Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Tự do luân lý Ki-tô giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.16 KB, 48 trang )

Dẫn Nhập
Tự do luân lý Ki-tô giáo trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo chỉ chiếm một
phần khiêm tốn trong toàn bộ của sách nói chung, và trong toàn bộ phần luân lý
Ki-tô giáo nói riêng, vì sách Giáo Lý chỉ trình bày nội dung tự do luân lý Ki-tô
giáo vỏn vẹn tất cả là 19 so (ở mục 3, thuộc phần thứ 3 của sách). Nhưng sách
Giáo Lý vẫn cho thấy tự do là một trong những nền tảng nòng cốt trong đời sống
luân lý Ki-tô giáo. Vì " sẽ không có luân lý nếu vắng bóng tự do", câu nói đó của
Giám Mục Mgr André- Mutien LEONARD đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
tự do trong luân lý(X. Chất vấn luân lý, 1994 ; trang 42), và sách Giáo Lý còn
làm nổi bật trọng tâm của tự do luân lý trong chương trình cứu độ(X. SGL, số
1739 - 1742).
Chính Chúa Ki-tô là nội dung của ơn cứu độ, Ngài là tột đỉnh của mặc khải. Qua
đó, Thiên Chúa tỏ bày cho con người biết ý định và công trình cứu độ của Người,
đồng thời Người cho con người biết Ðấng cứu độ là Ðấng nào, Ngài chờ đợi gì
nơi con người.
Khi con người đứng trước thảm trạng của tội lỗi và làm nô lệ cho tội lỗi, là con
người mất tự do, tức là mất khả năng hiến thân cho Thiên Chúa và tha nhân.
Trước thảm trạng đó, Chúa Ki-tô đã công bố : "Các ngươi sẽ biết sự thật, và sự
thật sẽ cho các ngươi được tự do"(Ga 8,32). Và Ngài mặc khải tiếp : "Chính Thầy
là con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6). Chúa Ki-tô chính là sự thật,
Ngài đã mở ra cho nhân loại con đường dẫn đến tự do. Do đó, nhận biết Ngài là
nhận ra con đường dẫn đến tự do đích thực, mà tự do đích thực chính là khả
năng hiến thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Ðó là điều mà Ngài chờ đợi nơi
con người.
Thế nhưng, con người không thể đạt được sự tự do đó bằng sức riêng của mình.
Chúa Ki-tô đã lên án thái độ kiêu căng tự mãn của những người Do Thái, khi họ
tự phụ rằng đã là con cháu Abraham thì họ không còn là nô lệ nữa.
Tự do đích thực thiết yếu là một hồng ân của Chúa. Chúa Ki-tô đã xác quyết :
"Nếu Người Con có cho các ngươi được tự do, thì các ngươi mới đích thực được tự
do"
(Ga 8,36), chỉ có Chúa Ki-tô mới là Ðấng giải phóng đích thực của nhân loại ; chỉ


có Chúa Ki-tô mới mang lại tự do đích thực cho con người ; và tự do ấy là tự do
nền tảng cho mọi thứ tự do khác. Không có tự do đích thực ấy, nghĩa là không có
tự do khỏi tội lỗi, thì mọi thứ tự do khác chỉ là ảo tưởng mà thôi. Có tự do ấy tức
là sống theo đúng chân lý (sự thật). Con người được tạo thành theo và giống hình
ảnh Thiên Chúa Tình Yêu ; con người được mời gọi để nhận biết và phụng thờ
Thiên Chúa, và hiến thân cho tha nhân ; đó là chân lý mà các Ki-tô hữu không
ngừng được mời gọi để sống và làm chứng.
Ðể đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, con người hướng về Thiên Chúa với tất
cả tự do, ý thức và trách nhiệm của mình. Và như vậy, nền tảng cuối cùng của
đời sống luân lý là chính Thiên Chúa - Thiên Chúa là Cha. Người đã ban cho ta
tất cả thì đáp lại phải yêu mến và làm theo ý Người với lòng hiếu thảo.
Qua ân sủng và giáo huấn của Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô mài dũa lương tâm ta
thêm nhạy bén. Ðồng thời mỗi ngày Ngài càng đưa ra thêm nhiều đòi hỏi, vì Ngài
muốn đưa ta tới toàn thiện.
Ðó là tất cả những gì mà sách Giáo Lý muốn trình bày, và sẽ có ích trong đời
sống đức tin cũng như trong đời sống luân lý, nhất là công việc mục vụ sau này,
nếu chúng ta cố gắng tìm hiểu, phân tích tự do luân lý Ki-tô giáo trong sách Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo, 1992.
Dĩ nhiên, khi thực hiện nghiên cứu này, bản thân người nghiên cứu có rất nhiều
giới hạn :
- Trước hết, hạn chế về vốn ngoại ngữ. Do đó khi tìm hiểu, người nghiên
cứu chỉ tham khảo phần nhiều các tài liệu trích dịch bằng tiếng Việt,
chứ không dám tham khảo các tài liệu bằng ngoại ngữ và các tài liệu
gốc.
- Tiếp đến, vốn ngôn ngữ tiếng Việt cũng không được phong phú lắm.
Nên khi viết, diễn tả, hay trình bày những ý tưởng, những suy nghĩ . bản
thân người nghiên cứu gặp rất nhiều khó khăn trong lối hành văn : câu
văn sai, không đủ câu, không rõ ràng .
- Sau cùng hạn chế về khả năng phân tích - tổng hợp các ý tưởng có liên
quan tới vấn đề cần nghiên cứu. Do đó bài viết thiếu mạch lạc, không có

chiều sâu, chiều rộng.
Chính vì có những hạn chế trên, bài nghiên cứu này không nghiên cứu về tự do
theo các trường phái Tâm lý học, Triết học, hay các trường phái Thần học nào.
Nhưng chỉ là nghiên cứu hay phân tích sung quanh vấn đề tự do luân lý Ki-tô
giáo theo sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo mà thôi. Tuy nhiên, khi nghiên cứu
hay phân tích cũng còn có thể so sánh với các nền tảng khác như : Thánh Kinh,
Truyền Thống của Giáo Hội, và các sách Giáo lý khác hay các sách Thần học
khác.
Trong việc nghiên cứu, bản thân người nghiên cứu không dám làm một cuộc
khám phá mới, mà chỉ là muốn đọc lại hay học lại vấn đề, nhằm để hiểu vàthấy
được tự do luân lý Ki-tô Giáo trong sách Giáo lý, đó là một hồng ân của Chúa
Ki-tô, đồng thời nhằm giúp ích cho đời sống mục vụ sau này, nhất là việc dạy
Giáo lý.

CHƯƠNG I
VÀI SỰ KIỆN CĂN BẢN

I. QUYỀN TỰ DO
Theo tâm lý tự nhiên của con người, ai cũng ham muốn tự do, yêu thích tự do. Lý
do khiến con người ham muốn và yêu thích tự do, hay nói theo cách khác là sự "
khát vọng" tự do chính là từ sự kiện cảnh nô lệ, vì ở đâu có cảnh nô lệ thì ở đó có
cảnh cưỡng bách làm mất tự do, và ở đâu có sự cưỡng bách là ở đó có sự đấu
tranh chống lại sự cưỡng bách để dành lại sự tự do.
Một sự kiện có trong kinh nghiệm của con người, con người có ý thức về khát
vọng tự do, đồng thời cũng ý thức về sự thất bại của khát vọng đó, càng khát
vọng bao nhiêu thì càng có sức vươn lên bấy nhiêu. Do đó, con người có khát
vọng là con người có sức giải thoát mình khỏi tất cả mọi thứ cưỡng bách: những
cưỡng bách của thân xác khiến cho thân xác con người bị tê liệt; những cưỡng
bách do người khác, hạn chế đà tiến của mình; những cưỡng bách do vạn vật,
luôn va chạm đến cuộc sống của con người cách tàn bạo; những cưỡng bách của

