà khối tiền tệ. Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh
việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả
năng kỳ bí của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung
tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp,
nên có việc phân chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương (giấy bạc hay
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
14

Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiền mặt) và tiền ngân hàng (tiền ghi sổ, bút tệ). Tiền trung ương là tiền do
Ngân hàng Trung ương độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng là tiền do các
ngân hàng thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế,
đặc biệt là tiền trên các khoản thanh toán sec. Nó được tạo ra như là sự mở
rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền). Tiền của
hệ thống Ngân hàng thương mại chiếm bộ phận lớn nhất trong tổng khối
lượng tiền tệ ngày nay ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế
càng đi dần vào hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy càng sử
dụng nhiều hơn tiền do các Ngân hàng trung gian tạo ra.
Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô của
Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình,
Ngân hàng Thương mại đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp phần
vào hoạt động điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung ương thông qua chính
sách tiền tệ.
1.2 Rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại
Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Tuy nhiên,
không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình trạng
không chắc chắn nào có thể ước đoán xác suất xảy ra mới được xem là rủi
ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa từng xảy ra và không thể

ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất trắc chứ không phải rủi
ro.
Hoạt động của ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều
rủi ro hơn hết. Một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt có thể làm giảm bớt tới
mức tối thiểu tất cả những khả năng rủi ro, ngoại trừ những “rủi ro vì tai
hoạ” (như động đất...), những đợt suy thoái lớn về kinh tế trên thế giới,
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
15

Website: Email : Tel : 0918.775.368
v.v...Việc nghiên cứu những rủi ro này không thể tách rời với việc nghiên
cứu luật lệ ngân hàng, vì mục đích chính của luật lệ ngân hàng là bắt buộc
các ngân hàng phải có thái độ thận trọng đối với các rủi ro.
Người ta khẳng định rằng, hơn mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng phải
đối phó với các loại rủi ro từ mọi nguồn gốc:
Rủi ro tín dụng
Rủi ro thiếu vốn khả dụng
Rủi ro lãi suất
Rủi ro hối đoái
Rủi ro trong tín dụng quốc tế và trong tín dụng ngoại thương
Rủi ro mất khả năng thanh toán
Rủi ro tín dụng là rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao
giờ cũng bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở
hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng
khác của ngân hàng như: các hoạt động bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ
thương mai, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, những chứng khoán có giá
(trái phiếu, cổ phiếu...), trái quyền, Swaps, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ
v.v... Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động
ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động kinh
doanh chủ yếu của các ngân hàng. Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là

vấn đề được đặc biệt quan tâm, không chỉ ở phạm vi các ngân hàng, mà
trong toàn nền kinh tế. Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua
việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món cho vay và chứng
khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho
vay, như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách
hàng lâu dài, quy định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế
tín dụng. Dẫu sao, không có một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
16

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngờ, sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một
quy định hạn chế nào loại bỏ được chúng cả. Người ta gọi đó là rủi ro tín
dụng.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng Ngân hàng thường do khách hàng mang lại, sự yếu kém về
quản lý của Ngân hàng, do hoàn cảnh Ngân hàng mang lại ... Tuy nhiên, khả
năng gây ra rủi ro tín dụng phổ biến nhất, hay gặp nhất trong thực tế là từ
phía khách hàng vay vốn mang lại. Ta có thể đưa ra một số loại rủi ro đối
với một số hình thức tín dụng chủ yếu như sau:
- Rủi ro đối với tín dụng ngắn hạn:
Mục đích của tín dụng ngắn hạn là nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời
thiếu cho các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh với thời hạn ngắn
(thường dưới 1 năm). Các khoản tín dụng ngắn hạn thường được kiểm tra
qua tính toán hiệu quả đầu tư giản đơn và nhanh chóng, lãi suất cho vay
thấp, phương pháp này dễ xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng vốn ngắn
hạn để đầu tư trung và dài hạn, sử dụng sai mục đích, gây thiệt hại cho ngân
hàng.
- Rủi ro đối với tín dụng trung và dài hạn:
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn thu hồi vốn dài, có

khối lượng lớn, vòng quay vốn chậm (từ một năm trở lên) chủ yếu cấp vốn
để mua Tài sản cố định, cải tiến mở rộng sản xuất, đầu tư cho các công trình
và dự án lớn mà hiệu quả của công việc đầu tư này phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như biến động về chính trị, xã hội, thiên tai địch hoạ... Những yếu tố có
thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả đầu tư. Những hoạt động
tiêu cực gây ra sự đình trệ, thất thoát vốn của doanh nghiệp, trì hoãn thời
gian thu vốn của dự án gây ảnh hưởng đến các món nợ của ngân hàng.
- Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu:
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
17

