Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước – Chương trình Chuyên viên – Từ 4/8 đến 7/11/2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.05 KB, 26 trang )

LỜI CẢM ƠN
 ❁ 
Quản lý hành chính Nhà nước là một lĩnh vực quản lý khá phức tạp
cả về nội dung, phạm vi và đối tượng quản lý. Trong điều kiện hiện nay, yêu
cầu người quản lý không những được đào tạo về trình độ chuyên môn kỹ
thuât mà còn phải nắm vững những kiến thức về công tác quản lý hành
chính Nhà nước phù hợp với từng ngạch bậc công chức nhà nước.
Để đáp ứng được yêu cầu đó, thời gian vừa qua, tôi đã được Lãnh đạo
Cục thuế TP Hà nội cho theo học lớp “Bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà
nước – Chương trình Chuyên viên – Từ 4/8 đến 7/11/2003” .
Trong thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được sự giảng dạy,
hướng dẫn và giúp đỡ rất tận tình của các thầy cô giáo, nên tôi đã tiếp thu
được nhiều kiến thức quan trọng trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà
nước, điều đó giúp tôi ngày càng nâng cao được trình độ chuyên môn và
năng lực công tác của mình.
Qua đây, tôi xin có lời cảm ơn đến Học viện Hành chính quốc gia, các
thầy cô giáo và Lãnh đạo Cục thuế TP Hà nội đã quan tâm, tạo điều kiện
giúp tôi hoàn thành chương trình học tập của mình. Trong thời gian tới rất
mong tiếp tục nhận được sự chỉ dẫn của các thầy cô và ban lãnh đạo Cục để
bản thân tôi có thể chuyển hoá được những lý luận đã được tiếp thu trong
quá trình học vào thực tiễn công việc của mình, góp phần nhỏ vào công cuộc
cải cách nền hành chính Nhà nước.
Học viên

Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
  
Ngày nay, thuế đã trở thành nguồn thu ổn định và chủ yếu của Ngân
sách Nhà nước, hơn 90% nguồn thu của Ngân sách Nhà nước là từ thuế. Có
thể nói rằng chính sách thuế luôn có tác động nhạy cảm và là vấn đề mang
tính thời sự đối với lĩnh vực kinh tế. Chính sách thuế không chỉ được sử


dụng để đảm bảo nguồn thu của Ngân sách Nhà nước mà bước đầu đã phát
huy được vai trò công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Công cuộc cải cách hệ thống thuế của chúng ta về cơ bản đã thu được
một số kết quả quan trọng, hình thành được một hệ thống thuế bước đầu đã
có sự tương thích với nền kinh tế đang chuyển đổi, có cơ cấu thuế tương đối
hợp lý.
Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của các ngành, các cấp và sự
phấn đấu của cán bộ công chức toàn ngành thuế, công tác quản lý thu thuế
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh đã có nhiều chuyển biến tích cực góp
phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế, đã hạn chế được phần nào sự
thất thu cho Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, kết quả thu thuế vẫn chưa tương xứng với qui mô và tốc
độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Do
vậy, ngày 20/02/2002, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Chỉ thị số
06/2002/CT-TTg; ngày 23/4/2002, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế đã ban
hành Chỉ thị số 01 TCT/CT/NV6 về việc tăng cường quản lý chống thất thu
thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh Công thương nghiệp và Dịch vụ
Ngoài quốc doanh , nhằm chấn chỉnh công tác quản lý thu và khắc phục tình
trạng thất thu về đối tượng nộp thuế, doanh thu tính thuế, tình trạng trốn
Trang 2
thuế, lậu thuế, nợ đọng, chiếm đoạt tiền thuế đang diễn ra tương đối phổ
biến và ngày càng trở nên phức tạp trong giai đoạn hiện nay.
Để phần nào làm rõ hơn các thủ đoạn kinh doanh trốn thuế hiện nay
và thực trạng về công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực thuế, nhất là khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh, tôi xin chọn đề tài “Xử lý tình huống khai
man trốn thuế trong kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân xăng dầu BK” để
làm tiểu luận cuối khoá học Bồi dưỡng kiến thức về Quản lý Nhà nước -
chương trình Chuyên viên – từ 4/8 đến 7/11/ 2003.
Tiểu luận bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
I. Mô tả tình huống.