chính tâm hồn mình, bất thuận với bản thân mình. Vì thế, khát vọng được giải
thoát này, chính là khát vọng giải thoát khỏi tất cả mọi thứ cưỡng bách đó, nhằm
đạt tới sự tự do, thống trị thế giới, xây dựng một cộng đoàn nhân loại, mở ra và
thực hiện niềm vui của mình.
Ngày nay, con người rất ngưỡng mộ và hăng say theo đuổi tự do. Và họ thực có
lý (x Gs, 17) vì theo họ, tự do rất quí. Nó là tất cả để người ta sống nhờ nó, chết
cho nó, coi tự do là điều quí hóa nhất nơi con người, vì chính Thượng Ðế cũng
tôn trọng tự do của con người (x bản dịch của Nguyễn Tri Sử (1991), Học Thuyết
Xã Hội Công Giáo, trang 161-162). Nên về cá nhân con người thì biết bao hình
thức đòi hưởng quyền tự do gần như tuyệt đối như : yêu vội, Beatle, tóc dài tóc
ngắn...về tập thể thì đòi dân tộc tự quyết, các phong trào giải phóng dân tộc...Ki-
tô giáo phải lấy cách sống tự do đích thực mà giác ngộ người thời đại thấy rõ : tự
do là thanh gươm hai lưỡi. Không sử dụng đúng tự do đích thực, chính những
bóng dáng tự do giả tạo sẽ giết luôn quyền tự do đích thực. E. Mounier đã phát
biểu có vẻ phi lý, song lại rất đúng với thực tế của cuộc sống con người thời nay :
"Tự do có điều kiện". Ðời người không bao giờ có tự do hoàn toàn. Ðời người là
bãi chiến trường cho tự do vật lộn với cái xấu nơi con người dể dần dà tự do
đành chiến thắng từng bước, từng phần. Tất cả công việc này phải nhờ trợ giúp
của Chúa Thánh Thần. "Ðâu có Thần Khí của Chúa thì đấy có tự do" (2Cr 3, 17).
Thế nhưng tự do có thật không? Thế nào là tự do, sự kiện con người có tự do
như thế nào? Tự do có giới hạn không? Giữa tự do thể lý và tự do luân lý, chúng
khác nhau và có sự liên lạc gì với nhau? Ðây là những điểm mà chúng ta cần
phải nghiên cứu thêm để làm rõ vài sự kiện căn bản của tự do.
II. TỰ DO CÓ THẬT KHÔNG ?
- Tự do có thật, ít là tự do thái độ. Và đó là đồng tình (ưng thuận) hay chống đối
(từ khước) ước muốn và quyết định. Chính thái độ ấy, nó đánh giá con người
mình, ngay cả trước khi có hành động hoặc không có hay chưa có hoàn cảnh để
hành động. Vì nền tảng của hành động tự do là ở ý thức và quyết định. Nên anh
A vì điên loạn mà giết người, vì bị trói mà không thể cứu người, thì không ai qui
trách nhiệm cho anh A cả. Như vậy tự do có thật, nhưng hậu quả của nó khi

quyết định và hành động là chuyện khác.
- Theo Gaudium et Spes, ở số 4 và số 17. Ðã khẳng địng rằng : Chưa bao giờ con
người ngày nay, lại ý thức mãnh liệt về tự do. Như vậy là tự do có thật, vì ngày
nay người ta đề cập nhiều tới vấn đề tự do ; nhấn mạnh đến quyền tự do ; Tự do
tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, tự do phụng tự. Ðó
là những quyền tự do cơ bản nhất của con người được công bố trong Tuyên
Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền, và được hầu hết các nước trên thế giới thừa
nhận. Như vậy là hợp lý!
Tuy nhiên, cũng có một vài xu hướng triết học chủ trương "thuyết định mệnh"
không công nhận có tự do trong hoạt động của con người, vì họ nghĩ rằng ; mọi
việc ta làm đều được qui định bởi các điều kiện tiên thiên và hậu thiên, như môi
trường sống, gia truyền, giáo dục...(x. Fouillé, La liberté et la déterminisme, Alcan,
Paris). Trong thần học cũng có những chủ trương tương tự của Luther, Calvin,
Jansénius ... họ nghĩ rằng : Sau tội nguyên tổ, tự do của con người đã bị kiệt quệ
và suy giảm đến độ không thể căn cứ vào đó để đoán định tội phúc. Vì thế, con
người bất lực trước sức lôi cuốn của khuynh hướng xấu, của mãnh lực tội lỗi. Do
đó, con người không còn quyền tự quyết để tự chọn điều lành tránh điều xấu nữa
(x. Maritain, Lidée thomiste de la Libertétrong tập san RTh, 1939, trang 440-500).
Như vậy còn đâu là phẩm giá làm người ? Mất tự do, con người như mất thế làm
chủ mọi việc mình làm, con người cũng chẳng còn có trách nhiệm về đời mình
nữa. Chúng ta đọc lại Hiến chế Gaudium et Spes của Công Ðồng Vaticanô II đã
quả quyết rằng: người thời nay "rất ngưỡng mộ và hăng say theo đuổi tự do, và họ
thực có lý". Bởi lẽ "phẩm giá làm người đòi hỏi họ phải hành động theo sự lựa
chọn có ý thức và tự do, nghĩa là chính con người được thúc đẩy và hướng dẫn tự
bên trong, chứ không do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn từ bên
ngoài" (x GS. 17). Chính vì được tự do tự quyết, con người chịu trách nhiệm về
cách sống của mình.
- Kinh Thánh đã chứng thực kinh nghiệm của cuộc sống : Con người có khả
năng lựa chọn làm lành hay làm dữ trong cuộc đời. Lệnh cấm ăn quả cây "sự
biết tốt xấu" (St2, 17), khẳng định "Ta đã đặt trước mặt ngươi hôm nay sự sống và

sự lành, sự chết và sự dữ" (Tl 30, 15) tỏ rõ con người được quyền "tự định liệu" đi
tìm Thiên Chúa và hạnh phúc (x GS 17). Chúa Giê-su chỉ cho nhập Nước Trời
những ai biết tự nguyện dấn thân đi vào (x Mt13, 18-23). Mỗi người sẽ lãnh
thưởng tùy theo sự thiện chí và cách sống của mình (x 1Cr 4, 5), dù cho ơn đó là
hồng ân Chúa ban để "lôi kéo nó" (Ga 6, 44). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma đoạn
6,15-17, thánh Phao-lô đã phân biệt cho chúng ta thấy : tuân phục tội lỗi là làm
nô lệ cho tội lỗi ; còn người tín hữu đã đón nhận phép Thánh Tẩy trong Ðức Ki-
tô thì làm nô lệ Thiên Chúa bằng cách vâng phục Người ; đây là sự tự do đích
thực, vì là việc phụng sự xuất phát từ tâm hồn, từ lòng yêu mến Thiên Chúa và
yêu mến tha nhân.
- Truyền thống Ki-tô giáo cũng hằng quả quyết phải tự do dấn thân, con người
mới được cứu độ. Trong tác phẩm De Libero arbitrio, Thánh Augustinô làm
chứng nguyên cớ làm lành hay tránh dữ, là chính là ý chí tự do của con người
(De civ. Dei 5, 10). Tóm tắt quan điểm truyền thống của Giáo Hội Công Giáo,
đồng thời cũng chống lại quan điểm của phong trào cải cách hay canh tân, Công
Ðồng Tridentinô xác định : Si quis liberum hominis arbitrium post Adae peccatum
amissum et exstinctum esse dixerit (...) a. s. (khóa VI, can 5 = D. 815) : "ai nói
rằng, sau tội Adam, sự tự do tự quyết của con người bị mất tiêu và bị tuyệt diệt
(...) thì bị vạ tuyệt thông". Khẳng định này vừa bảo đảm con người vẫn được tự
do sau nguyên tội, đồng thời cũng bảo đảm cho ý chí vẫn còn có khả năng để cho
ơn thánh tác động hiệu quả. Công Ðồng Vaticano II nhắc lại đạo lý đó : "Tự do
của con người vì tội lỗi làm tổn thương nên chỉ nhờ ơn Chúa trợ lực mới có thể
thực hiện việc hướng về Thiên Chúa cách hoàn toàn sống động. Vậy trước tòa án
Thiên Chúa, mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình tùy theo chính họ đã
làm điều thiện hay điều ác" (GS, 17). Nhưng tự do là gì?
III. Tự Do Là Gì ?
Vấn đề tự do là vấn đề rất khó và phức tạp, ngay chính từ "Tự do" cũng rất hàm
hồ, nó có thể mang nhiều ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, thậm chí ngược nhau,
nhưng nó lại cần thiết vì dùng để chỉ một gía trị thiết yếu. Do đó, có thể nghĩ
rằng tự do đơn giản chỉ là không bị áp lực nào, có thể làm điều mình muốn theo

cách mình muốn, vào lúc mình muốn. Bên ngoài có vẻ là hiển nhiên rồi, nhưng
kỳ thực định nghĩa ấy không thỏa đáng chút nào. Bởi lẽ một đàng, chúng ta bị
giới hạn rất nhiều và một cách hết sức cụ thể. Ðàng khác, định nghĩa ấy chưa
được lưu ý đủ tới sự kiện căn bản : con người là một hữu thể có ý thức, có dự
phóng, được phú ban khả năng suy nghĩ và có trách nhiệm về việc mình làm.
Nếu vậy, tự do đối với con người không chỉ là được sống theo bản năng, theo
những xung đột hay theo dục vọng của mình. Mà tự do thật sự là làm được điều
mà mình nghĩ là tốt nhất. Ðành rằng "điều tốt nhất" này thay đổi theo cá nhân,
tùy theo những giá trị mà mỗi cá nhân đề xuất. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây
là trừ khi có một cung cách cư xử phi nhân, thiếu tính người, trong bất cứ chọn
lựa _ quyết định và hành động nào của mình, con người cũng không thể không
dựa vào trên ý thức, suy nghĩ và trách nhiệm của mình.
Vì thế, đối với chúng ta. Tự do không phải là cư xử thất thường, thiếu suy nghĩ.
Nói tóm lại là thiếu trách nhiệm. Ngược lại, tự do là một hành động như là hữu
thể được ban cho lý trí. Tự do đó đối với con người là có những lựa chọn thực tế,
hợp lý và có trách nhiệm, tùy theo hoàn cảnh, trong những điều kiện đa tạp của
mình : giáo dục, lịch sử bản thân và tập thể, tính tình, hoàn cảnh, nghề nghiệp và
xã hội ...
- Theo viễn cảnh triết học hiện đại cũng như viễn cảnh Ki-tô giáo thì tự do là
nguyên nhân khiến con người nên cao quí thật. Vì lẽ nhờ có tự do đúng đắn
hướng dẫn, con người "tự giải thoát khỏi mọi kiềm tỏa của đam mê mà theo đuổi
cùng đích của mình trong thái độ tự do chọn lấy điều thiện" (GS 17). Cũng như
nhân vị là một sự thể vừa hiện hữu độc lập vừa hướng về kẻ khác, sự tự do nơi
con người làm cho nhân vị vừa có khả năng tự lập, tự quản, vừa biết mở rộng
đón nhận tha nhân. Nhân vị vừa là một sự kiện đầy tiềm năng tiến lên, vừa là
một thực tại đang kiện toàn. Sự tự do nơi họ cũng thế, khả năng thiên phú phải
được khai thác cho tiến bộ. Con người thuộc hữu trần thế là con người sa ngã
phạm tội, song cũng được Chúa Giê-su cứu chuộc. Sự tự do nơi nó cũng là một
khả năng đã bị tội lỗi nô dịch, song nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su, nó có thể
được giải phóng dần dần khỏi mọi kiềm tỏa trong và ngoài để hướng thiện. Do

