Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.23 KB, 32 trang )

CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG
TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ CÔNG TÁC MỞ RỘNG
THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm và phân loại
1.1. Khái niệm
Thị trường là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn bó chặt chẽ với
khái niệm phân công lao động xã hội. Ở đâu và khi nào có phân công lao
động xã hội và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy có thị trường. Cùng với
sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa khái niệm thị trường có
nhiều biến đổi và ngày càng được bổ sung hoàn thiện hơn.
Ban đầu thị trường quan niệm đơn giản là nơi diễn ra các hoạt động
trao đổi, mua bán hàng hóa của các chủ thể kinh tế. Thị trường có tính
khách quan, thời gian, có mặt cả người mua người bán và đối tượng được
đem ra trao đổi. Thị trường được xem như các chợ của làng, của địa
phương. Khi sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, các mặt hàng trở
nên phong phú, đa dạng với nhiều hình thức trao đổi phức tạp hơn thì cách
hiểu thị trường như cũ không phản ánh đầy đủ bản chất của thị trường, đòi
hỏi phải có quan niệm phù hợp hơn.
Theo nghĩa hiện đai, thị trường là quá trình mà người mua, người
bán tác động qua lại để xác định giá cả và lượng hàng hóa mua bán.
Còn theo Philip Kotler, trong các tác phẩm về Marketting của mình, quan
niệm” thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một
nhu cầu hay mong muốn cụ thể sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi
để thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn đó. Ở đây Philip Kotler phân chia
người bán thành ngành sản xuất còn người mua thì hợp thành thị trường.
Trong hệ thống lý thuyết kinh tế, nhiều khái niệm thị trường được ghi nhận
song hầu hết các quan niệm trên chủ yếu quan niệm thị trường có tính chất
vĩ mô. Các quan niệm này vừa đủ để nhận dạng thị trường của ngành, của
1
nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó có thể đưa ra các chủ trương, chính


sách để hoạch định và quản lý thị trường. Tuy nhiên ở giác độ này các
doanh nghiệp khó có khả năng mô tả chính xác và cụ thể các thành phần
tham gia và các yếu tố cấu thành nên thị trường của doanh nghiệp. Như vậy
khó đưa ra các công cụ điều khiển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
có hiệu quả.
Khi trình bày về thị trường, thông thường có thể hiểu:
- Thị trường là tổng hòa các mối quan hệ mua bán
- Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu.
- Thị trường là nơi trao đổi hàng hóa hay thị trường là cái chợ.
1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường
- Cung: được thể hiện bởi các nhà sản xuất hoạt động một cách độc lập và
mang tính cạnh tranh. Cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn
bán ở mỗi mức giá chấp nhận được.
- Cầu: là lượng một mặt hàng mà người mua muốn mua ở một mức giá
chấp nhận được. Khi xác định cầu phải xác định không phải là cầu nói
chung mà là cầu hướng vào doanh nghiệp, nghĩa là xác định khối lượng cầu
cụ thể về hàng hóa của doanh nghiệp ứng với mỗi mức giá nhất định. Phân
tích cầu thị trường chính là phân tích khách hàng vì nếu không hiểu khách
hàng thì không thể phát triển được thị trường.
- Giá cả: là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Nó xuất phát
từ quy luật cung cầu.
- Sự cạnh tranh: cạnh tranh là sự ganh đua giữa cá nhân doanh nghiệp trong
hoạt động kinh doanh nhằm giành giật các nguồn lực hay thị trường tiêu
thụ nhằm thu lợi nhuận.
2. Phân loại
Mô tả thị trường doanh nghiệp theo tiêu thức tổng quát, thị trường
của doanh nghiệp bao gồm: thị trường đầu vào( nguồn cung cấp) và thị
trường đầu ra( nguồn tiêu thụ).
2
2.1. Thị trường đầu vào: liên quan tới khả năng và các yếu tố ảnh hưởng

