Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bàn luận về vấn đề đổi mới toàn diện nội dung và phương pháp dạy học ở bậc học phổ thông trên quan điểm biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.3 KB, 17 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI – 1986, đất nước ta bước vào
thời kỳ đổi mới với một xuất phát điểm phải nói là rất thấp. Nhưng nhìn lại
q trình hơn 20 năm đổi mới ấy chúng ta không khỏi tự hào về những thành
quả mà chúng ta đã đạt được về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội… đất nước
ta đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên chúng
ta cũng đã phải mất đi nhiều thứ mà khơng phải ai cũng nhìn thấy! Phải chăng
đây là một quy luật tất yếu của sự phát triển?
Trong 20 năm ấy, nền giáo dục của nước ta cũng không ngừng phát triển
để ngày càng phù hợp với xu thế phát triển của các nước trên thế giới. Chỉ
tính riêng từ năm 1995 đến nay nước ta đã có ít nhất là 3 lần thay đổi chương
trình giảng dạy ở các bậc học phổ thông. Và lần thay đổi gần đây nhất, đổi
mới tồn diện chương trình ở cả 3 cấp trong bậc học phổ thông: Tiểu học,
THCS và THPT mà năm học 2008 – 2009 làm năm cuối cùng hồn thành
chương trình đổi mới đó. SGK ngoài việc giúp HS nâng cao năng lực tự học
phải đảm bảo yêu cầu phân hóa, chú ý tới đặc điểm lứa tuổi HS và điều kiện
dạy học cụ thể của cấp học. Đây là vấn đề từ nhiều năm trước vẫn chưa thực
hiện được. Tại đợt tập huấn bồi dưỡng giáo viên cốt cán thực hiện chương
trình - SGK lớp 12 THPT, TS. Nguyễn Trọng Hồn - Phó vụ trưởng Vụ GD
phổ thơng đánh giá: “chương trình thay SGK cấp TH và THCS đã hoàn thiện
tương đối tốt, quá trình thực hiện có nhiều điều kiện thuận lợi và kết quả đã
thể hiện được sự đổi mới rõ rệt...” [5]
Mọi cái mới đều gây ra những dư luận xung quanh nó. Việc thay đổi
chương trình dạy học ở bậc học phổ thơng cũng khơng nằm ngồi quy luật đó.
Những dư luận xung quanh vấn đề này bao gồm cả khen và chê. Nhiều người
cho rằng: việc đổi mới là tất yếu, là cấp thiết trong thời đại mới, thời đại của
công nghệ thông tin, của khoa học phát triển và thời đại hội nhập quốc tế;
Nhưng cũng khơng ít ý kiến cho rằng việc đổi mới như hiện nay vẫn chưa



thực sự mang lại hiệu quả và còn nhiều bất cập như: vấn đề học tiếng việt của
học sinh tiểu học, nội dung kiến thức của từng môn học chưa phù hợp với
thực tế, cịn nhiều kiến thức chưa chính xác và còn rất nhiều ý kiến khác nữa
được phát biểu và bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đứng trên lập
trường của phương pháp biện chứng, chúng ta thử nhìn nhận lại quá trình đổi
mới chương trình dạy học ở hệ thống giáo dục phổ thông bằng cách xét lại
những kết quả mà chúng ta đã đạt được từ sự đổi mới ấy.
Xuất phát từ mong muốn làm rõ ý nghĩa của việc thay đổi chương trình
giáo dục ở bậc học phổ thông nên tôi đã quyết định chọn đề tài “Bàn luận về
vấn đề đổi mới toàn diện nội dung và phương pháp dạy học ở bậc học phổ
thông trên quan điểm biện chứng” làm đề tài tiểu luận triết học của mình. Hy
vọng đề tài này sẽ góp thêm một ý kiến hữu ích cho cơng tác thay đổi chương
trình ở các bậc học phổ thơng. Tuy nhiên, để cho đề tài này mang tính khách
quan hơn, rất mong được sự đóng góp ý kiến của giảng viên và quý bạn đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
II. Phương pháp thực hiện đề tài:
- Tổng hợp tài liệu.
- Tìm hiểu thơng tin dư luận xung quanh vấn đề nghiên cứu.
- Phân tích các ý kiến dư luận trên quan điểm của phép biện chứng duy
vật. Từ đó rút ra kết luận và đưa ra những kiến nghị cần thiết trong quá trình
thực hiện đổi mới chương trình ở bậc học phổ thông.