đó có thể nói rằng : lịch sử một nhân vị chính là lịch sử phục hồi sự tự do chân
chính nơi nó.
Diễn tả như thế để ngụ ý rằng : phải chinh phục dần dần để có được sự tự do
đích thực. Tự do của người trưởng thành là thứ tự do biết tự chủ, tự mình ra
luật cho mình giữ. Luật mình ra cho mình giữ để hoàn thành bản thân mỗi ngày
được tự do hơn. Câu nói này có vẻ nghịch lý. Nhưng sự thực đời người là thế. Ví
dụ : tự do nơi trẻ nhỏ dần dần lớn thêm khi ép mình theo chế độ kỷ luật nào đó.
Pháp chế tạm thời được áp đặt để giúp con người dần dần biết tự chủ tự quản, tự
trị. Ví dụ : trẻ bắt đầu đi học để tập sống có kỷ cương của nhà trường, và tôi chỉ
thực sự tự do làm chủ bàn máy khi mười ngón tay đã qua giai đoạn tập dợt đúng
phương pháp.
- Ðứng trên phương diện khác, như ông Trường Chinh cũng lập luận tương tự :
"các văn nghệ sĩ đến bây giờ vẫn còn nói, con người của tôi chia làm hai : "con
người công dân có khuynh hướng rõ rệt và con người nghệ sĩ có tương đối tự do.
Ngụy biện ! tự do là quí, nhưng trên đời không có tự do tách rời tất yếu bao giờ.
Ăng-ghen đã viết tự do là sự tự chủ con người của ta và làm chủ được thế giới
bên ngoài. Sự tự chủ là sự làm chủ đó căn cứ vào chỗ ta hiểu biết những qui luật
tất yếu của tự nhiên. Cho nên sự tự do cũng tất yếu phải là một sản phẩm của
một lịch sử tiến hóa".
Tại sao đã "tự do" lại còn "tất yếu"? Bởi vì người có tự do là người hiểu rõ qui
luật tất yếu khách quan của tự nhiên, của hoạt động trong phạm vi hiểu biết của
những qui luật đó (Chủ Nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam; nxb Sự thật Hà Nội, in
lần thứ hai 1974, trang 23).
Như vậy, tự do tuyệt đối ở đời này là giả tưởng, ảo vọng. Tuy nhiên, những qui
luật hợp đạo làm người "buộc" ta phải tuân theo để phát triển nhân vị, không
hủy diệt tự do thật nơi con người. Người ta có tự do, khi có ý thức làm chủ được
hành vi của mình. Việc làm chủ này dĩ nhiên còn tùy theo mình còn bị cản trở
bởi bệnh hoạn, thói quen, tật xấu... hay không (x. Ford, Criminal responsibility
and catholie thought trong bulletin of the guild of Catholie psychiatricts, (1958),
trang 3_22).

- Còn theo quan điểm Chủ Nghĩa Cộng Sản cho rằng : tự do là cái tất yếu được
nhận thức ; tự do là trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không
bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động xã hội _ chính trị; tự do là trạng
thái không bị giam cầm và không bị làm nô lệ, là không có những sự ràng buộc,
hạn chế về những mặt nào đó, đối lập với những trường hợp thông thường nào
khác...(xTừ Ðiển Bách Khoa tiếng Việt, nxb khoa học xã hội, 1994).
- Kế đến là theo quan điểm Ki-tô giáo : tự do là một khả năng tự trị và là một
khả năng hiến thân. Và hành vi tự do chủ yếu là một lựa chọn, nên tự do cũng là
một khả năng chọn lựa (x. bản dịch Trần Thái Ðỉnh và Nguyễn Bình Tĩnh
_1997_Quan niệm Ki-tô giáo về con người, Ðại chủng viện Huế, trang 205-207).
Do đó, có thể nói rõ hơn : tự do là khả năng lựa chọn tùy theo ý mình. Trong mỗi
hành vi tự do có ba yếu tố : cân nhắc, quyết định và chịu trách nhiệm về điều
mình đã quyết định. Nếu hiểu tự do là làm bất cứ điều gì mình muốn, muốn đi
đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn tổ chức thì giờ lúc nào tùy ý, mới nhìn qua
tự do kiểu này, thì sẽ thấy sai lầm đáng tiếc, và sẽ có biết bao điều, có biết bao
người đi ngược lại sự tự do đó; ví dụ : như thời khóa biểu ở trường không cho
phép chạy chơi theo các hàng giậu để bắt bướm, hay như những bó buộc của lao
động, của thời khóa biểu trên tầu điện đã chi phối bao thứ trong một ngày của
người công nhân !
Ta phải nói ngay rằng đó không phải là tự do thật. Với kinh nghiệm hằng ngày
của ta sẽ mau chóng nhận ra điều đó, dù phải vất vả lắm mới khám phá ra được.
Một người được tự do, muốn tổ chức thời giờ thế nào tùy ý, có thể đi nghỉ mát,
thất nghiệp, hay nghỉ hưu, sẽ mau chóng thấy chán ngán và rầu rĩ. Tôi đã có
kinh nghiệm riêng về điều đó, nhân một kỳ nghỉ dưỡng bệnh khá dài : Tôi chưa
thấy có gì buồn chán hơn là mỗi buổi sáng khi thức dậy lại tự hỏi hôm nay, từ
sáng đến chiều, mình sẽ làm gì và sau cùng tìm quên trong giấc ngủ tối. Ðó là
chưa nói những đêm mất ngủ là những đêm tự do thật ngột ngạt, nặng nề, khó
thở...
Như vậy tự do đích thật, chính là hết lòng làm được những điều mình biết là tốt
nhất. Ðó là chấp nhận để cho bản thân mình được thực hiện qua một sự lựa chọn

hay qua một công trình nào đó, dù hầu như bao giờ cũng phải nỗ lực và ép mình,
chứ không phải muốn làm thì làm. Tự do đích thực là tự do được gắn liền với
chân lý, với chân lý "nguyên thủy" vốn chiếu tỏa một cách tuyệt mỹ trên dung
nhan của Ðức Giê-su Ki-tô (x. 2Cr 3, 5-18). Như vậy, tự do đích thực là tự do gắn
liền với chân lý cách trọn vẹn vì : "Chân lý sẽ giải thoát anh em" (Ga 14, 6). Do
đó, sứ điệp về tự do Ki-tô giáo : "chỉ trong chân lý thì tự do của con người mới có
được một phẩm chất gọi là nhân bản và có trách nhiệm" (x. Ðức Gio-an Phao-lô
II.Veritatis Splendor (Chân lý rạng ngời), công bố ngày 5-10-1998 chuyên ngữ
bằng tiếng Việt, trang 8).
Chỉ có tự do đích thực, con người mới tự khẳng định và xây dựng bản thân
mình theo ý muốn của Thiên Chúa, vì con người được kêu gọi và tự do của họ là
khả năng đáp lại tiếng mời gọi đó, thực hiện sự cao cả của mình bằng cách kết
hiệp với Thiên Chúa, bằng cách sử dụng tự do sao cho phù hợp với một cứu cánh
xứng đáng với phẩm giá con người. Muốn vậy cần phải có sự bó buộc tất yếu, sự
bó buộc này, được gọi là sự bó buộc luân lý. Nói đến sự bó buộc thì có vẻ nghịch
lý với tự do, nếu một người muốn trở nên người hơn trong ơn gọi của mình,
người ấy sẽ bị bó buộc trên phương diện luân lý, là phải hành động thế này hoặc
phải lựa chọn thế kia. Có thể về mặt tâm lý vẫn được tự do từ khước việc ấy,
nhưng khi từ khước như thế, người ấy sẽ tạo nên cho mình một tình trạng hỗn
loạn sẽ tự phá hỏng bản thân. Từ khái niệm nghĩa vụ hay ràng buộc luân lý được
đặt ra như một đòi hỏi con người phải có sự tự do và biết sử dụng tự do.
IV. Sự Kiện Con Người Có Tự Do
Con người có tự do, sống là đấu tranh, nhờ có đấu tranh con người mới giành
được tự do. Có tự do con người mới thực hiện được vận mệnh và ơn gọi của
mình. Ta phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và sự ác. Cả hai bên cùng mời gọi, lôi
kéo ta, con người luôn bị giằng co giữa đôi bên.
Tội đè nặng trên ta. Nó vừa đe dọa vừa quyến rũ. Chống lại tội thật là khó, nhất
là nó lại được các khuynh hướng và tập quán xấu bên trong hỗ trợ. Dầu vậy, ta
vẫn có đủ tự do để chống trả và đứng vững. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh
chống lại tội lỗi, Thiên Chúa nâng đỡ ta bằng ân sủng để ta được tự do, " Chính

