Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, con
ngời có rất nhiều những nhu cầu cần đợc đáp ứng: nhà để ở, quần áo để mặc,
những trò chơi dể giải trí, sách vở để học hành .Nh ng dù ở trong quá
khứ, hiện tại hay ở tơng lai thì có lơng thực dể sinh tồn vẫn là nhu cầu cơ bản
nhất, thiết yếu nhất của mỗi con ngời và của cả loài ngời. Bởi vì con ngời vẫn có
thể sống một cách hoàn toàn bình thờng mà chẳng cần đến những toà biệt thự
sang trọng, những bộ quần áo đắt đỏ, những trò giải trí xa xỉ .Nh ng chắc
chắn là chúng ta sẽ chết nếu nh chúng ta không có lơng thực cho dù chúng ta là
kĩ s hay bác sĩ, là học sinh hay sinh viên, là ngời Việt Nam hay ngời ấn Độ
Vậy nên việc sản xuất và đảm bảo an ninh lơng thực quả là một vấn đề quan
trọng và rất đáng đợc quan tâm ở tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt là đối
với các nớc nông nghiệp nh ấn Độ và Việt Nam Những nhà xuất khẩu gạo
hàng đầu của thế giới trong những năm gần đây. Là một sinh viên của chuyên
nghành ấn Độ học, tôi thực sự mong mỏi rằng việc tìm hiểu vấn đề: Sản xuất
và xuất khẩu gạo của ấn Độ từ sau cải cách kinh tế tháng 7 năm 1991 sẽ mang
lại cho tôi những kiến thức sâu sắc về ngành Nông nghiệp của ấn Độ nói chung
và về lĩnh vực này nói riêng .
Tuy nhiên trong giới hạn một bài niên luận với độ dài 20 trang, sẽ rất khó
cho tôi nếu phải đề cập đến tất cả các lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu lúa gạo
của ấn Độ. Điều này chẳng khác gì cố gắng tóm tắt cuộc đời vinh quang và sự
nghiệp vĩ đại của một nhân vật lịch sử trong vòng ba dòng ngắn ngủi. Vậy nên
trong bài niên luận này, tôi xin đợc tập trung vao những vấn đề sau:
Chơng 1: Sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ trớc cải cách kinh tế
tháng 7 năm 1991
1.Khó khăn- thử thách
2.Giải pháp
3.Kết quả và hạn chế
Chơng 2: Sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ từ sau cải cách kinh
tế tháng 7 năm 1991
1.Đổi mới chính sách nông nghiệp của ấn Độ từ cải cách Kinh tế:
Nguyên nhân và chính sách
2.Những thành tựu của nghành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của ấn Độ
từ sau cải cách Kinh tế 7.1991.
3. Những mặt hạn chế của ngành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của
ấn Độ trong những năm gần đây .
Chơng 3 : Hợp tác giữa các nớc sản xuất và xuất khẩu gạo để giải
quyết vấn đề bình ổn giá gạo xuất khẩu và tạo nguồn lợi chính đáng cho
ngời nông dân trồng lúa.
I. Ch ơng 1 : Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của ấn Độ từ sau cải cách
kinh tế tháng 7 năm 1991.
1.Khó khăn thử thách
Ngay sau khi giành đợc độc lập 194, ấn Độ buộc phải đối mặt với vô vàn
những khó khăn. Một trong số đó là làm sao có thể khắc phục đợc tình trạng
thiếu lơng thực và đảm bảo đợc vấn đề an ninh lơng thực cho một số dân không
nhỏ 350 triệu ngời mà số dân ấy lại đang tăng lên hàng ngày hàng giờ.
Để có thể thực hiện đợc nhiệm vụ nặng nề ấy, đối với chính phủ ấn Độ
lúc bấy giờ quả thực là một điều cực kì khó khăn. Bởi ngoài thuân lợi: ấn Độ
vừa giành đợc độc lập và hiện đang sở hữu một đồng bằng vào hàng rộng lớn
nhất Thế giới - đồng bằng châu thổ sông Hằng , với lợng phù sa ở hạ lu dày từ
600-800 m, thì ấn Độ đang đứng trớc rất nhiều khó khăn.