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn
hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã
được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu có thể xảy ra rủi ro trong các trường hợp sau:
+ Thương phiếu giả mạo:
Thương phiếu là một loại giấy xác nhận nợ được lập trên cơ sở thương mại
vì vậy khi thực hiện tín dụng tái chiết khấu Ngân hàng được đảm bảo bằng
một lượng hàng hoá ở người mua. Thương phiếu bị giả mạo nghĩa là không
có lượng hàng hoá tương ứng đảm bảo kèm theo nên Ngân hàng cho vay
trên cơ sở thương phiếu này sẽ phải chịu rủi ro.
+ Người nhận trả không có khả năng trả nợ:
Trên thực tế có những doanh nghiệp đang có nguy cơ bị phá sản hoặc không
còn khả năng huy động vốn nào khác, muốn dùng số tiền chiết khấu thương
phiếu để thanh toán công nợ, vì vậy nếu Ngân hàng không nghiên cứu kỹ
đến khách hàng mà thực hiện tín dụng chiết khấu sẽ xảy ra rủi ro không thu
hồi được khoản nợ này. Để hạn chế rủi ro trong tín dụng tái chiết khấu,
Ngân hàng phải xem xét kỳ phiếu, hối phiếu của người trả trước đây có được

thanh toán sòng phẳng hay không.
- Rủi ro đối với tín dụng thuê mua:Nói chung đây là một hình thức tín dụng
có độ an toàn tương đối cao vì trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín
dụng thuê mua, tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê.
1.2.3 Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát
hiện nhanh chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm luôn phải có
việc kiểm tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là một số
dấu hiệu thường thấy từ phía khách hàng cần được kiểm tra:
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
18

Website: Email : Tel : 0918.775.368
● Từ báo cáo tài chính :
- Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách
kịp thời
- Tiền mặt của khách hàng giảm
- Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định
- Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ
đông của công ty
- Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
● Từ hoạt động kinh doanh
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh
- Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc
nguồn cung cấp
- Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung

ứng chính
- Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể
làm mất năng lực sản xuất hiện hành
● Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng
- Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm
- Xuất hiện khoản nợ quá hạn
- Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn
- Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần
- Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn)
nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng.
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
19

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về
vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi
● Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty
- Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
- Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự
chắp vá
- Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có những
rủi ro quá mức
- Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế
- Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt
- Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các
điều kiện kinh tế
Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng
kể. Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét,
đánh giá kỹ để có thê hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng gây
nên.

1.2.4. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng
1.2.4.1. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài
sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh
hưởng lớn đến ngân hàng. Dưới đây là một số tác động xấu mà ngân hàng có
thể gặp phải khi rủi ro tín dụng xảy ra:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có một
khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay; một
phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả
lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh.
Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
20

Website: Email : Tel : 0918.775.368
được, thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý
và định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại
tài sản là rất khó xảy ra.
Thứ hai, rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ lệ
nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân
hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán
của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân
hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều
thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền rút
tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Thứ ba, rủi ro tín dụng giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác
nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm
trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng.

Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc
huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh
tranh với các ngân hàng khác.
1.2.4.2. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới nền kinh tế
Hoạt động của Ngân hàng thương mại mang tính xã hội hoá cao vì nó liên
quan đến nhiều ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền kinh
tế. Do vậy, khi một ngân hàng bị phá sản, nó sẽ gây ảnh hưởng đến các bộ
phận còn lại trong xã hội. Trước tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan hệ
mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân hàng sụp đổ rất có thể dẫn
đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra, việc sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn; người gửi tiền không lấy
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
21

Website: Email : Tel : 0918.775.368
lại tiền. Những hậu quả này còn làm giảm lòng tin của công chúng vào sự
vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các
chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
1.3. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Chỉ tiêu1 : Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ nợ qúa hạn =
Nợ quá hạn
*100%
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô của các khoản vay có vấn đề của ngân
hàng. Nếu tỷ lệ này lớn, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là
kém ,ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các khoản cho vay