tới nguồn cung cấp đầu vào của doanh nghiệp
2.2. Thị trường đầu ra: liên quan trực tiếp đến mục tiêu của Mar là giải
quyết vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất cứ một yếu tố nào dù
rất nhỏ của thị trường nay đều có ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau
đến thành công hay thất bại trong tiêu thụ. Đặc điểm và tính chất của thị
trường tiêu thụ là cơ sở để doanh nghiệp hoạch định và tổ chức thực hiện
các chiến lược, sách lược, công cụ điều khiển tiêu thụ.
Để tiêu thụ thị trường của doanh nghiệp, có thể sử dụng riêng biệt hoặc kết
hợp ba tiêu thức cơ bản: sản phẩm, địa lý và khách hàng.
2.2.1. Thị trường tiêu thụ theo hình thức sản phẩm:
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp thường xác định thị trường theo
ngành( dòng sản phẩm) hay nhóm hàng mà họ kinh doanh và bán ra thị
trường. Tùy theo mức độ mô tả, nghiên cứu người ta có thể mô tả ở mức độ
khái quát cao hay cụ thể.
Ví dụ:
- Thị trường kim loại.
- Thị trường hàng hóa tiêu dùng
- Thị trường hàng xuất khẩu.
- Thị trường hàng gia dụng.
2.2.2. Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức địa lý
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp thường xác định thị trường theo
phạm vi khu vực địa lý mà họ có thể vươn tới để kinh doanh. Tùy theo mức
độ rộng hẹp có tính toàn cầu khu vực hay lãnh thổ có thể xác định thị
trường của doanh nghiệp.
- Thị trường trong nước:
Thị trường miền Bắc: Hà Nội, Hải Dương….
Thị trường miền Nam: Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh….
Thị trường miền Trung: Huế, Đà Nẵng….
3
Thị trường khu vực: thị trường các tỉnh phía bắc, thị trường đồng bằng

sông Cửu Long….
- Thị trường nước ngoài
Thị trường quốc tế
Thị trường châu lục: Thị trường châu Mĩ, thị trường châu Âu
Thị trường khu vực: Thái Bình Dương, ASEAN….
Phân tích thị trường theo tiêu thức này thường mang tính khái quát cao,
khó đưa ra được những chỉ dẫn cụ thể về nhu cầu của các nhóm đối tượng (
khách hàng) có nhu cầu rất khác nhau trên cùng một khu vực địa lý.
2.2.3. Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức khách hàng với nhu cầu của họ
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp mô tả thị trường của mình theo các
nhóm khách hàng mà họ hướng tới để thỏa mãn, bao gồm cả khách hàng
hiện tại và khách hàng tiềm năng. Về lý thuyết, tất cả những người mua
trên thị trường đều có thể trở thành khách hàng của doanh nghiệp nhưng
trên thực tế nhu cầu của khách hàng rất đa dạng. Họ cần những sản phẩm
khác nhau để thỏa mãn nhu cầu. Để thỏa mãn nhu cầu, khách hàng có thể
có nhiều cách thức mua sắm và sử dụng khác nhau trong khi doanh nghiệp
chỉ có thể lựa chọn và đáp ứng tốt một hoặc một số yêu cầu về cách thức
mua sắm, sử dụng nào đó của khách hàng. Điều đó dẫn đến một thực tế là
hình thành nên thị trường – những nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có
thể chinh phục.
Việc xác định thị trường theo tiêu thức khách hàng thường gặp khó
khăn nhưng nó cho phép doanh nghiệp xác định cụ thể hơn đối tượng cần
tác động( khách hàng), nó đưa ra được những quy định về sản phẩm giá cả
xúc tiến và phân phối đúng hơn, phù hợp hơn với nhu cầu và đặc biệt là
những nhu cầu mang tính cá biệt của đối tượng tác động. Vì thế để thực
hiện mục tiêu của Mar cần chú trọng đến tiêu thức này.
4
Trên thực tế, ba tiêu thức trên thường được sử dụng khi mô tả của doanh
nghiệp ở các mức độ nhấn mạnh khác nhau tùy theo mục tiêu cần nghiên
cứu.