PHẦN II: NỘI DUNG
I. Lý luận chung.
Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được
cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược
chiều nhau, đối lập nhau. Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại và liên tục vận
động theo những quy luật nhất định để phát triển trong thế giới khách quan và
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó.

1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất:
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng
một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó, cần phải phân
biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong
các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại hai mặt
đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật hiện tượng có thể cùng tồn tại
nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng
một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều
nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau (Sự chuyển hoá này tạo thành
nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất, khuynh hướng phát triển
của sự vật) thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu
thuẫn. “Thống nhất” của hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải
chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng
như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy
mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu
một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định khơng có sự tồn
tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không
thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào.
Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo
nên.


Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tương đối. Bản thân
nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: Thống nhất
của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối
lập.
Đấu tranh các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật khơng tách rời
sự đấu tranh chuyển hố giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong

một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên
nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của
bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các
mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thơng
thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay
gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự
khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những khác nhau tồn tại
trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau,
tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ây mới hình
thành bước đầu cuả một mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn
phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập. Sự vật cũ
mất đi, sự vật mới hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống
nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối
lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn.
mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa
các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì
vậy, Lênin khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, Lênin chỉ ra rằng: “Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại


với ý nghĩa là chính nó – nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng
ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song
bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các
mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi
chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết: “sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất,
tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng

qua trong tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt
đối cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối”. [2,3]
2. Chuyển hố của các mặt đối lập:
Khơng phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hố giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến
một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển
hoá, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt
đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các
mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thơng qua hoạt động có ý thức của con
người. Do đó, khơng nên hiểu sự chuyển hố lẫn nhau giữa các mặt đối lập
chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thơng thường thì mâu
thuẫn chuyển hố theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập
kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành
hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự
vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những
thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh
chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được


giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh
các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để
tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi khơng ngừng. Vì vậy, mâu
thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá phát triển.[2,3]
3. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về

chất và ngược lại.
Đây chính là cách thức vận động và phát triển của các sự vật và hiện
tượng. Trong đó, chất là tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà khơng phải là cái
khác. Lượng là tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mơ,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như các thuộc
tính của nó. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng. Giới hạn,
trong đó những thay đổi về mặt lượng của sự vật chưa gây ra những thay đổi
căn bản về chất được gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt quá giới hạn độ
sẽ làm cho chất của sự vật biến đổi căn bản. Điểm mà tại đó sự biến đổi căn
bản về chất được thực hiện được gọi là điểm nút. Bước nhảy là bước thay đổi
căn bản về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra. Mối quan
hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất cịn có chiều ngược lại.
Đến lượt nó, sự thay đổi về chất lại tác động đến lượng, thúc đẩy lượng tiếp
tục phát triển.[1,2,3]
II. Thay đổi chương trình giảng dạy ở bậc học phổ thông là một tất yếu
khách quan
“Những năm gần đây sách giáo khoa liên tục thay đổi, nay đổi như thế
nầy, mai đổi như thế kia, gây khó khăn rất nhiều trong khâu giảng dạy, tốn
kém rất nhiều tiền của Nhà nước và của nhân dân, các Đại lý bán sách cũng
quá ngao ngán, ế đọng hằng loạt phải cân giấy vụn, tệ hại hơn là sách mới ra