II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống.
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả của sự việc.
IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống.
V. Lập kế hoạch thực hiện phương án đã lựa chọn.
VI. Kiến nghị và kết luận
Giải quyết tình trạng kinh doanh trốn lậu thuế là một vấn đề khá bức
xúc hiện nay, trong phạm vi Tiểu luận này, người viết chỉ muốn đưa ra một
số ý kiến cá nhân để góp phần hạn chế những sai phạm trong lĩnh vực này,
do vậy mà khó tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô giáo để giúp bản thân tôi được nhận thức rõ hơn
nhằm vận dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả tốt nhất.
❁
Trang 3
Trang 4
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN
TỔ CHỨC TẠI CỤCTHUẾ HÀ NỘI
*******
TIỂU LUẬN
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG KHAI MAN TRỐN THUẾ
TRONG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
TƯ NHÂN XĂNG DẦU BK
Họ và tên : Nguyễn Anh Thư
Chức vụ : Kiểm soát viên thuế
Đơn vị công tác: Cục thuế thành phố Hà Nội
Trang 5
Hà Nội,tháng 10/2003
Trang 6
Phần nội dung

I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1. Qua công tác điều tra vụ án các tổ chức kinh doanh xăng dầu có
hành vi trốn thuế, Công an Thành phố HN đã phát hiện trong năm 2000, và
2001, khi thực hiện hợp đồng Tổng đại lý bao tiêu bán lẻ xăng dầu với Công
ty xăng dầu HB huyện M– Tỉnh HB, Công ty TM YK đã tự ý chuyển
5.200.700 lít xăng dầu mua theo hợp đồng Tổng đại lý bán thẳng cho 10 đơn
vị đại lý xăng dầu tại Thành phố HN, trong đó có DNTN Xăng dầu BK. Thủ
tục xuất bán xăng dầu phần lớn được thực hiện theo quy định, tuy nhiên có
nhiều trường hợp được phát hiện xăng dầu xuất bán dưới hình thức giấy viết
tay do người nhận hàng viết, Công ty TM YK căn cứ các giấy viết tay này
lập lại hoá đơn GTGT ghi tên, địa chỉ theo yêu cầu của người mua nên đã
ghi nhiều tên, địa chỉ không cụ thể nhằm xé lẻ lượng hàng mua được, giấu
doanh thu để trốn thuế.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố HN đã xem xét khởi tố
vụ án hình sự điều tra, làm rõ những đối tượng có hành vi trốn thuế với số
lượng lớn để xử lý theo quy định của pháp luật. Riêng trường hợp DNTN
xăng dầu BK cùng 6 đơn vị khác do số tiền trốn thuế kinh doanh xăng dầu
chưa đến mức xử lý bằng Luật hình sự theo hướng dẫn xử lý tội trốn thuế
được quy định tại Thông tư liên ngành số 06/TTLN ngày 20/6/1996 của Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, nên ngày
11/5/2002, Công an Thành phố HN đã có công văn số 38/PV11(PC15) thông
báo số liệu xăng dầu mua bán trốn thuế gởi Cục thuế Thành phố HN (Kèm
theo toàn bộ hồ sơ có liên quan) để Cục thuế có kế hoạch kiểm tra xử lý theo
thẩm quyền.
2. Sau khi nhận được hồ sơ từ Công an Thành phố HN, Cục thuế
Thành phố HN đã tiến hành xem xét lại toàn bộ hồ sơ vụ việc và ngày
15/10/2002, Đoàn kiểm tra của Cục thuế Thành phố HN đã làm việc trực
tiếp với DNTN xăng dầu BK, đồng thời cùng DN thực hiện đối chiếu sổ
Trang 7
sách kế toán năm 2000,2001 của đơn vị, kết quả cụ thể đã được xác lập bằng