của mình , đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay , đặc biệt xem xét khả năng
thực hiện nhiệm vụ của cán bộ tín dụng.
Theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam ,các ngân hàng có tỷ lệ
dư nợ quá hạn trên 7% thì là các ngân hàng yếu kém. Ngân hàng có tỷ lệ dư
nợ quá hạn nhỏ hơn 5% là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt , chất lượng
cho vay cao.
Tuy nhiên , ta cũng phải nhận thức rõ ràng hai vấn đề dường như trái ngược
nhau là : Thứ nhất , chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể thấp , có thể giảm đi qua
các năm nhưng là do dư nợ của ngân hàng tăng nhanh chóng (nợ quá hạn
của ngân hàng có thể vẫn tăng đều đặn ). Nếu ngân hàng quá tin tưởng vào
chỉ tiêu này cho rằng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không đáng kể khi
chỉ tiêu này thấp thì rất nguy hiểm. Bởi vì rất có thể việc mở rộng quy mô
cho vay của ngân hàng không gắn liền với việc nâng cao chất lượng sẽ làm
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
22

Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho rủi ro của khoản cho vay mới đó trong tương lai mới bộc lộ. Thứ hai, nợ
quá hạn chưa hản đã là tổn thất của ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp.
Bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn đều dẫn đến rui ro.
Chỉ tiêu 2 :
Khả năng mất vốn =
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
*100%
Dư nợ quá hạn
Đây là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi ro , ảnh hưởng đến thu nhập của ngân
hàng. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng tổn thất
tức là không có khả năng thu hồi. Nói cách khác , chỉ tiêu này phản ánh mức
độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng.
Chỉ tiêu 3 : Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.

Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ khó đòi
*100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu 4 : Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng:
Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng =
Giá trị dự phòng tổn thất trong kỳ
*100%
Doanh số cho vay trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng cho vay trong kỳ thì ngân hàng bỏ ra
bao nhiêu đồng dự phòng tổn thất.
1.3.2. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
● Mô hình chất lượng: dựa trên yếu tố 6 C
- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin
vay của khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính
sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch
sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng củ; còn khách hàng mới thì cần thu
thập thông tin từ nhiều nguồn khác như Trung tâm phòng ngừa rủi ro …
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
23

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Năng lực của người vay (Capacity): Tuỳ thuộc vào qui định luật pháp của
quốc gia. Đối với cá nhân, dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín
dụng; đối với doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết
định thành lập, quyết định bổ nhiệm người điều hành.
- Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả
nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền
từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán … Sau đó cần
phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số

tài chính sau:
+ Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity ratios):
Hệ số lưu động = tài sản nợ lưu động / nợ ngắn hạn . Hệ số này phải lớn
hơn 1, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ
đúng hạn.
Hệ số thanh khoản nhanh = tài sản lưu động – hàng tồn kho / nợ ngắn hạn.
Các doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho chậm đòi hỏi hệ số này phải
cao, còn doanh nghiệp có hệ số vòng quay hàng tồn kho nhanh thì chỉ tiêu
này có thể nhỏ hơn 1.
Hệ số ngân quỹ = ngân quỹ / nợ ngắn hạn
+ Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ (Leverage ratios):
Hệ số nợ = tổng tài sản – vốn chủ sở hữu / tổng tài sản. Hệ số này có giá trị
nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 là lý tưởng vì có ít nhất phân nửa tài sản của doanh
nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu.
Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi. Hệ số này
đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ.
+ Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios):
Hệ số vòng quay hàng tồn kho = giá vốn hàng bán / hàng tồn kho
Hệ số vòng quay các khoản phải thu = doanh thu / các khoản phải thu
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
24

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hệ số vòng quay tài sản = doanh thu thuần / tổng tài sản
+ Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios):
Hệ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần
Hệ số thu nhập trên tổng tài sản = tổng lợi tức sau thuế / tổng tài sản
Hệ số thu nhập trên vốn thuần = tổng lợi tức sau thuế / vốn chủ sở hữu thuần
Tuỳ theo từng loại hình tín dụng mà ngân hàng quan tâm đến các chỉ số khác
nhau: cho vay ngắn hạn thì lưu ý đến các chỉ số lưu động, chỉ số về nợ; cho

vay dài hạn thì quan tâm đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng
và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
- Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tuỳ theo
chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều
kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của
NHTW quy định theo từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong
pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của
người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng ?
● Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor’s:
Rủi ro tín dụng hay rủi ro không hoàn được vốn trái phiếu của công ty
thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu. Những đánh giá này
được chuẩn bị bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó Moody’s và
Standard & Poor’s là những dịch vụ tốt nhất.

Xếp hạngTình trạng
Moody’s Aaa Chất lượng cao nhất
Aa Chất lượng cao
A Chất lượng vừa cao hơn
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
25

×