để chúng ta được tự do mà Ðức Ki-tô đã giải thoát chúng ta" (Gl 5,1). Sự nâng đỡ
này không làm tổn thương tự do chúng ta, vì không định đoạt thay ta. Ta vẫn tự
do và làm chủ mọi hành vi của mình.
Do đó, tự do là đặc trưng của con người. Khác với các sự vật và các sinh vật phải
tuân theo những quy luật cố định, con người không hoàn toàn lệ thuộc cách máy
móc vào các định luật tất định, mà là con người có tự do để lựa chọn tùy theo ý
mình. Vì tự do là đặc tính của con cái Thiên Chúa (x. Rm 8,15).
Và sự kiện con người có tự do, đã được triết học và thần học công nhận (đã trình
bày ở phần I, II và III). Tự do là điều kiện căn bản của thần học luân lý, vì không
có tự do thì không thể có luân lý, không có tự do thì không còn có trách nhiệm.
Do đó, không có tội phúc hay sửa phạt... Không có tự do con người không có
phẩm giá và địa vị vượt cao hơn thú vật. Không có tự do thì không có vấn đề cứu
chuộc và ban ơn thánh sủng, thế nên phải chấp nhận có tự do.
Sự kiện tự do mà Công Ðồng đã diễn tả trong số 17 của Gaudium et Spes: Chúa
đã quyết định để con người có tự do, để họ có thể tự ý mình tìm kiếm Chúa và
nhờ có tự do con người đạt tới sự hoàn hảo và hạnh phúc bằng cách kết hợp với
Thiên Chúa như nhân phẩm con người đòi hỏi. Con người ý thức lựa chọn với
tính cách nhân vị tự quyết (tích cực) có thể tự quyết định theo ba cách khác
nhau: Muốn hoạt động hay không hoạt động ? - Muốn làm việc A hay việc ngược
lại ? - Muốn làm việc A hay việc khác?
Tất cả những yếu tố đó đều đụng chạm đến vấn đề luân lý. Như vậy, tự do là
điều kiện để tiến triển về mặt luân lý hay "tự do là nòng cốt trong luân lý" và "sẽ
không có luân lý nếu vắng bóng tự do" (x. Mgr André- Mutien LÉONARD
(1994), Chất Vấn Luân Lý, chuyển ngữ bằng tiếng việt, Nxb L Emmanuel trang 38
và42). Ðiều minh định này, giúp ta biết rằng tự do chiếm một vị trí chủ yếu trong
luân lý, nhưng còn phải hiểu rõ cả bản tính của tự do nữa. Ở đây nói đến một tự
do hữu hạn, nghĩa là có giới hạn.
V. Giới Hạn củaTự Do
Tự do có giới hạn, theo nghĩa này tự do của con người không phải là tuyệt đối,
đó là điều hiển nhiên, vì có ai đã nói : "tự do của bạn chấm dứt khi ngón tay bạn

chạm đến mũi của tôi".
Hay nói tự do luôn có những giới hạn, nhưng giới hạn không đồng nghĩa với
giảm thiểu mà chính là để giúp tự do được lớn lên. Sở dĩ có giới hạn trong tự do,
là để bảo đảm cho tự do cá nhân và cuộc sống chung được hài hòa. Ví dụ : luật đi
đường, những bảng cấm, những đèn xanh, đèn đỏ ở các ngã tư đường là để bảo
đảm sự đi lại được trật tự an toàn, và bảo đảm cho cả tính mạng của con người
hoặc là pháp luật của một quốc gia là nhằm để bảo vệ an ninh chính trị và quyền
lợi của công dân .
Người thực sự có tự do nội tâm luôn biết hướng đến lợi ích chung và chấp nhận
những giới hạn của tự do, là chấp nhận mình đi vào kỷ luật, từ bỏ vài đam mê,
hạn chế một số điều không phải là xấu, chính là để giúp cho bản thân được lớn
lên trong tự do đích thực.
Khi qủa quyết quyền tự do của con người có giới hạn không có nghĩa là phủ
nhận những sức lực nội tâm như bản năng , tính tình, dục vọng, sức khỏe, tiềm
thức, cũng như ngoại tại như : văn hóa, môi trường, giáo dục, dư luận . lôi cuốn
và chi phối. Nhưng cho dù bị lôi cuốn hoặc ảnh hưởng những yếu tố đó con
người vẫn còn có tự do, vẫn còn có quyền quyết định và lựa chọn. Quyền tự do bị
giới hạn phần nào, nhưng không phải là không có, vì nó là tự do của một thọ tạo
chứ không phải tự do của Thiên Chúa. Như thế tự do của con người lại tùy thuộc
vào tự do của Thiên Chúa, mọi tự do của con người là một sự vay mượn ở nơi
Thiên Chúa. Một món nợ đối với những người đã giáo dục tự do và làm cho tự
do thức tỉnh, cuối cùng là một món nợ đối với Ðấng Tạo Hóa, vì tự do của con
người được hình thành theo chính hình ảnh của Ngài. Cho nên tự bản chất tự do
sống nhờ ân huệ của Thiên Chúa, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đón nhận và
thông hiệp với người khác (x. Mgr, André-Mutien LÉONARD, Chất vấn luân lý,
nxb L'Emanuel,1994, tr. 42).
Hơn nữa, ơn Chúa thúc đẩy bên trong không làm ta mất tự do nhưng là động lực
giúp con người hoạt động cách tự do. Cho nên, ở bên trong chúng ta đã nhấn
mạnh trọng tâm của tự do trong luân lý. Và chắc chắn chúng ta không thể hiểu
theo nghĩa tự do tuyệt đối được. Bằng chứng là mỗi chúng ta chỉ thực sự tự do

khi được người khác giáo dục về tự do, nhất là cách sử dụng tự do trong những
lần lựa chọn, và quyết định sao cho phù hợp với giới răn của Chúa, vì những sự
lựa chọn, những quyết định của ta đều đang đứng trước trách nhiệm luân lý :
điều tốt được phép làm, điều xấu nên tránh hay từ chối. Ðó là điều mà lý do tại
sao Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta biết rằng làm chủ sự thiện và sự ác
không thuộc quyền chúng ta, nên có lệnh cấm : "Mọi cây trong vườn, ngươi đều
được ăn. Nhưng cây " biết tốt xấu" ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào mà
ngươi ăn nó, tất ngươi sẽ chết" (St.2, 16-). Lệnh cấm ăn quả cây "sự biết tốt xấu"
và đặt chúng ta trước sự sống và sự chết hay sự lành và sự dữ, tỏ rõ rằng :
Chúng ta nên có quyền tự do định liệu nhưng tự do chúng ta là tự do bị giới hạn,
dù là tự do có thực, bởi được Thiên Chúa tạo dựng, Ngài Ðấng toàn năng, nên tự
do của Ngài là tuyệt đối. Vì thế tự do con người được triển nở, được hoàn thiện
chỉ khi nào con người biết tìm kiếm Ngài và ở trong Ngài.
Những sự kiện vừa trình bày trên đây chỉ là cách trình bày về sự kiện tự do thôi.
Do đó, muốn tìm và nghiên cứu thêm về sự kiện của tự do thì cũng cần phân biệt
được tự do thể lý và tự do luân lý, những liên lạc của hai tự do đó, sau cùng là ý
nghĩa của tự do luân lý.
VI. Tự Do Thể Lý Và Tự Do Luân Lý
1/ Tự do thể lý : là khả năng làm bất cứ việc gì theo sức bản tính. Ví dụ : Tôi có
quyền giết anh A; tôi có quyền mơ ước lên mặt trăng. Nhưng chỉ khi nào đi đến
một quyết định nào đó thì tự do mới có ý nghĩa. Do đó, trước khi đi đến quyết
định tự do, ta phải có tự do như một sự dự phóng, nghĩa là ta đã có ý thức trước
rằng ta đang được tự do, ta có thể làm bất cứ điều gì. Ðó là sự tự do mà con
người thường nghĩ đến trước hết. Cũng từ tự do làm nên quyết định, tự do đưa
tay chọn. Mọi nguyên nhân dẫn đến sự quyết định đó đều do ở mình ta và trong
ta, trong mọi hoạt động của ta, làm cho hoạt động của ta có giá trị.
Thế nhưng, cái gì đã quyết định sự tự do chọn lựa, bởi vì chính con người là hữu
thể tinh thần có lý trí. Khi đứng trước các việc có thể thực hiện được, con người
được phép lựa chọn như mình muốn và cũng ý thức về những điều mình có thể
làm được. Vì chấp nhận sự tùy tiện trong khi lựa chọn là tự đẩy mình vào chỗ