đến học sinh thì có q ư là sai sót, Ngành giáo dục thì độc quyền trong việc
kinh doanh sách giáo khoa (cái nào cịn độc quyền thì cái đó cịn tệ hại). Giá
sách thì q đắt, 1 bộ sách lớp 6, 7 hơn 100.000 ngàn nhà nghèo làm thế nào
cho con học nổi,…” ()
“…Mỗi năm, 1 bộ sách mới + sách Anh văn khoảng 140 000 đồng. Cả
nước có trên 13 triệu học sinh cấp1,2. vậy dân chúng phải bỏ ra hơn 1820
tỉ/năm. Số tiền này chạy vào túi các nhà xuất bản: người nghèo nghèo thêm,

người giàu thì khỏi phải nói!!!
Như vậy, Bộ Giáo dục với quy định lãng phí này chẳng khác nào đang
tiếp tay làm nghèo dân. nghèo nước và làm trái với quan điểm thực hành tiết
kiệm chống tham ơ lãng phí của Hồ Chủ Tịch…” (Trần Thiện Lan
) [4]
Hầu hết những ý kiến cho rằng việc thay đổi chương trình sách giáo
khoa là khơng cần thiết trong giai đoạn hiện nay đều tập trung vào vấn đề tài
chính vì rõ ràng việc thay tồn bộ hệ thống sách giáo khoa như thế này là cực
kỳ tốn kém. Tuy nhiên, những người phê phán công cuộc này đã không thấy
được bản chất của vấn đề này mà chỉ tập trung trên một khía cạnh về kinh tế.
Thử đặt câu hỏi: nếu chúng ta không thực hiện đổi mới chương trình lúc này
mà thực hiện sau 10 năm hay 20 năm nữa thì chúng ta có tốn kém ít hơn
chừng 1820 tỉ/năm khơng? Tơi chắc là con số đó cịn cao hơn bây giờ rất
nhiều, đó là chưa kể những thiệt hại về tri thức, kỹ năng của học sinh mà
chúng ta khơng nhìn thấy được.
Vấn đề đặt ra ở đây là: “Vì sao phải thay đổi chương trình sách giáo
khoa ở bậc học phổ thơng?”. Có thể nói rằng, hệ thống giáo dục của Việt
Nam đang đi sau thế giới khoảng 30 năm nếu không muốn nói là hơn.
Chương trình giáo khoa cũ chú trọng đào tạo con người lao động với đầy đủ
kiến thức lý thuyết mà quên mất rằng con người không chỉ sống bằng lý
thuyết sng đó được. Con người phải được đặt vào chính mơi trường sống
của họ, làm quen với tư liệu sản xuất mà họ có và học cách làm chủ nó, có


như vậy việc học mới đạt được mục tiêu đào tạo ra những người lao động
năng động, sáng tạo và chủ động trong lao động. Điều này đã được nhiều
nước trên thế giới đặc biệt là các nước phương Tây cực kỳ chú trọng, không
phải ở các nước này không chú trọng về việc bổ sung kiến thức lý thuyết mà
ngoài vốn kiến thức lý thuyết vừa phải ra, họ chú trọng vào việc rèn luyện kỹ
năng cho học sinh mà đặc biệt là kỹ năng làm việc độc lập, tự chủ, nhằm phát

huy tính sáng tạo, chủ động của mỗi người kết hợp rèn luyện kỹ năng làm
việc theo nhóm để phát huy tinh thần tập thể, sự tích cực của mỗi thành viên
trong nhóm đồng thời phát huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong quá trình
học tập.
Năm 2006, nước ta trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), chính thức bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đó
thực sự là một cơ hội lớn để chúng ta phát triển kinh tế đất nước nhưng cũng
là một thách thức không nhỏ khi khoảng cách về kinh tế, văn hóa, giáo dục,…
của chúng ta và các nước trên thế giới càng ngày càng xa. Vậy, làm thế nào
để chúng ta có thể rút ngắn và dần dần tiến tới lấp đầy khoảng cách đó? Chỉ
có một cách đó là nâng cao trình độ lao động, phát triển nền kinh tế tri thức và
để làm được điều này chúng ta không thể dựa vào chương trình giáo khoa
hiện tại. Nếu đào tạo theo chương trình cũ, thì như đã nói ở trên, chúng ta chỉ
đào tạo ra được những con người lý thuyết, nhút nhát, không tự làm chủ được
khả năng của mình,… bởi vì những gì họ học được chỉ là lý thuyết, chưa từng
thấy những công cụ sản xuất hiện đại thì làm sao có thể vận hành nó để sản
xuất ra của cải vật chất được. Trong điều kiện như vậy, chương trình sách
giáo khoa cũ có sự mâu thuẩn gay gắt với sự phát triển đi lên của xã hội,
nhiều kiến thức tỏ ra khơng cịn phù hợp, khơng đáp ứng được nhu cầu hồn
thiện nhân cách và kỹ năng của người học trong hoàn cảnh mới và một bộ
sách giáo khoa mới được biên soạn theo hướng đổi mới hình thức tiếp cận
kiến thức và chú trọng vào việc rèn luyện kỹ năng, thao tác được xem như
một “làn gió mát lành thổi vào cơng cuộc giáo dục đang trở nên gị bó, oi