2. Vai trò của thị trường
Đối với một doanh nghiệp, thị trường tiêu thụ sản phẩm luôn đứng ở
vị trí quan trọng, nó vừa là mục tiêu, vừa là môi trường hoạt động kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp và nhất là trong cơ chế kinh tế thị trường hiện
nay thì các doanh nghiệp phải sản xuất và bán những thứ thị trường cần
chứ không phải bán cái mình có.
2.1. Chức năng thừa nhận
Thị trường là yếu tố quyết định sự sống còn đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của người sản xuất hàng hóa
là để bán, để thỏa mãn nhu cầu của người khác. Còn thị trường là còn sản
xuất kinh doanh, mất thị trường thì sản xuất kinh doanh bị ngừng trệ. Các
doanh nghiệp không thể tồn tại một cách đơn lẻ mà mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh đều phải gắn với thị trường. Thị trường và doanh nghiệp có mối
liên hệ mật thiết, doanh nghiệp chịu chi phối trực tiếp của thị trường. Thị
trường tiêu thụ càng mở rộng và phát triển thì lượng sản phẩm được tiêu
thụ càng nhiều và khả năng phát triển sản xuất càng cao và ngược lại.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thị trường ngày càng khẳng định vai
trò quan trọng của mình. Khi doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm trên thị
trường tức là sản phẩm của doanh nghiệp đã được chấp nhận, sản phẩm có
uy tín trên thị trường.
2.2. Chức năng thực hiện
Chức năng này đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá
trị trao đổi. Hàng hóa bán được tức là có sự dịch chuyển hàng hóa từ người
bán sang người mua. Thị trường điều tiết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Nó đóng vai trò hướng dẫn sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường. Xuất phát từ nhu cầu khách hàng, căn cứ vào cung giá cả
5
trên thị trường để doanh nghiệp xác định sản xuất kinh doanh cái gì, số
lượng bao nhiêu và cho ai.
2.3. Chức năng điều tiết và kích thích

Thị trường đánh giá khả năng vận động và phát triển của doanh
nghiệp. Thị trường là nơi kiểm tra, đánh giá các chương trình, kế hoạch,
quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn vào thị trường doanh
nghiệp sẽ thấy được tốc độ, mức độ tham gia vào thị trường của doanh
nghiệp cũng như quy mô sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường, các kế
hoạch, chiến lược, quyết định kinh doanh của doanh nghiệp mới thể hiện
được những ưu nhược điểm của chúng. Doanh nghiệp xác định được vị trí
của bản thân và đối thủ cạnh tranh, từ đó đưa ra nhưng chiến lược và giải
pháp đúng đắn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.4. Chức năng thông tin
Thị trường phản ánh tình hình biến động của nhu cầu cũng như của
giá cả và giúp doanh nghiệp có được những định hướng đúng. Thị trường
cung cấp nhưng thông tin quan trọng đối với nhà sản xuất, kinh doanh kể
cả người mua và người bán, cả người quản lý và người nghiên cứu sáng
tạo. Không có thông tin thị trường không thể có quy định đúng đắn trong
sản xuất kinh doanh cũng như quy định của các cấp quản lý.
3. Công tác mở rộng thị trường
3.1. Quan niệm
Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp đều mong muốn tìm kiếm thêm
những thị trường nhằm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh số
bán, tăng lợi nhuận. Trên một thị trường không chỉ có một mình doanh
nghiệp mà còn rất nhiều đối thủ cạnh tranh luôn có xu hướng chiếm lĩnh thị
trường của một doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp phải khai thác và mở
rộng thị trường của mình để có khả năng bán được nhiều hàng hơn, nâng
cao doanh thu, tăng lợi nhuận.
6
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là cuộc chạy đua
không có đích cuối cùng. Vì vậy mở rộng thị trường vừa là mục tiêu vừa là
phương thức quan trọng để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển sản
xuất kinh doanh.