hỗn độn và phi lý. Như vậy sự lựa chọn phải được thúc đẩy một cái gì thuộc về lý
trí, xứng đáng với con người. Nghĩa là, tự do lựa chọn còn phải được sử dụng
hợp với lý trí, nếu không thì sẽ đến việc sử dụng một cách vô lý, không có mục
đích và sẽ khiến cho con người tự phủ nhận phẩm giá của mình. Mà đặc tính của
lý trí là nhận ra được mối liên hệ giữa phương tiện và mục đích, và hoạt động
hợp lý là hoạt động với mục đích mà ta đang theo đuổi.
Như vậy, lựa chọn theo lý trí là chọn lấy một điều đó phù hợp với cái mình cho là
tốt đối với mình. Vì thế, người ta sử dụng sự tự do là để nhắm một mục đích, vì
rằng : mục đích mà mình nhắm là một lẽ sống ở đời và làm cho cuộc sống có ý
nghĩa (x. Luân lý Công Giáo, 1987, Luân Lý căn bản, tủ sách toát yếu, trang 109-
110). Vậy, nhu cầu phải tìm cho mình một mục đích, một lẽ sống ở đời có ý
nghĩa, thì phải sử dụng tự do sao cho phù hợp với những đòi hỏi và những bó
buộc của luân lý. Do đó, chúng ta phải nghiên cứu thêm về tự do ở khía cạnh
luân lý.
2/ Tự do luân lý : là khả năng tinh thần để làm việc thích hợp với nhiệm vụ. Nếu
không có bổn phận nào hay cấm buô c nào thì được tự do cho bằng, nếu cấm hay
buộc thì không còn được tự do. Ví dụ : Tôi có quyền làm việc lành; tôi phải tôn
trọng sự sống tha nhân, nên tôi không có quyền tự do sát nhân.
Tôi có quyền làm điều lành, nhưng không có quyền làm điều xấu, điều này nói
lên sự bó buộc luân lý : phải hành động thế này hoặc lựa chọn thế kia, hay chỉ
hành động thế này nhưng không được làm thế khác, chỉ làm điều tốt không làm
điều xấu, nghĩa là chỉ nói vâng với điều tốt mà nói không với điều xấu, mà vẫn
được tự do (xét về mặt thể lý) từ khước việc ấy (sự lành), nhưng khi từ khước
như thế, con người sẽ tạo nên nơi mình một tình trạng hỗn loạn, sẽ tự phá hỏng
bản thân. Do đó, có sự liên lạc giữa tự do thể lý và tự do luân lý.
3/ Sự liên lạc giữa hai tự do thể lý và luân lý
Không có quyền tự do thể lý thì không bao giờ có quyền tự do luân lý, ví dụ :
trường hợp các thú vật, kẻ điên ... . Tự do thể lý là tự do căn bản, nhưng nó chỉ là
căn bản vì đó là hậu quả và là sự bảo đảm bên ngoài của một tự do thực thụ bên
trong, tức là khả năng tự quyết của mỗi người. Trong một trường hợp đặc biệt,

một tù nhân chính trị, xét về mặt ngoài thì có vẻ là người mất tự do, nhưng về
mặt tư tưởng thì vẫn còn tự do. Dù thân xác ông bị giam tù, bị cưỡng bức ...
nhưng về tư tưởng của ông vẫn không chối bỏ và không chịu qui phục một chế
độ mà ông chống đối hay bài bác. Tuy bị xiềng xích nhưng có thể ông còn tự do
hơn cả tên canh ngục, dù không bị xiềng xích nhưng vẫn chỉ là một tên nô lệ
ngoan ngoãn của cái chế độ đang nuôi dưỡng y. một đan sĩ tự do chấp nhận một
kỷ luật nghiêm ngặt vẫn tự do hơn một kẻ hưởng thụ phóng túng cứ tưởng rằng
mình tự do vì không bị sự cưỡng bách bởi chế độ nào, luật lệ nào nhưng kỳ thực
hắn đang nô lệ trong các đam mê của mình và không có khả năng phản kháng
nào để chống lại một đòi hỏi hoặc nết xấu của mình (x. Luân lý Công Giáo,
1987, Luân lý căn bản, trang 106). Do đó, phải có tự do luân lý để hoàn thành bản
thân mình.
Ngược lại, không có tự do luân lý nhưng vẫn có thể có tự do thể lý : có nhiệm vụ.
Tự do thể lý rộng rãi hơn tự do luân lý, và tự do luân lý luôn hạn chế tự do thể
lý, tự do thể lý luôn luôn đòi hỏi phải có giới hạn. Vì thế , Thiên Chúa tạo dựng
chúng ta và ban cho chúng ta quyền tự do để có thể yêu mến Ngài.
Chúa kêu mời chúng ta (x. Mt 28, 19-20), Ngài sai các tông đồ đi rao giảng Tin
Mừng Cứu Ðộ và Nước Thiên Chúa, Ngài xuống thế để mời ta tham dự vào cái
chết của Ngài, để cùng được sống lại với Ngài trong Nước Hằng Sống, bằng cuộc
sống mới, được làm nghĩa tử của Ngài, tập sống theo hình ảnh sống của Người
Anh Cả là Chúa Ki-tô. Sau cùng, Chúa mời gọi ta để cùng thống trị với Ngài (x.
Mt 25, 3) và được hưởng hạnh phúc của Ngài. Chúa đối xử với ta như với người
lớn, người có tự do, có ý thức và trách nhiệm. Chúa đã cho ta tự do và không bao
giờ áp bức, ép buộc ta. Nếu áp bức mà theo, thì không còn giá trị gì, vì tự do là
điều kiện của hành vi tình yêu. Do đó, một người tự do đích thực là một người
được kết hợp mật thiết Chúa tình yêu, mà tự do chỉ có ý nghĩa khi nó được sử
dụng phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa tình yêu.
4/. Ý nghĩa tự do luân lý
Ý nghĩa tự do luân lý này là, chọn giữa hiến dâng và từ khước. Và "Giáo Hội
khám phá ra ý nghĩa thực sự của tự do trao hiến mình vì tình yêu nhằm phục vụ

Thiên Chúa và phục vụ tha nhân" (xem. Ðức Gio-an Phao-lô II,1993, Thông
Ðiệp Chân Lý Rạng Ngời (Veritatis Splendor), trang 162, số 67, và xem Mgr Adré-
Mutien LEONARD ,1994, Chất Vấn Luân Lý, trang 94). Như vậy, Thiên Chúa
ban cho ta được tư do là để phục vụ, là để cho ta thực hiện con người của mình
bằng cách vâng theo cái định luật nội tâm của ta, hay nói đúng hơn, bằng cách
vâng theo tiếng gọi của Ðấng đã tạo thành bản thể của ta đó là Thiên Chúa. Vì
cùng đích của con người là hiệp thông với Thiên Chúa, cho nên cộng tác chính
của tự do là thực hiện sự hiệp thông này bằng một hành vi vừa là một sự vâng
phục, vừa là một sự hiến thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Sự hiến thân này có thể mang nhiều hình thức (tùy theo đối tượng). Có những
người hiến thân cho bổn phận mà họ coi như giá trị tuyệt đối: vâng nghe lương
tâm mình, chu toàn nhiệm vụ làm người của mình, làm điều thiện, đó là một sự
đòi hỏi họ phải nổ lực vô cùng, nhưng cũng là điều làm nên nhân phẩm của họ.
Những người khác hiến thân cho một lý tưởng, không được tạo ra một cách khoa
học nhưng đã được thoáng nhìn thấy, đã được khám phá dần dần, ở rất xa, rất
cao, và sự say sưa theo đuổi sẽ làm nên giá trị của cuộc đời, nên người ta đã nhiệt
thành và náo nức đi tìm cái lý tưởng đó. Sau cùng, có những người hiến thân cho
Thiên Chúa mà họ nhận biết rõ ràng; Chỉ có Ngài là Ðấng đạt căn bản cho bổn
phận và thực hiện lý tưởng của ta. Thế là họ đi tới tận cùng của vấn đề; rằng con
người được định hướng về Thiên Chúa,và sự định hướng này chi phối sự trưởng
thành của họ. Con người được Thiên Chúa kêu gọi và tự do của nó là khả năng
đáp lại tiếng gọi, thực hiện sự cao cả của mình bằng cách kết hiệp với Thiên
Chúa bằng việc tôn thờ, lòng yêu mến, lòng tin. Chính bộ ba này là sức thúc đẩy
con người hiến thân, vì tự do tinh thần là một sự dấn thân nhờ đó con người tự
làm chủ được mình, tự phát huy mình và tự hoàn thành bản thân bằng cách hiến
thân cho Thiên Chúa.
Tự do khước từ có thể bằng hình thức của một sự lựa chọn, chứ không phải là
một sự tản mác: Nó chọn lựa một giá trị nhân bản nào đó, nhưng vẫn khước từ
mọi giá trị siêu việt. Ðiển hình như ông Kirillow của DOSTOIEWSKY đã nói: "
Suốt ba năm tôi đã tìm và tôi đã tìm thấy thuộc tính của thần tính tôi: tôi là