Thứ nhất: Diện tích đất phục vụ cho canh tác nông nghiệp của ấn Độ rất
thấp so với tổng diện tích lãnh thổ, vậy nên diện tích dành cho nghành trồng
lúa còn thấp hơn nhiều. Nhắc tới ấn Độ chắc có nhiều ngời ấn tợng với một
quốc gia rộng lớn với diện tích lãnh thổ 329 triệu km2 là nớc có diện tích lớn
nhất ở khu vực Nam á và lớn thứ bảy trên thế giới. Nhng diện tích dất canh tác
trong nông nghiệp sau ngày độc lập chỉ dừng lại ở mức 143 triệu km2 chiếm
43,5% tổng diện tích lãnh thổ.
2
Thứ hai : Hoạt động sản xuất lúa gạo của ấn Độ còn phụ thuộc rất nhiều
vào cơ chế hoạt động của gió mùa Tây nam yếu tố có vai trò quyết định đối
với khí hậu của ấn Độ. Gió mùa Tây Nam thổi từ vùng ấn Độ Dơng tới đất liền
vào mùa hạ ( nên còn đợc gọi là gió mùa mùa hạ), gió này mang theo rất nhiều
ma . Song sự phân bố ma lại không đồng đều đã tạo ra những vùng khí hậu ẩm -
ớt và cả những vùng có khí hậu khô hạn. ở các sờn núi Gát Đông và Gát Tây và
ở vùng hạ lu của con sông Hằng ( những nơi trực tiếp đón gió mùa mùa hạ) lợng
ma tơng đối cao. Nên đây chính là địa bàn thuận lợi cho việc trồng đay trồng ,
mía đặc biệt là cây lúa. Trái lại, ở các vùng nh Đông Bắc, lu vực sông ấn và ở
giữa cao nguyên Đêcan , lợng ma ít hơn rất nhiều . Ngay ở trong mùa hạ - mùa
ma, hạn hán vẫn thờng xuyên xảy ra gây thiệt hại nghiêm trọng cho mùa màng.
Trừ hai con sông lớn sông ấnvà sông Hằng, các con sông của ấn Độ đều hiếm
nớc. Do đó, năm nào gió mùa Tây Nam đến muộn, vì thiếu nớc mà việc cày bừa
cho vụ sau bị chậm lại, rơm cỏ cho súc vật vì thế cũng khan hiếm. ở nhiều nơi,
ngay cả nứoc phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân còn khó khăn do các mạch n-
ớc ngầm bị cạn cả , cha nói gì đến nớc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba : Chế độ sở hữu ruộng đất của ấn Độ còn tồn đọng nhiều điểm
bất bình đẳng. Nông dân chiếm tới 85% dân số nhng chỉ nắm trong tay 15%
ruộng đất. Trong khi đó địa chủ chí chiếm 15% dân số nhng lại thâu tóm đến
85% tổng diên tích ruộng đất. Có thể nói chính chế độ sở hữu ruộng đất này đã
kĩm hãm sự phát triển của nghành sản xuất nông nghiệp của ấn Độ .
Thứ t : Trình độ sản xuất còn rất thô sơ và lạc hâụ. Phần lớn các công
việc đồng áng nh cày, bừa và làm đất đều sử dụng sức súc vật thậm chí ở nhiều
nơi vần còn dùng đến sức ngời. Mức độ sử dụng phân bón cũng rất thấp, phân
hoá học chỉ khoảng 3kg/ha trong khi đó nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng
phân hoá học ở con số trên 100kg/ha, điển hình nh Nhật Bản tới 135,9kg/ha.
Chính những khó khăn ấy mà trong vòng gần hai trăm năm dới ách đô hộ
của thực dân Anh, những c dân đợc coi là may mắn sống sót đã phải đau lòng
trớc thảm cảnh nạn đói đe doạ và cớp đi sinh mạng của hạng chục triệu ngời.
3
Và cũng chính vì những lí do ấy mà sau ngày giành đợc độc lập, tuy là một nớc
nông nghiệp nhng hàng năm ấn Độ vẫn phải nhập một khối lợng lơng thực
khổng lồ để đảm bảo vấn đề an ninh lơng thực cho nớc nhà.
2. Giải pháp
Đứng trớc những trở ngại lớn nh vậy, ấn Độ đã thực hiện hàng loạt các
chính sách kinh tế nhằm phát triển nghành nông nghiệp nói chung và nghành
sản xuất lúa gạo nói riêng: Cải cách ruộng đất (1947-1954); ba lần kế hoạch 5
năm (1951-1966); và cuộc cách mạng xanh 1967.