Mở rộng thị trường có thể phân tích trên ba tiêu thức: theo tiêu thức
địa lý, khách hàng và sản phẩm.
- Theo tiêu thức địa lý: tức là doanh nghiệp mở rộng địa bàn hoạt động kinh
doanh, tăng sự hiện diện của mình trên các địa bàn mới bằng cách mở rộng
mạng lưới bán hàng là hệ thống các hệ thống các đại lý, cửa hàng, quầy
hàng, điểm bán của doanh nghiệp được bố trí và sắp xếp liên kết với nhau
trong hệ thống nhằm tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. Trên thị trường
hiện tại của doanh nghiệp có thể có các đối thủ cạnh tranh đang cùng chia
sẽ khách hàng và những khách hàng hoàn toàn mới chưa hề biết đến sản
phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cố gắng tiêu thụ thêm sản
phẩm trên địa bàn thị trường hiện tại, chào bán sản phẩm tới khách hàng
tiềm năng.
- Theo tiêu thức sản phẩm: Sản phẩm của doanh nghiệp là một hệ thống
thống nhất các yếu tố có liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm thỏa mãn đồng bộ
nhu cầu của khách hàng. Mở rộng thị trường theo tiêu thức sản phẩm là đưa
thêm ngày càng nhiều dạng sản phẩm hàng hóa dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu
cầu, thị hiếu muôn màu muôn vẻ của thị trường, tăng cường tối đa việc tiêu
thụ sản phẩm trên thị trường hiện tại. Để làm tốt công tác này doanh nghiệp
phải xác định được lĩnh vực, nhóm hàng thậm chí là một sản phẩm cụ thể
mà doanh nghiệp có lợi thế nhất để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Theo tiêu thức khách hàng: Thị trường của doanh nghiệp thường là tập
hợp các khách hàng rất đa dạng khác nhau về lứa tuổi, giới tính, thu nhập,
sở thích tiêu dùng. Doanh nghiệp kích thích khuyến khích các nhóm khách
hàng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp vì trước đây sản phẩm của doanh
nghiệp mới chỉ phục vụ một nhóm khách hàng nào đó và đến nay, doanh
7
nghiệp muốn chinh phục các nhóm khách hàng mới nhằm nâng cao số
lượng sản phẩm được tiêu thụ.
3.2. Vai trò
Bất kì một doanh nghiệp nào khi hoạt động trên thương trường đều

theo đuổi rất nhiều mục tiêu. Tùy từng thời kì, giai đoạn khác nhau vị trí
của doanh nghiệp trên thị trường là khác nhau nên mục tiêu của doanh
nghiệp theo đuổi cũng khác nhau. Nhưng tựu chung lại mục tiêu chủ yếu
của hầu hết tất cả các doanh nghiệp là lợi nhuận và thị phần trên thị trường.
2.1. Mở rộng thị trường là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển
Trên thị trường lúc nào sự cạnh tranh cũng rất quyết liệt và mạnh
mẽ. Hoạt động mở rộng thị trường góp phần khai thác nội lực cho doanh
nghiệp dưới giác độ kinh tế, nội lực được xem là sức mạnh nội tại, là động
lực là toàn bộ nguồn lực bên trong của sự phát triển kinh tế. Không có thị
trường thì doanh nghiệp không thể tồn tại. Quá trình khai thác và phát huy
nội lực là quá trình chuyển hóa các yếu tố sức lao động, tư liệu lao động
thành sản phẩm hàng hóa và thành thu nhập của doanh nghiệp. Phát triển
thị trường vừa là cầu nối vừa là động lực để khai thác, phát huy nội lực tạo
thực lực kinh doanh cho doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển không ngừng
của khoa học kĩ thuật đã tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế, làm cho tốc độ
phát triển của nền kinh tế cao. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải đẩy mạnh
công tác phát triển thị trường.
2.2. Mở rộng thị trường đảm bảo sự thành công cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
Nền kinh tế thị trường rất năng động nó đòi hỏi các doanh nghiệp
đều phải cố gắng khai thác triệt để các nguồn thu, tận dụng tối đa các cơ
hội kinh doanh. Mở rộng thị trường giúp cho doanh nghiệp thu thêm nhiều
lợi nhuận, từ đó bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư cũng như các quỹ của
doanh nghiệp. Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất ra nhiều sản
phẩm với chất lượng và mẫu mã tốt hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng
8
cao của xã hội. Mở rộng thị trường sẽ tạo cho doanh nghiệp khẳng định
được vị trí của mình trên thị trường, nâng cao uy tín của sản phẩm.
Trên thị trường lúc nào cũng có sự cạnh tranh quyết liệt của nhiều
doanh nghiệp khác nhau cùng sản xuất hay tiêu thụ một số loại mặt hàng.