thượng đế vì tôi là ý chí của tôi..." (bản dịch Trần Thái Ðỉnh và Nguyễn Bình
Tĩnh, 1997, Quan niệm của Ki-tô giáo về con người, trang 215). Ở đây có sự dấn
thân và khước từ; dấn thân vào nhân bản và khước từ cái vượt trên con người.
Tự xác định lấy, tự tạo lấy cho mình và cho mình là chủ tuyệt đối. Ðó là tiếng gọi
hãy trở thành người sáng tạo nên chính bản thân mình, và hãy khước từ bất cứ
sự gì là siêu việt. Một khi đã khước từ một Ðấng siêu việt, tuyệt đối và tự cho
mình là tuyệt đối, thì nó sẽ hủy hoại tất cả mọi thứ dấn thân, tất cả mọi thứ kỷ
luật, tất cả mọi thứ hy sinh, bởi vì những điều này được thực hiện ở giữa lòng
một sự tự khước căn bản này.
Chỉ có một mình Ðức Ki-tô, và câu trả lời cho vấn đề luân lý của Ngài trong
đoạn Tin Mừng rất quen thuộc, mới giải quyết được cho vấn nạn của con người
có con đường hoàn thiện, và dẫn tới sự sống đời đời không phải là việc người ta
làm, nhưng là việc từ bỏ và tin theo Chúa Giê-su. Theo trình thuật của Thánh
Máthêu ở đoạn 19, câu 16-22. Ðã kể lại cuộc đối thoại giữa Ðức Giê-su với người
thanh niên giầu có. Qua đó cho ta thấy nền giáo huấn luân lý của Ðức Giê-su: _
1/ Khi chạm trán với Ðức Giê-su, vấn đề luân lý không phải đơn thuần là một
chủ thể tranh luận lý thuyết, nhưng là con đường sống: tôi phải làm điều gì tốt để
được sống đời đời? _ 2/ Trong luân lý, có những giá trị mà với lý trí, ngay cả
những người không tin Thiên Chúa vẫn nắm bắt được, nhưng xét cho cùng sự
thiện luân lý ở mức hoàn hảo chỉ gặp được nơi Thiên Chúa, mà con người được
dựng nên theo hình ảnh Ngài: sao anh lại hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Ðấng tốt
lành mà thôi. _ 3/ Việc tuân giữ những giới răn là điều kiện của một đời sống
đích thực. Không thể yêu Thiên Chúa và con người trong chân lý mà lại không
tuân giữ những giới luật này như là khởi đầu đi vào tình yêu hoàn hảo: Nếu anh
muốn vào cõi sống thì hãy giữ các điều răn. _ 4/ Vượt lên trên việc tuân giữ các
giới răn, vang lên lời mời gọi bước vào sự toàn thiện. Dù đã tuân giữ những giới
luật từ khi còn nhỏ, người thanh niên vẫn cảm thấy nơi mình một lời mời gọi
"hơn" nữa: tôi còn thiếu điều gì nữa? Nếu anh muốn nên hoàn thiện... Chúa Giê-
su trả lời như thế. _ 5/ Sự hoàn thiện này cuối cùng hệ tại ở việc đính kết với
chính con Người Giê-su. Ðiều đó, một cách chắc chắn, chỉ có nghĩa nếu Ðức Giê-

su thật sự là Con chính Thiên Chúa đến trong thế gian. Hướng đến hoàn thiện có
thể làm cho ý chí bị gò bó một cách nguy hiểm. Nó chỉ giải thoát khi liên kết với
con người cụ thể của Chúa Giê-su:Hãy đến, theo Ta. _ 6/ Sống đúng theo đòi hỏi
và đáp trả lại lời mời gọi như thế chỉ có thể thực hiện được với ân sủng của Thiên
Chúa. Trước tiếng gọi của Chúa Giê-su, người thanh niên giàu có buồn bã quay
gót, vì yêu chuộng của cải hơn là bước theo Chúa. Và ngay cả các môn đệ, sửng
sốt trước những đề nghị của Chúa Giê-su, lên tiếng hỏi Ngài: Nhưng như vậy ai
có thể được cứu thoát? Câu trả lời của Chúa Giê-su: Ðối với loài người là điều
không thể, nhưng đối với Thiên Chúa mọi điều có thể (Mt 19, 35-36) (xem thông
điệp Ðức Gio-an Phao-lô II, 1993, Chân Lý Rạng Ngời, chương I, trang 27- 66 số
6-27).
Ðó là điểm căn bản thật xứng hợp nếu con người ngày nay lại một lần nữa
quay về với Ðức Ki-tô, để đón nhận từ nơi Người lời giải đáp gọi là cái thiện và
về cái gọi là dữ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải đáp vấn nạn về điều
thiện, bởi vì Ngài là sự thiện, sự thiện đó là thuộc về Thiên Chúa, đó là vâng
phục Ngài, là khiêm tốn bước đi với Ngài đồng thời thực thi công chính và yêu
quý lòng từ ái (x. Mk 6,8). Nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa: Ðó là hạt nhân cơ
bản, là trung tâm điểm của nền luân lý Ki-tô giáo. Nếu không chấp nhận Thiên
Chúa là Ðấng duy nhất tốt lành (x. Mt 19,17; Mc 10,18: Lc 18,19). Và không đáp
lại lời mời gọi của Ngài, thì cũng chẳng khác người thanh niên giầu có đã từ
khước, không bước theo Chúa, vì yêu thương của cải hơn là dấn thân phục vụ
Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Anh ta quay gót trở về với của cải của mình,
chỉ làm nô lệ cho của cải, vì để của cải xâm chiếm cả lý trí và tâm hồn...Sự từ
khước dấn thân này đã hủy hoại tất cả mọi thứ mà anh ta cố gắng, hy sinh, tuân
giữ trước đây : không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian...(Mt
19,18-20). Nhưng nay lại không cố gắng bước thêm để theo Chúa nữa, khi Chúa
đòi hỏi anh phải bán hết của cải vật chất đem cho người nghèo mà theo Người
thì mới được sự hoàn thiện và được kho tàng quý hơn của cải mà anh ta có là
Nước Trời (Mt 19, 21-22).
Như vậy, muốn sống và thực hiện ý nghĩa thực sự của tự do : trao hiến mình vì

tình yêu nhằm phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân được trọn vẹn, thì
phương thuốc duy nhất đối với người Ki-tô hữu là nhìn lên Chúa Giê-su, chứng
nhân trung thành (Kh 1,5) là khuôn mẫu cho mọi tự do đúng nghĩa được sống
trong chân lý.Vả lại, đó là điều mà Chúa Giê-su tuyên bố trước mặt quan Philatô
: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng cho chân lý" (Ga 18,
37). Do đó, Ðức Gíao Hoàng Phao-lô II tha thiết mời gọi ta nhìn lên Chúa Giê-su
chịu đóng đinh (x. Véritatis Splendor, số 85). Sự chiêm ngắm Chúa Giê-su chịu
đóng đinh là con đường vương giả mà Giáo Hội phải tiến bước mỗi ngày, nếu
Giáo Hội muốn hiểu tất cả ý nghĩa của tự do, tức là tự hiến thân mình vì tình
yêu, phục vụ Thiên Chúa và anh em (x. Veritatis Splendor, số 87). Do đó, sự đơn
giản lạ thường của tự do luân lý Ki-tô giáo, đó là "đi theo Chúa Ki-to " hay từ
khước Ngài. Còn những ai đi theo Ngài, đó là để cho mình được ân sủng Ngài
biến đổi và được lượng từ ái của Ngài canh tân. Ðây chính là những hồng ân mà
chúng ta lãnh nhận trong đời sống hiệp thông với Giáo Hội của Ngài. Hơn nữa,
đi theo Ngài, ở trong Ngài thì được giải thoát khỏi mọi tội lỗi, hay được cứu độ.
Và còn những ai khước từ Ngài là tự giam mình trong tội lỗi, làm nô lệ cho tội
lỗi, chết trong tội lỗi...Nhân đó có một sự ác, đó là tự tách rời khỏi Thiên Chúa để
đi theo bản năng và những ước muốn của mình; và có một sự thiện, đó là hiến
thân cho Thiên Chúa, để yêu mến và phục vụ Ngài. Như vậy, ta có thể đi tới một
định nghĩa của tự do luân lý : là nói vâng với điều tốt (thiện) và nói không với
điều xấu (điều ác).
Tóm lại : theo cái nhìn của Ki-tô Giáo, sự kiện con người có tự do không do tự
mình mà có. Thiên Chúa tạo dựng con người có lý trí và tự do, nhờ đó có sáng
kiến và làm chủ được hành vi của mình. Con người có tự do là con người có khả
năng hành động hay không hành động, chọn lựa sự chúc lành hay chúc dữ, giữa
sự sống hay sự chết, giữa tội lỗi và ân sủng (x. St 1,26 ; 2,16-17 ; Hc 15,14). Khả
năng tự đo chọn lựa này chính là nền tảng của mọi trách nhiệm luân lý của con
người.
Qua câu chuyện xa ngã cũa ông bà Nguyên Tổ : thái độ bất tuân phục Thiên
Chúa, và lạm dụng tự do làm cho mình bị nô lệ tội lỗi (x. Rô-ma 6,17), tức là

đánh mất tự do.
Chính Chúa Ki-tô là Ðấng đã mang đến cho con người được tự do, đó là tự do
khỏi tội lỗi, tự do khỏi sự chết và lề luật. Tự do này được thực hiện bằng chính
cái chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô, con người đón nhận nó bằng phép Thánh
Tẩy trong Chúa Ki-tô, và với điều kiện con người phải trung thành, vâng phục
Chúa Ki-tô, đây là tự do đích thực của con người, vì là việc phụng sự Thiên Chúa
xuất phát từ tâm hồn (x. Rm 6,15-17), từ lòng yêu mến phục vụ Thiên Chúa và
tha nhân. Như thế, con người chỉ đạt được tới cứu cánh ơn gọi của mình bằng
tình yêu mến đó mà thôi, vì con người càng sống yêu thương bác ái càng trở nên
người tự do hơn. Trái lại càng sống ích kỷ con người càng đánh mất tự do của
mình. Ðó là cách con người phải thực thi tự do mà Chúa Ki-tô mang đến, và tự
do này còn được hiểu như thế nào qua cái nhìn của mặc khải ?