bức”. Đứng trước cơ hội và thách thức đó, ngành Giáo dục và Đào tạo đã có
chủ trương đổi mới tồn diện nội dung chương trình dạy học ở bậc học phổ
thông nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực để đáp ứng được nhu cầu phát triển
của thời đại.
Bên cạnh việc thay đổi về chương trình nội dung sách giáo khoa với

nhiều kiến thức mới được cập nhật, nhiều kiến thức khơng cịn phù hợp đã
được thay thế, bổ sung; Bộ Giáo dục và đào tạo còn chủ trương thay đổi
phương pháp dạy học, chuyển từ phương pháp truyền thống, nặng về đọc,
chép sang phương pháp phát huy tính tích cực của người học, chú trọng rèn
luyện phương pháp tự học,… Cùng với việc đổi mới nội dung thì việc đổi mới
về phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay cũng đã góp phần đào tạo ra
những con người chủ động hơn, sáng tạo hơn trong cuộc sống và lao động,
đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế hội nhập.
Xét trên quan điểm biện chứng duy vật chúng ta thấy rằng khi lượng
thay đổi – trình độ sản xuất, nhận thức của nhân loại trên toàn cầu đã phát
triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều sự đột phá; thì chất cũng sẽ có những biến đổi căn
bản để phù hợp với sự thay đổi của lượng – phải thay đổi cách thức giáo dục
và đào tạo con người. Quy luật về mối quan hệ giữa lượng và chất đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo vận dụng trong cơng tác thay đổi chương trình một cách
đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với quy luật của sự phát triển, khơng hề tỏ ra
nơn nóng, q trình thay đổi diễn ra trong nhiều năm, chứ khơng làm ào ạt
một lúc, điều này vừa giúp tiết kiệm ngân sách quốc gia nhưng đồng thời tạo
ra sự tích lũy kinh nghiệm và thu nhận những ý kiến đóng góp của dư luận để
ngày càng hồn thiện một chương trình đủ khả năng làm thay đổi bộ mặt giáo
dục hiện nay.
Như vậy, qua việc phân tích này chúng ta thấy rằng việc đổi mới chương
trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học là một tất yếu khách quan, hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đã mang lại những hiệu quả


vô cùng to lớn trong công tác giáo dục. Không công nhận những thành quả
của công tác này là rơi vào lập trường chủ quan, siêu hình, đi ngược lại với
sự phát triển của lịch sử, xã hội.
III. Những hạn chế và giải pháp khắc phục trong công tác thay đổi chương
trình:

Chủ trương thay đổi chương trình ở bậc học phổ thơng là hồn tồn hợp
lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, đây cũng không phải là lần đầu
tiên chúng ta tiến hành thay đổi chương trình. Tuy vậy, trong q trình thực
hiện nó cũng đã xuất hiện nhiều hạn chế, có thể nói rằng hạn chế cũng là một
tất yếu khách quan không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, tìm ra
những hạn chế và kịp thời khắc phục những hạn chế đó sẽ làm tăng hiệu quả
của cơng tác thay sách nói riêng và chiến lược phát triển giáo dục nói chung,
góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế quốc gia.
Qua một thời gian tìm hiểu dư luận xung quanh vấn đề thay đổi chương
trình sách giáo khoa, tơi đã nhận thấy một số hạn chế cơ bản sau:
- Hầu hết các cuốn sách giáo khoa mới hiện nay có khá nhiều lỗi cả về
chính tả và kiến thức.
Ví dụ: “SGK Tiếng Việt lớp 4 tập 1 trang 28 khái niệm như sau : "Tiếng
cấu tạo nên từ. Từ chỉ gồm một tiếng gọi là từ đơn. Từ gồm hai hay nhiều tiếng
gọi là từ phức".
Tôi thiết nghĩ, khi khái niệm về từ loại như vậy chưa chính xác theo tơi
tham khảo nhiều thì "từ chỉ gồm một tiếng có nghĩa gọi là từ đơn"…”
() [4]
“Tôi xin đề cập đến một sai lầm nghiêm trọng của sách Hình học nâng
cao 10. Đặc biệt sự sai sót này lại xảy ra ngay trong bài đầu tiên của chương
đầu tiên nghĩa là sai sót ngay trong bài học đầu tiên. Trong §1 Các định nghĩa
của Chương I: VECTƠ sau mục 1. Vectơ là gì ? là mục 2. Hai vectơ cùng
phương, cùng hướng. Chúng ta hãy tập trung chú ý vào mục này. Sách giáo