Cải cách ruộng đất hay còn gọi là luật thay thế Daminda đợc bắt đầu vào
năm 1947 và kết thúc vào năm 1954 đợc đánh giá là bớc quan trong đầu tiên
trong chính sách kinh tế của chính phủ ấn Độ . Đã từ lâu trên lãnh thổ của ấn
Độ luôn tồn tại hai chế đọ sở hữu ruộng đất: Daminda và Raiyatvari.
Chế độ Daminda có từ thời trung đại: các chủ đất có quyềh thừa kế đất
đai và họ cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo nh quy định.
Chế độ Yaiyatvari là chế độ thuế đất do thực dân Anh đặt ra từ thế kỉ thứ
XIX ở ấn Độ trong đó quyền sở hữu tối cao ruộng đất thuộc về nhà nớc còn địa
chủ và nông dân chỉ có quyền chiếm hữu theo chế độ lĩnh canh vô thời hạn .
Hình thức Raiyatvari vẫn còn đợc bảo lu. Luật cải cách ruộng đất chỉ tiến
hành ở những vùng theo chế độ Daminda nên cải cách ruộng đất còn đợc gọi là
luật thay thế Daminda.
Ba năm sau thời điểm bắt đầu cuộc cải cách ruộng đất, ấn Độ tiến hành
liên tiếp ba lần kế hoạch 5 năm ( 1951-1956; 1956-1961; 1961-1966). Nội dung
chủ yếu của các giai đoạn nay là phát triển Nông nghiệp theo hớng quảng canh .
Vì ta cũng biết rất rõ là sau ngày độc lập nguồn dự trữ đất đai của ấn Độ vẫn
còn rất nhiều ( 143 triệu ha phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong tổng số 329
triệu ha diên tích lãnh thổ). Đối với một nớc vừa mới dành đợc độc lập nh ấn
Độ nên kĩ thuật canh tác còn thô sơ lac hậu, thì hởng quảng can lúc đó là phù
hợp trong việc đa diện tích đất còn bỏ hoang vào canh tác.
4
Ngày 27.5.1964 J.Nehru ngời con vĩ đại của dân tộc ấn Độ, ngời đã kiến
tạo nớc ấn Độ mới, ngời bạn lớn của cac nớc đang phát triển đã qua đời giai
doạn ổn định tạm thời của tình hình trong nớc cũng chấm dứt. ấn Độ lâm vào
tình trạng khủng hoảng Kinh tế Xã hội trầm trọng. Tình trạng thiếu lơng thực
tiếp tục căng thẳng, đặc biệt là những năm 1965-1966. Theo báo cáo của Bộ L-
ơng thực từ tháng 4 đến tháng 6.1966, có 52 triệu ngời ấn Độ bị chết đói. Nhiều
ngời do đói quá đã phải lấy lá cây, thậm chí giết cả bò cái đế ăn- một việc làm
mà cộng đồng những ngời ấn Độ giáo cho là tội lỗi và cấm kị. Thời gian này
ấn Độ cũng phải nhập một lợng lơng thực lớn từ 6,3 triệu tấn năm 1965 đến
10,5 triệu tấn năm 1966.
Nh vậy việc phát triển Nông nghiệp theo hớng quảng canh không thể
đem lại hiệu quả lớn. Vậy nên vấn đề mấu chốt ở đây chính là làm sao nâng cao
đợc năng suất cây lúa . Ngay sau khi kế hoạch 5 năm lần thứ ba kết thúc năm
1966, vào tháng 7. 1967 chính phủ ấn Độ đã quyết định đa nông nghiệp và
nghành xản xuất lúa gạo phát triển theo hớng thâm canh- nghĩa là phát triển
theo chiều sâu với nội dung chính là sử dụng giống cao sản.
3.Thành quả và hạn chế
Với một loạt cac chính sách kinh tế nhằm cải biến tình hình, nghành sản
xuất lúa gạo đã đạt đợc những kết quả đáng kể, tuy nhiên vẫn còn những điểm
hạn chế .