Mở rộng thị trường sẽ tăng nhanh được tốc độ tiêu thụ sản phẩm, góp phần
đẩy nhanh chu kỳ tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay của vốn, tạo
động lực thúc đẩy chiến thắng trong cạnh tranh , nâng cao số lượng bán ra.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ MỞ RỘNG THỊ
TRƯỜNG
1. Yếu tố vĩ mô
Sự tác động của các yếu tố này không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan
của doanh nghiệp, nó tác động một cách khách quan lên hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể tận dụng được để mở
rộng thị trường của mình hoặc tìm ra các biện pháp để giảm những tác
động không tốt của nó lên hoạt động của doanh nghiệp.
1.1. Chính trị, luật pháp
Sự ổn định của môi trường chính trị, luật pháp là một trong những
điều kiện tiền đề quan trọng quyết định tới sự thành công của doanh
nghiệp. Nếu thể chế chính trị, ổn định theo đường lối mở rộng với một hệ
thống luật pháp hoàn chỉnh, đồng bộ sẽ tạo ra một môi trường, sân chơi
bình đẳng cho các doanh nghiệp, từ đó tạo niềm tin cho doanh nghiệp trong
việc phát huy nỗ lực để mở rộng thị trường. Ngược lại, nó là mối đe dọa,
không kích thích được công tác mở rộng thị trường phát triển.
1.2. Yếu tố văn hóa, xã hội
Con người sống trong bất kì xã hội nào cũng mang một bản sắc văn
hóa tương ứng với xã hội đó. Văn hóa xã hội là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến hành vi của con người qua đó ảnh hưởng đến cách thức mua sắm và sử
dụng sản phẩm của khách hàng. Quan niệm sống, lối sống, phong tục tập
quán và sở thích của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau sẽ tác động
9
đến hành vi mua khác nhau. Do đó doanh nghiệp muốn duy trì hoặc mở
rộng thị trường thì không thể trái với những chuẩn mực đó mà phải có
chiến lược để phù hợp.
1.3. Khoa học kỹ thuật và công nghệ

Khoa học kỹ thuật và công nghệ mang đến cho đời sống con người
những tác động đầy kịch tính. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo ra điều kì
diệu cho cuộc sống con người. Các yếu tố này nói lên mức đọ tiến tiến,
trung bình hay lạc hậu của công nghệ và trang thiết bị sản xuất đang được
sử dụng trong nền kinh tế nói chung cũng như trong từng doanh nghiệp nói
riêng. Công nghệ khác nhau sẽ sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng
khác nhau, năng suất lao động khác nhau, từ đó có sự chênh lệch nhau về
năng lực cạnh tranh ở mỗi một nền kinh tế, mỗi một doanh nghiệp. Vì vậy
nó ảnh hưởng đến khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ ở mỗi doanh
nghiệp.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên còn rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng đến
việc mở rộng thị trường của doanh nghiệp như yếu tố kinh tế, yếu tố tự
nhiên…. Qua trạng thái tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ giá hối đoái, lạm
phát, thất nghiệp… ta có thể dự đoán được hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp cao hay thấp, khả năng tích lũy và đầu tư như thế nào, môi trường
kinh doanh, đầu tư có hấp dẫn hay không. Từ đó doanh nghiệp xác định
được xem nên duy trì thị trường nào, mở rộng hay thu hẹp thị trường nào.
Bên cạnh đó các điều kiện tự nhiên như thời tiết, khoáng sản, vị trí địa lý,
cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động đến doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có
điều kiện tự nhiên tốt , vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng xã hội hiện đại
sẽ tạo ra lợi thế so sánh hơn các doanh nghiệp khác. Nếu khai thác hợp lý,
doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh và dẫn tới thị trường ổn định
và không ngừng mở rộng.
2. Yếu tố vi mô
10
Những yếu tố này nằm trong bản thân nội tại của doanh nghiệp, thể
hiện khả năng tiềm lực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chủ động kiểm
soát được các nhân tố này, phát huy những yếu tố thuận lợi tích cực, đồng
thời hạn chế loại bỏ những yếu tố không có lợi.
2.1. Khách hàng

Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ đồng thời là yếu
tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Khách hàng tạo
nên thị trường, quy mô khách hàng tạo nên quy mô thị trường. Nhu cầu của
khách hàng khác nhau và thường xuyên biến đổi ảnh hưởng đến thị trường
tiêu thụ của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp phải có mối quan hệ tốt
với khách hàng để nắm bắt được những nhu cầu và sự biến đổi trong nhu
cầu của khách hàng.
Doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường tiêu thụ của mình phải căn
cứ vào khách hàng và quyền lực đàm phán của họ. Vì vậy doanh nghiệp
cần phân chia tập hợp khách hàng thành từng nhóm, thành những đoạn thị
trường khác nhau như trình độ văn hóa, giới tính, tuổi tác, thu nhập. Từ sự
phân chia đó doanh nghiệp sẽ xác định được cho mình những phân đoạn thị
trường tiềm năng từ đó tập trung nguồn lực để mở rộng, phát triển đoạn thị
trường đó.
2.2. Tiềm năng và các mục tiêu của doanh nghiệp
Trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược thị trường doanh
nghiệp gặp rất nhiều những ảnh hưởng cả thuận lợi và bất lợi. Khả năng
tiềm tàng của doanh nghiệp chính là một trong những nhân tố ảnh hưởng
lớn đến việc mở rộng thị trường tiêu thụ.
- Tiềm lực tài chính: là yếu tố phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông
qua lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào sản xuất kinh doanh,
khả năng phân phối đầu tư và quản lý hiệu quả các nguồn vốn. Mở rộng thị
trường cần đến một nguồn vốn lớn cho việc trang trải mở rộng quy mô sản
11
xuất( mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, thuê lao động), tăng hoạt
động xúc tiến thương mại, tăng hoạt động tìm hiểu thị trường.
- Nguồn nhân lực: Nhân sự trong công ty luôn là yếu tố quyết định đến sự
thành công của doanh nghiệp. Nếu việc sử dụng nhân sự không hiệu quả sẽ
gây ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu tìm kiếm thông tin về thị trường là cần thiết, do đó khâu quản lý

nhân sự mà yếu sẽ ảnh hưởng tới việc thu thập thông tin về thị trường, hơn
nữa trình độ chuyên môn nhân sự không được công ty quan tâm đánh giá
thường xuyên cũng ảnh hưởng nhiều đến tình hình công tác mở rộng thị
trường của doanh nghiệp.
- Điều kiện công nghệ của doanh nghiệp
Mọi hoạt động sản xuất ra sản phẩm đều cần các yếu tố đầu vào như máy
móc, thiết bị với điều kiện công nghệ nhất định. Công nghệ tiên tiến, hiện
đại sẽ góp phần tạo ra sản phẩm hợp quy cách và theo tiêu chuẩn kỹ thuật.
Nếu doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao và giá thành hạ
thì sản phẩm sẽ tiêu thụ dễ dàng hơn. Mở rộng sản xuất dẫn đến mở rộng
thị trường, cần thu hút nhiều lao động. Ngược lại, sản xuất yếu kém thì
hàng hóa không bán được, tổn thất tài chính ảnh hưởng đến thái độ của
công nhân viên trong công việc. Từ đó ảnh hưởng đến chính sách mở rộng
thị trường của công ty.
2.3. Người cung ứng
Để tiến hành sản xuất ra hàng hóa hay dịch vụ cung cấp cho thị
trường bất kì công ty nào cũng cần được cung cấp các yếu tố đầu vào như:
nguyên, nhiên, vật liệu, phụ tùng, bán thành phẩm, chi tiết, máy móc, thiết
bị phục vụ sản xuất và quản lý. Những biến động trên thị trường các yếu tố
đầu vào luôn luôn tác động một cách trực tiếp với mức độ khác nhau tới
các quyết định sản xuất của công ty. Do đó nguyên vật liệu là bộ phận
trọng yếu của tư liệu sản xuất, là yếu tố trực tiếp cấu thành thực thể của sản
phẩm, chất lượng của nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
12

×