khoa nêu : "Với mỗi vectơ AB (khác vectơ - không ), đường thẳng AB được gọi
là giá của vectơ AB. Cịn đối với vectơ - khơng AA thì mọi đường thẳng đi qua
A đều gọi là giá của nó. "Tiếp đó sách giáo khoa định nghĩa:
“ Hai vectơ được gọi là cùng phương nếu chúng có giá song song hoặc trùng
nhau”. Rõ ràng vectơ-không cùng phương với mọi vectơ “Bây giờ ta xét lập

luận sau: "Cho hình bình hành ABCD, Ta có đường thẳng AB là giá của vectơkhơng AA; đường thẳng CD là giá của vectơ CD mà AB // CD
Nên vectơ-không AA cùng phương với vectơ CD (1). Mặt khác đường thẳng
AD cũng là giá của vectơ-không AA mà AD cắt CD Nên vectơ-không AA không
cùng phương với vectơ CD (2) "Rõ ràng mệnh đề (2) là mệnh đề phủ định của
mệnh đề (1) nhưng cả hai đều đồng thời đúng. Như vậy từ sách giáo khoa ta
suy ra hai mệnh đề phủ định nhau nhưng đồng thời cùng đúng.
Do đó ta cần giải quyết vấn đề: vì sao lại nảy sinh hai mệnh đề phủ định nhau
nhưng đồng thời cùng đúng? sách giáo khoa sai ở đâu? Sự xuất hiện của mâu
thuẫn trên là do sách định nghĩa giá của vectơ-không. Để giải quyết vấn đề
trên theo tôi rất đơn giản, ta chỉ làm như sau:
● Chỉ định nghĩa giá của vectơ khác vectơ-không.
● Định nghĩa sự cùng phương của hai vectơ khác vectơ-không ( dựa trên
khái niệm giá của vectơ ).
● Sau đó qui ước: vectơ-khơng cùng phương với mọi vectơ.
Rõ ràng trình bày mục hai vectơ cùng phương như trên sẽ không dẫn đến
mâu thuẫn”. (Phan Gia Sinh – Hội An).[4]

Về vấn đề sai sót trong biên soạn và in ấn, Bộ Giáo dục cần có trách
nhiệm và kế hoạch đính chính một cách kịp thời nhằm đảm bảo cung cấp cho
học sinh một hệ thống kiến thức đầy đủ và chính xác.
- Việc chỉ xem sách giáo khoa như một loại tài liệu tham khảo của giáo
viên (Trước đây sách giáo khoa được xem là pháp lệnh) và “đẻ” ra một cái


gọi là “Chuẩn kiến thức bộ môn”. Điều này vừa giúp cho người giáo viên khi
lên lớp khơng cịn phụ thuộc vào sách giáo khoa, có thể tự do sáng tạo bài dạy
của mình miễn sao đúng theo “Chuẩn kiến thức bộ mơn” là được. Nói như
vậy thì “Chuẩn kiến thức bộ mơn” này có gì khác so với cuốn sách giáo khoa
trước đây?... Rồi còn sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng, sách bài tập,…
Như vậy, chúng ta thấy rằng nếu tập trung vào biên soạn 1 cuốn sách giáo