Luật thay thế Daminda cũng đã làm giảm đi phần nào số lợng nông dân
không có ruộng đất hoặc có ruộng đất nhng ở dới mức tối thiểu để có thể duy trì
nổi cuộc sống. Thêm vào đó, cuộc cải cách ruộng đất cũng có nhiều tác động
nhất định đối với sản xuất lúa gạo: phá vỡ những dàng buộc kiểu phong kiến
đồng thời cũng mở ra hàng loạt các quan hệ sản xuát và kinh doanh nông
nghiệp theo kiểu t bản chủ nghĩa, cho phép tiếp thu kĩ thuật mới, góp phần nâng
cao năng suất lao động và sản lợng lúa gạo.
Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn nhìn nhận một điều rằng cải cách ruộng
đất cũng chỉ đơn thuần là một cuộc cải cách mang tính chất cải lơng: chỉ hạn
5
chế phần nào số lợng chủ đất chứ không xoá bỏ hoàn toàn chênh lệch về sở hữu
ruộng đất giữa địa chủ và nông dân
Bằng chứng là số nông dân không có ruộng đất vẫn tiếp tục tăng một
cách nhanh chóng. Trong vòng 10 năm( 1947-1957), ấn độ đã có thêm 37 triệu
ngời không có ruộng đất. Theo điều tra năm 1981, có tới 160 triệu ngời có sở
hữu ruộng đất nhng ở dới mức sinh tồn ( nhỏ hơn 1 ha) và tới 140 triệu dân
không có ruộng đất để sản xuất.
Về ba lần kế hoach 5 năm, đã đem lại những kết quả khả quan cho
nghành sản xuất lúa gạo.: Tổng sản lợng lúa gạo tăng. Nhng cũng cần lu ý rằng
sự gia tăng ấy có đợc chủ yếu dựa vào chiến dịch mở rộng diện tích đất canh
tác( đa thêm 100,45 triệu ha đất khai hoang vào sản xuất), nghĩa là phát triển
trồng trọt theo hởng quảng canh- theo bề rộng , chứ không phát triển theo hớng
thâm canh- theo chiều sâu với tâm điểm là ứng dụng khoa học kĩ thuật phục vụ
cho sản xuất, sử dụng giống cao sản Cho nên tổng năng xuất có tăng nh -
ng thực chất năng suất lúa gạo trên một đơn vị diện tích vẫn chẳng có gì thay
đổi.
Có thể nói cuộc cách mạng xanh của nhân dân ấn Độ đã đóng vai trò
quyết định đến việc tăng sản lợng lúa gạo. Nếu nh trớc năm 1967, ấn Độ liên
tục phải nhập khẩu lúa gạo để đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của nhân
dân, thì đến đầu thập kỉ 80 ấn Độ đã tự túc đợc nguồn lúa gạo. Riêng sản lợng
lúa nớc trong vòng 40 năm ( 1950-1990) tăng gấp hơn 5 lần từ 20,6 triệu tấn lên
111,8 triệu tấn lúa gạo. Chính cuộc cách mạng xanh đã đặt nền móng cơ bản để
ấn Độ trở thành một nớc xuất khẩu lúa gạo lớn của thế giới trong những năm
sau này.
Nhng cuộc cách mạng xanh vẫn còn những hạn chế: chỉ đợc triển khai ở
một số vùng có điều kiện thuận lợi nh vùng đồng bằng sông ấn Hằng ( bang
Punjap, Hairiana và một số bang khác). Vì những vùng này có các cơ sở hệ
thống thuỷ lợi, ngời nông dân giàu có hơn nên có vốn đầu t. Chính điểm hạn
chế này đã khiến sản lợng lúa gạo của ấn Độ vẫn cha đạt so với yêu cầu.
6
Ch ơng 2 : Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của ấn Độ từ sau cải cách
kinh tế tháng 7. 1991
1. Đổi mới chính sách nông nghiệp của ấ n Độ từ cải cách kinh tế .
a.Nguyên nhân
Đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 có rất nhiều biến động xảy ra
trên thế giới: sự tan rã, sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu- Đây vốn là các nớc bạn hàng lớn và lâu năm của ấn Độ, thêm vào đó
là cuộc chiến tranh vùng vịnh đã đem đến cho nền kinh tế ấn Độ không ít
những điều bất lợi. Đặc biệt là có rất nhiều những khó khăn nảy sinh từ trong
nội tại của nền kinh tế ấn Độ: đó là sự kìm hãm về cơ chế quản lí, sở hữh nhà
nớc quá cao, sự can thiệp quá sâu của chính phủ vào các hoạt động kinh doanh
và cả sự hạn chế đối với t bản.