Chương II. CÁI NHÌN MỚI CỦA MẶC KHẢI VỀ TỰ DO
Tuy có nhiều thứ tự do, nhưng Thánh Kinh chỉ ngầm quả quyết rằng : về phần
mình con người có quyền tự do lựa chọn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa. Thật
vậy, tất cả truyền thống Thánh Kinh giả thiết rằng con người có khả năng đưa ra
những quyết định tự do : Sách Thánh luôn nhắc nhở tới quyền tự do lựa chọn và
đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của con người, ngay từ những trang đầu tiên
của sách Thánh khi tường thuật về tội nguyên tội (St 2-3; x. 4,7). Con người có
quyền chọn lựa giữa điều lành và điều dữ, giữa sự sống và sự chết (x. Ðnl 11,26tt;
30, 15-20), con người có thể hoán cải, và có những quyền đó cho đến giây phút
cuối đời (Ed 18,21-28 ; Rm 11,22tt ; 1Cr 9,27), mỗi người được mời gọi dấn thân
và bền đỗ trên con đường dẫn tới sự sống đời đời (Mt 7,13; Ga 17,3).
Mặc dù Thánh Kinh không đưa ra một định nghĩa nào về tự do, nhưng vẫn cho
chúng ta có cái nhìn mới mẻ về tự do. Ðó là tự do mà Thiên Chúa mang đến và
ban cho con người, biến cố này được loan báo trong Cựu Ước và Tân Ước.
I. Trong Cựu Ước
Giavê Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử của con người, để bảo đảm cuộc giải
phóng dân Ngài ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập (Xh 12,37-42; Ðnl 7,8; 15,15), cuộc

vượt qua Biển Ðỏ : từ nô lệ sang tự do (Xh 14,1-31), và sự giải thoát khỏi cảnh
lưu đày ở Ba-bi-lon (Is 41,14; 43,1 ; 48,20-22 ; 49,8-16).
Ðó là một vài biến cố vĩ đại và có tính quyết định trong lịch sử của dân Do-thái,
một biến cố đã cho thấy : - Thiên Chúa là Ðấng giải phóng, mang lại sự tự do cho
con người, và sâu xa nhất là sự tự do được giải thoát khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi
được tìm thấy trong phần cuối của Thánh vịnh 130,8 : "chính Chúa sẽ giải thoát
Ít-ra-en khỏi mọi tội lỗi của họ". Công việc giải thoát đích thực của Thiên Chúa
bao hàm việc thanh tẩy nhóm còn lại (x. Rm 11,1-33), họ được mời gọi tham dự
vào sự thánh thiện của Thiên Chúa (x. Ít-ra-en 1,27 ; 44,22 ; 59,20).
II. Trong Tân Ước
Tính cách mới mẻ của tự do trong Tân Ước là tự do mà Chúa Ki-tô mang đến
cho con người : tự do khỏi tội lỗi, khỏi sự chết, khỏi lề luật.
1/ Tự do khỏi tội lỗi
Tội lỗi là không tuân phục Thiên Chúa nhưng chiều theo tội lỗi, tuân phục tội lỗi
là làm nô lệ cho tội lỗi. Ðã là nô lệ cho tội lỗi thì có nghĩa là đánh mất tự do, điều
này chúng ta đã đọc thấy ở những chương đầu của sách Sáng thế (x. St 2,16-17 ;
3,1-24).
Qua câu chuyện sa ngã của ông bà Nguyên Tổ, chúng ta thấy tội như là một ông
chủ, như một nhà chuyên chế độc tài thống trị con người. Sự thống trị đó của tội
lỗi đã bị đánh bại bởi cái chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô (x. Rm 1-3), để giải
phóng con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Người tín hữu đón nhận ơn này bằng
bí tích Thánh Tẩy và việc vâng phục Ngài, nhờ đó họ đạt tới tự do đích thực (x.
Rm 6,6.17).
Vậy, Chúa Ki-tô là Ðấng giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi là để cho
con người được tự do. Vì thế, sự giải thoát này còn được gọi là ân sủng của Chúa
Ki-tô vì "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (x. Rm
5,20). Ân sủng của Ðức Ki-tô đem cho mọi người chính là sự tự do của con cái
Thiên Chúa : "Chính để chúng ta được tự do mà Chúa Ki-tô đã giải thoát chúng ta .
" (Gl 5,1). Quả thực, Ðức Ki-tô đã thiết lập chế độ tự do chọn vẹn và vĩnh viễn
cho hết mọi người Do-Thái và Lương dân liên kết với người trong đức tin và đức

ái.
Thánh Phao-lô và thánh Gio-an là hai sứ giả chính của tự do Ki-tô giáo. Ðặc biệt,
thánh Phao-lô đã công bố trong thư gởi Ga-lát : "Chính để chúng ta được tự do
mà Ðức Ki-tô đã giải thoát chúng ta ..." (Gl 5,1), và nói rõ hơn "anh em đã được
gọi để hưởng tự do" (Gl 5,13a ; x. 4,26.31 ; 1Cr 7,22 ; 2Cr 3,17 ; Cl 1,13tt). Còn
thánh Gio-an, Ngài lại nhấn mạnh đến nguyên tắc của tự do đích thực, đó là đức
tin đón nhận lời Ðức Giê-su : "Sự thật sẽ giải phóng anh em ... Nếu Chúa Con giải
phóng anh em, anh em sẽ được tự do thực sự" (Ga 8,32.36), nghĩa là chỉ trong Ðức
Ki-tô mới có tự do đích thực.
2/ Tự do khỏi sự chết
Cái chết là hậu quả tất yếu của tội lỗi (x. St 2.17 ; 3, 1-19 ; Kn 2,2tt ; 4,5). Trong
giáo huấn của thánh Phao-lô : tội lỗi và sự chết là hai thực thể liên kết với nhau
"vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự
chết . " (Rm 5,12 ; 1Cr 15,21), nhưng với cái chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô
đã chiến thắng trên sự chết. Và thánh Phao-lô nói tiếp : "tử thần có độc là vì tội
lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có lề luật" (1Cr 15,56). Do phép rửa, người Ki-tô
hữu được giải thoát khỏi ách nô lệ của sự chết (x. Dt 2,14tt).
Dĩ nhiên sự giải thoát trọn vẹn và toàn diện chỉ diễn ra trong sự sống lại vinh
hiển vào ngày sau hết (x. 1Cr 15,26.54tt). Nhưng ngay từ cuộc sống tại thế này
thánh Gio-an đã viết trong thư của ngài, chúng ta có thể diễn tả lại rằng : - Các
Ki-tô hữu đã đi từ sự chết mà đến với sự sống, là nhờ họ sống trong đức tin và
đức mến. Còn nếu họ không sống trong đức tin và đức mến, thì họ sẽ ở lại trong
sự chết (x. 1Ga 3,14), còn những ai tin vào Chúa Ki-tô thì sẽ có sự sống đời đời
(x. Ga 5,24).
3/ Tự do khỏi lề luật
Ðây là tư tưởng nổi bật của thánh Phao-lô, trong các thư của ngài đã cho thấy :
người Ki-tô hữu không còn sống dưới lề luật nhưng dưới ân sủng "vì chúng ta
không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng" (Rm 6,15), có nghĩa
là con người chỉ được cứu thoát khỏi lề luật nhờ ân sủng của Chúa Ki-tô mà thôi
(x. Rm 7,1-6).