khoa hoàn hảo chắc chắn sẽ đạt chất lượng cao hơn và tiết kiệm ngân sách
hơn là sử dụng thêm cuốn “chuẩn kiến thức bộ môn”.
- Giá sách giáo khoa quá cao so với mức thu nhập bình quân của người
nghèo. Và vấn đề độc quyền xuất bản sách giáo khoa hiện nay của nhà xuất
bản Giáo dục. Đây là điều không tránh khỏi trong giai đoạn hiện nay nhưng
tơi thấy những ý kiến dưới đây cũng có thể đáng được xem xét và vận dụng:
“- Sách giáo khoa do Bộ Giáo dục soạn thảo cần được ấn vào
CD hay DVD, và gởi đến các trường để lưu trữ tham khảo và
cho phép sao chép.
- Vì đọc sách trong CD/DVD làm mất nhiều thời giờ và cần có
máy vi tính, nên Bộ cần cho in ra sách gởi bán với giá vừa phải,
nếu quá đắt thì đành phải dùng CD/DVD vậy.
- Cho phép các nhà xuất bản in lại sách, sau khi trả một số tiền
bản quyền tùy theo số sách sẽ in ra. Nhà xuất bản phải in đúng
nguyên bản của Bộ giáo dục, nhưng được phép in thêm các ghi
chú để giải thích, bình luận, ý kiến bổ túc... để giúp cho sự học
hỏi. Số lượng sách bán được sẽ tùy thuộc khả năng ghi chú
hữu ích riêng của mỗi Nhà xuất bản, ghi chú giảng giải hay thì
nhiều người mua. Bộ Giáo dục cũng thu thập được kinh nghiệm
do các ghi chú bình luận của các nhà xuất bản, và điều chắc
chắn là Nhà xuất bản sẽ mời các giáo sư danh tiếng hợp tác.


- Theo Bộ trưởng Văn hóa Thơng tin Phạm Quang Nghị chua
xót nhận xét. (Theo VNExpress 23/3/2006) Theo ơng, "nếu có sự thay đổi một
vài bài, một vài chữ, có thể in gộp các bài cần sửa ấy vào một cuốn, hướng
dẫn cho cho giáo viên, học sinh sử dụng, thay vì bỏ cả bộ sách cũ mua sách
mới. Như thế, sẽ tiết kiệm được rất nhiều ngân sách nhà nước
và tiền của nhân dân."…” ()[4]
- Một hạn chế nữa cũng rất đáng phải quan tâm đó là hiện nay trên thị

trường sách giáo khoa tồn tại những cuốn sách giáo khoa khác nhau: sách in
thử để dạy thực nghiệm, sách tái bản có đính chính,… học sinh thật khó để
biết được quyển nào là in thử và quyển nào là tái bản và chỉ thực sự nhận thấy
khi đã sử dụng. Thiết nghĩ, Bộ Giáo dục nên thu hồi lại những quyển sách
giáo khoa chưa được chỉnh sửa trên thị trường để tránh những sự nhầm lẫn
đáng tiếc.
Và hạn chế lớn nhất, cơ bản nhất của chương trình cả cũ và mới đều mắc
phải đó là tính phù hợp giữa kiến thức lý thuyết và thực tiễn có lẽ chưa được
quan tâm, chú ý đúng mức. Điều này gây ra khơng ít khó khăn cho học sinh
và cả giáo viên trong q trình lên lớp.
Ví dụ: Bộ mơn sinh học là một môn khoa học thực nghiệm, môn khoa
học nghiên cứu về các loài sinh vật, dạy học sinh học không thể tách rời thế
giới tự nhiên. Tuy nhiên trong quá trình biên soạn sách giáo khoa sinh học lại
mắc phải một số khiếm khuyết như: Sách giáo khoa Sinh học 7: Thời gian học
cấu tạo và mổ ếch đồng theo phân phối chương trình thì học sinh lớp 7 được
học vào đầu học kỳ II, tức là khoảng tháng 2, lúc này thật khơng dễ tìm kiếm
được vật mẫu hổ trợ cho cơng tác dạy và học vì đây là thời gian ếch đồng
đang ngủ đông – một tập tính vơ cùng quan trọng của ếch đồng được đề cập
trong bài học. Hoặc những khiếm khuyết tương tự được tìm thấy trong sách
giáo khoa Sinh học 9, bài thực hành “Tập dượt thao tác giao phấn” với đối
tượng là lúa, bí ngơ,… lại được học vào thời điểm cuối học kỳ I, khi mà các