Tất cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan kể trên đã biến ấn
Độ từ mô hình tự lực tự cờng không những trở thành một mô hình tự cấp tự
túc ( hạn chế quan hệ với bên ngoài, kìm hãm sự tăng trởng dẫn đến tình trạng
lạc hậu và thấp kém hơn hẳn so với các nền kinh tế khác trong khu vực châu á
nh hàn Quốc, Đài Loan và các nớc trong khối ASEAN) mà còn đa nền kinh tế
ấn Độ vào tình trạng khủng hoảng nặng nề.
Cuộc khủng hoảng kinh tế biểu hiện trên nhiều khía cạnh: hơn 30 triệu
dân ở trong tình trạng thất nghiệp; nợ nớc ngoài lên đến 70 tỉ USD; nguồn dự
trữ ngoại tệ tính cho đến tháng 5. 1991 chỉ còn vẻn vẹn 1 tỉ US D; Đầu t trung
bình chỉ đạt 100 triệu USD; thêm vào đó, sau vụ ấn Độ trục xuất hai công ty
Côcacôla và IBM ra khỏi lãnh thổ thì xem chừng không khí đầu t trực tiếp từ n-
ớc ngoài vào ấn Độ đã lắng hẳn xuống, nhiều nhà đầu t đã xa lanhs thậm chí
còn bỏ rơi ấn Độ để tìm nơi đầu t ở những quốc gia khác có triển vọng hơn.;
mức tăng GDP tụt xuỗng còn có 0,8% vào những năm tài hính 1991-1992; lạm
phát dâng cao, nhiều ngành công nghiệp gặp khó khăn, tình hình Xã hội luôn
căng thẳng và bất ổn.
7
Riêng về tình hình sản xuất lúa gạo, mặc dù ấn Độ đã tự túc đợc lúa gạo
từ những năm đầu của thập kỉ 80, sản lợng lúa tăng đáng kể, thậm chí còn tích
trữ đợc một lợng lúa gạo để xuất khẩu :
1980-1981 1984-1985
Giá trị gạo xuất khẩu (triệu rupi) 2.238,6 1.1619,9
Tỉ trọng lúa gạo trong cơ cấu hàng xuất
khẩu (%)
0,32 1,44
Nhng xét đến cùng, thì tỉ trọng của mặt hàng gạo trong cơ cấu hàng
xuất vẫn còn thấp hơn so với các mặt hàng khác nh: hàng dệt 13,9% năm 1980-
1981 và 20,4% năm 1984-1985; hàng thủ công mĩ nghệ 13,94% năm 1980-
1981 và 14,09% năm 1984-1985 ..Dù tình hình sản xuất lúa gạo có khả
quan hơn trớc nhng không có nhà kinh tế nào dám chắc sẽ không còn ngời dân
nào phải lấy lá cây hay giết bò cái để ăn thịt nh những năm 1965-1966, nhất là
khi nền kinh tế của ấn Độ đang rơi vào tình trạng khủng hoảng mà tình hình xã
hội lại căng thẳng trong khi dân số đang tăng lên vùn vụt.
Đứng trớc tình trạng đó, chính phủ ấn Độ do ông Narasimha Rao
(N.Rao) lãnh đạo, đã chủ trơng điều chỉnh chính sách. Thủ tởng N. Rao từng
nói rằng : Thế giới đã thay đổi, các nớc đều đã thay đổi và không có gì biện
minh nếu nh ấn Độ không thay đổi. Chúng ta phải điều chỉnh và có cách đề cập
thực tế, nhng chúng ta sẽ không bao giờ thay đổi những nguyên tắc và những
mục tiêu đó.
Để thực hiên đợc điều này, từ tháng 7.1991 ấn độ tiến hành một cuộc cải
cách kinh tế toàn diện- một cuộc chuyển đổi chiến lợc từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp và tự lực cánh sinh theo kiểu đóng cửa, tự cấp tự túc, thực hiện
trong suốt 4 thập kỉ từ cuối những năm 50 cho đến hết những năm 80 của thế kỉ
20, sang chiến lợc tự do hóa và mở cửa thực hiện từ đầu những năm 90 nhằm
tăng cờng sức sống cho nền kinh tế, tăng cờng hội nhập khu vực và quốc tế
trong một thế giới đang vận động mạnh mẽ sang thế kỉ thứ 21.
b. Chính sách cải cách trong nghành trồng lúa
8