Lề Luật được cho là tốt đẹp, tất cả lề luật đều nhắm tới sự hoàn thiện con người
(x. Gr 31,33 ; Ed 36,27 ; Rm 5,5 ; 8,9.14 ; 2Cr 3,3.6). Nhưng chúng ta không thể
tìm ra nguyên nhân cứu rỗi của chúng ta trong việc chu tòan một luật lệ bên
ngoài, làm lề luật trở thành gánh nặng đối với con người (x. Gl 3,2.13 ; 4,3tt).
Chúng đang sống dưới lề luật mới, lề luật của tình yêu và đức bác ái. Ðức bác ái
luôn đòi hỏi người tín hữu phải hướng thượng là yêu mến Thiên Chúa, nhưng
cũng đòi hỏi phải tỏa sáng là yêu mến tha nhân, liên đới với anh em đồng loại và
phục vụ lẫn nhau. Theo thánh Phao-lô đó là Luật Ðức Ki-tô (x. Gl 6,2 ; 1Cr
9,21), không cần phô trương bên ngoài, khi nghe Thánh Thần hướng dẫn người
tín hữu luôn luôn ý thức về tự do và trách nhiệm trong hành động, vì "ở đâu có
Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do" (2Cr 3,17). Như thế, tự do cũa người tín
hữu phải được trưởng thành và hoàn thiện trong đức tin và nhân bản. Gieo bác
ái thì gặt yêu thương ; gieo yêu thương thì gặt tự do. Ngược lại, gieo ác thì gặt
họa, gieo họa thì sẽ chết .
Ðối lập với Luật Mô-sê, trong luật Chúa Ki-tô người tín hữu được thanh tẩy phải
mặc lấy Ðức Ki-tô để biết cư sử hằng ngày với anh em (x. Gl 3,27). Sống theo
Thần Khí, vì như thánh Phao-lô viết : "Luật của Thần Khí ban sự sống trong
Ðức Ki-tô Giê-su đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết" (Rm 8,2), để được tư
do, mà tự do là để sống mến Chúa yêu người, đó là cách chu toàn luật Ðức Ki-tô,
luật của Thập Giá.
III. Thực Hành Tự Do Ki-tô Giáo
- Tự do mà Chúa Ki-tô mang đến cho con người nó như là một ân sủng, như một
hồng ân của Thiên Chúa. Tự do này không phải là tự do phóng túng muốn nói gì
thì nói, muốn làm gì thì làm theo bản năng của xác thịt. Thời Giáo Hội tiên khởi,
một số tín hữu đã hiểu tự do theo nghĩa ấy dẫn đến việc lạm dụng tự do. Thánh
Phao-lô đã có những lần phản ứng rất gay gắt trước thái độ này, theo thánh
nhân người Kitô hữu được tự do là để sống cho Chúa, sống cách can đảm và đầy
tin tưởng (x. Ep 3,12 ; Dt 3,6 ; 4,46 ; 1Ga 2,28 ; 3,21).
- Cách khẳng định của Phao-lô vừa loan báo vừa khuyến dụ : bao hàm cả tín lý
và luân lý, là hai khía cạnh của cùng một thực tại làm thành bản chất cuộc sống

của tín hữu. Chính bí tích rửa tội giải thoát tín hữu khỏi tội lỗi để cho họ được tự
do, nhưng họ cũng phải tự giải thoát mình khỏi tội lỗi. Ðiều thánh Phao-lô nhấn
mạnh ở đây là tinh thần trách nhiệm và đồng trách nhiệm : mỗi tín hữu đều có
tráh nhiệm đối với ơn cứu rỗi của mình vả của người khác ; cuộc sống tội lỗi hay
thánh thiện của mỗi người đều có ảnh hưởng đến ơn cứu độ hay hư mất của
người khác (x. 1Cr 8,7-13).
Do đó, tự do đích thực là tự do để sống công chính và can đảm : dám nói, dám
làm sẵn sàng đón nhận cái chết tử đạo (x. Cv 2,29 ; 4,13).
- Tự do mà Chúa Ki-tô mang đến cho con người là tự do cho sự thiện. Trong thư
gửi tín hữu Ga-lát-ta, thánh Phao-lô đã nói : "Anh em đã được kêu gọi để hưởng
tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức
mến mà phục vụ lẫn nhau" (Gl 5,13 ; Rm 6,18 ; 1Cr 8,9 ; Mt 7,12).
- Ngay từ đầu, các Tông đồ đã phải lên tiếng trước những lạm dụng tự do nơi các
tín hữu, nhất là tại các thành phố cảng Cô-rin-tô, là nơi vốn có những xa đọa
nhất vì họ hiểu lầm câu nói của thánh Phao-lô : "Tôi được phép làm mọi sự" (1Cr
6,12a).Ở đây họ hiểu là mình được phép sống phóng túng, nhưng thánh Phao-lô
đã phải đính chính lại : "Không phải mọi sự đều có ích" (1Cr 6,12b). Câu này như
muốn nói đến công thức giữa cái được phép làm với cái bị cấm, phải được thay
thế bằng khả năng nhận thức cái gì là thuận, cái gì là nghịch với đời sống mới
của con người mới, được tái sinh trong Ðức Ki-tô, được Chúa Thánh Thần biến
đổi.
- Ðể sống tự do và sử dụng tự do cho đúng cách, thánh Phao-lô đã đưa ra nguyên
tắc là làm mọi sự là để xây dựng cho lợi ích chung : "được phép làm mọi sự ;
nhưng không phải mọi sự đều có ích . đều có tính cách xây dựng. Ðừng ai tìm lợi
ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (1Cr 10,23-24). Ðây
không phải là một giới hạn về tự do, mà là cách để thể hiện tự do ở mức hoàn
thiện hơn.
- Xét cho cùng, theo thánh Phao-lô : con người được tự do là để sống bác ái, yêu
mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, vì bác ái là tên gọi của tự do (Gl 5,13), mà
bác ái là phục vụ (Mt 7,12). Do đó, càng sống yêu thương và bác ái, con người

càng được tự do hơn.
- Công đồng Va-ti-can II cũng phát biểu : "khi sử dụng tự do, cần tuân giữ
nguyên tắc luân lý về trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của xã hội. Khi thi
hành quyền hạn, cá nhâm cũng như tập thể, bị luật luân lý buộc phải tôn trọng
quyền lợi của kẻ khác, cũng như bổn phận của mình đối với người khác và hạnh
phúc chung của mọi người" (TD.7).

Chương III

NHỮNG CHỦ CHƯƠNG VÀ PHẢN BÁC
CỦA CHỦ NGHĨA VÔ THẦN HIỆN ÐẠI
VỀ THIÊN CHÚA VÀ TỰ DO KITÔ GIÁO
Chủ trương của chủ nghĩa vô thần hiện đại là kịch liệt chống đối, loại bỏ Thiên
Chúa nhân danh con người vàtự do của con người, vì theo cách nhìn của họ : -
Nếu Thiên Chúa hiện hữu, thì con người sẽ không là gì hết, không hiên hữu,
không tự do. Do đó, để con người có được tự do cần phải loại bỏ Thiên Chúa, để
giải phóng con người khỏi sự lệ thuộc vào Thiên Chúa. Một Thiên Chúa áp bức,
độc tài, kìm hãm mọi sự phát triển của con người. Nguồn gốc của sự đảo lộn này
là ảnh hưởng tư tưởng của hai triết gia Descartes và Kant.
I. Khởi điểm của chủ nghĩa vô thần hiện đại
Descartes và Kant là người đã vô tình tạo điều kiện cho chủ nghĩa vô thần hiện
đại thực hiện hai điều : - tục hóa và phủ nhận Thiên Chúa. Lý do khi truy tìm
chân lý hai triết gia này đã đặt con người trước Thiên Chúa, đề cao lý trí và tầm
quan trọng tự do của con người. Họ cho rằng con người là kẻ duy nhất có thẩm
quyền tổ chức vũ trụ, là sở hữu của mình. Rồi sau đó hai triết gia này mới suy tư
lại chân lý về Thiên Chúa. Ðó là cách mở lối cho chủ nghĩa vô thần hăng hái, bảo
vệ và đề cao con người, tự do con người quá đáng đến độ phải loại bỏ Thiên
Chúa, để nói lên sự tự trị của con người.
II. Sự Tự Trị Của Con Người
Ðây là một yêu sách của chủ nghĩa vô thần hiện đại, và yêu sách này đi tới mức

độ cực đoan, rồi biến thành một sự từ chối hay loại bỏ trực tiếp hoặc gián tiếp sự
hiện hữu của Thiên Chúa, nhất là một Thiên Chúa đặt ra luật luân lý.
Tại sao lại loại bỏ Thiên Chúa ? bởi lẽ dưới cái nhìn của chủ nghĩa vô thần hiện
đại, con người chỉ thực sự là con người khi không có Thiên Chúa, nên cần phải
loại bỏ Thiên Chúa và Thiên Chúa phải chết. Ðó là điều kiện tuyệt đối để con
người sống thực sự là con người, và tự do của con người được triển nở. Nếu
"Thiên Chúa hiện hữu, nên con người là nô lệ. Con người có trí tuệ, tự do, công
bình, nên Thiên Chúa không hiên hữu "(H. Arvon, "Bakounine, Absolu et
Revolution", Cerf, Coll, Horizon philosophique, 1972, p. 105).
III. Những Phản Bác Khác Của Chủ Nghĩa Vô Thần Hiện Ðại
- Sự chối bỏ Thiên Chúa đã được Nietzsche hệ thống hóa trong luận đề "cái chết
của Thiên Chúa" hay là Thiên Chúa đã chết (x. Dominique MORIN, "Pour dire
dieu", nxb, Cerf, 1989, và chuyển dịch của tủ sách chuyên đề, Gọi Tên Thượng
Ðế, trang 108). Ðây là một bức tranh biếm họa, nhằm trình bày Thiên Chúa như
một kẻ cạnh tranh với con người, chính vì thế phải loại trừ Thiên Chúa để trả lại
cho con người tầm vóc đầy đủ và sự trưởng thành của nó. Và từ nay, thay vì coi
mình là một thụ tạo phải phục tùng một Thiên Chúa là Ðấng tốt lành duy nhất,
và phải tuân theo một lề luật vĩnh cửu, con người càng ngày càng nghĩ rằng :
mình được mời gọi hãy tự định nghĩa lấy chính mình, hãy sáng tạo lấy chính

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×