lồi cây này đã qua mùa ra hoa,… Tơi thiết nghĩ, khi biên soạn những nội
dung này, những người có trách nhiệm cần chú ý đến tính phù hợp giữa kiến
thức lý thuyết mà học sinh được học và thực tiễn khách quan của tự nhiên.
Trên đây là một số những hạn chế cơ bản của nội dung chương trình
sách giáo khoa mới, những hạn chế này không thuộc về bản chất của sự vật,
vì vậy, việc cần thiết nhất là phải khắc phục những hạn chế này để góp phần
nâng cao hiệu quả vốn có của chương trình mới.



PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
I. Kết luận:
Sau khi tìm hiểu những dư luận xung quanh vấn đề đổi mới chương trình
sách giáo khoa ở bậc học phổ thơng cũng như xem xét, phân tích những ý
kiến đó trên quan điểm biện chứng, tôi đã rút ra được một số kết luận cơ bản
về vấn đề này như sau:
Vấn đề đổi mới chương trình sách giáo khoa là hồn tồn phù hợp với
quy luật phát triển kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước cũng như trên thế
giới trong giai đoạn hiện nay. Đáp ứng được những tiêu chuẩn về một chương
trình có tính hệ thống, tồn diện và chính xác.
Sách giáo khoa mới đã đáp ứng được nhu cầu học tập của một bộ phận
lớn người học trong xã hội. Góp phần vào mục tiêu đào tạo con người trong
thời đại mới. Nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu và kích thích người học
tìm kiếm thêm những thông tin bổ trợ cho những kiến thức đã học, làm cho
học sinh trở nên tích cực, chủ động trong hoạt động học tập của mình nhờ đó
mà kiến thức sẽ được học sinh nhớ lâu hơn.
Đó là những kết quả mà chúng ta không thể không thừa nhận. Tuy nhiên
quá trình triển khai thực hiện vấn đề này cũng phát sinh những hạn chế nhất
định như những sai sót trong biên soạn, giá cả, nguồn gốc của sách giáo khoa
hay tính liên hệ thực tiễn chưa cao,… Những hạn chế này không hề phủ định
những kết quả to lớn mà chương trình sách giáo khoa mới đem lại, mà ngược
lại việc tìm ra những hạn chế, xác định nguyên nhân, bản chất của những hạn
chế này sẽ giúp cho q trình đổi mới tồn diện hơn, nâng cao hiệu quả của
công tác đổi mới.
II. Kiến nghị - đề xuất.
Bộ giáo dục và đào tạo cần kịp thời đính chính những sai sót cơ bản của
chương trình sách giáo khoa mới, tìm cách hạ giá thành của sách giáo khoa
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho mọi đối tượng học sinh đều đảm bảo có đủ



sách giáo để học tập đặc biệt là đối tượng học sinh có hồn cảnh khó khăn.
Đồng thời chuẩn hóa và ban hành những bộ sách chính thống, thu hồi những
bộ sách chưa được chỉnh sửa nhằm giúp học sinh và gia đình của họ khỏi phải
rơi vào tình huống dở khóc dở cười khi mua phải những bộ sách như vậy.
Trên đây là những ý kiến phân tích, bàn luận của tơi về vấn đề đổi mới
chương trình sách giáo khoa hiện nay, tuy có thể chưa thực sự sâu sắc và tồn
diện nhưng tơi hy vọng nó sẽ đóng góp vào dư luận một cách nhìn nhận mới,
khách quan hơn về vấn đề này.
Huế, tháng 12 năm 2008
Người viết

Bùi Thanh Long


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS Đoàn Quang Thọ (Chủ biên)- Giáo trình triết học (dành cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết) – NXB Lý
luận chính trị, 2004.
2. Nguyễn Thế Nghĩa – Những chuyên đề triết học – NXB khoa học xã hội,
2007.
3. GS. TS Nguyễn Ngọc Long – GS. TS Nguyễn Hữu Vui (Đồng chủ biên) –
Giáo trình Triết học Mac – Lenin – NXB Chính trị quốc gia, 2003.
4. Trang web của bộ giáo dục ( />5. Trang web của sở giáo dục TP. Hồ Chí Minh ( />


×