biên bản với nội dung như sau:
- Căn cứ theo hồ sơ và số liệu do Công an TP cung cấp thì trong năm
2000, 2001 DNTN XD BK có mua hàng tại Công ty TM YK với số lượng
thể hiện trên 41 chứng từ, hoá đơn, gồm:
+ Xăng: 95.250 lít - Thành tiền: 390.545.694 đồng.
+ Dầu Diezen: 222.610 lít - Thành tiền: 712.535.600 đồng.
Tổng cộng: 1.106.081.294 đồng.
Trong số này, DNTN XD Thu Thu đã thực hiện ghi chép, phản ánh
vào sổ sách kế toán của đơn vị 16 tờ hoá đơn với tổng giá trị 477.574.255
đồng, gồm:
+ 7 hoá đơn mua xăng với số lượng 54.350 lít – Trị giá 222.059.250 đồng.
+ 9 hoá đơn mua dầu với số lượng 80.500 lít – Trị giá 255.515.005 đồng.
Như vậy DNTN XD BK đã để ngoài sổ sách kế toán đối với lượng
hàng xăng dầu mua tại Công ty TM YK thể hiện trên 25 tờ hoá đơn còn lại
với trị giá mua vào là 628.507.039 đồng, gồm:
+ Xăng: 40.900 lít - Trị giá 168.486.444 đồng.
+ Dầu: 142.110 lít – Trị giá 475.020.595 đồng.
Trong số 25 tờ hoá đơn này, có một số hoá đơn ghi tên người mua là
DNTN xăng dầu BK, số còn lại tên và địa chỉ người mua không phải của
DNTN xăng dầu BH, tuy nhiên theo cung cấp của Công ty TM YK, việc
Công ty xuất bán hàng cho doanh nghiệp nhưng lại ghi tên của người khác là
theo yêu cầu của bà K.A – Chủ DNTN xăng dầu BK, bên Công ty đã xuất
trình cho Công an TP HN các chứng từ do bà K.A viết để yêu cầu Công ty
TM YK đổi tên người mua trên hoá đơn.
- Tại buổi làm việc, bà K.A – chủ DNTN xăng dầu BK đã thừa nhận
có mua hàng tại Công ty TM YK với số lượng đã kê trên, tuy nhiên bà cho
biết thực tế bà chỉ trực tiếp mua hàng và nhập về kho của DN với số lượng
hàng của 16 tờ hoá đơn mà đơn vị đã ghi chép vào sổ sách và đã kê khai nộp
Trang 8
thuế khi bán hàng, còn đối với 25 tờ hoá đơn không vào sổ sách của đơn vị,

không kê khai nộp thuế với cơ quan thuế là do DN chỉ đứng ra làm trung
gian môi giới bán hàng cho Công ty TM YK để hưởng hoa hồng 10đồng/lít
xăng dầu, bà trực tiếp nhận hàng tại Công ty TM YK và giao lại cho các
khách hàng mua (thực chất là hình thức mua bán “sang tay ba”), việc ghi hoá
đơn do Công ty TM YK thực hiện. Việc thanh toán tiền trong các trường
hợp này do bà chịu trách nhiệm chi trả, tức là trong quan hệ thanh toán,
Công ty TM YK chỉ thực hiện trực tiếp với bà K.A mà không nhận tiền trả
từ các khách hàng mua do bà K.A “môi giới”. Đồng thời bà K.A cũng cho
biết hoạt động trung gian của bà cho Công ty TM YK chỉ được thực hiện
bằng thoả thuận miệng giữa bà và Ban giám đốc Công ty, chứ không bằng
bất cứ văn bản nào (Như hợp đồng môi giới,…).
3. Từ hồ sơ, số liệu đã thu thập được và kết quả làm việc với DNTN
XD BK, Đoàn kiểm tra - Cục thuế TP HN đã xác định: Mối quan hệ giữa
DNTN BK với Công ty TM YK là mối quan hệ mua bán vì các hợp đồng
kinh tế đã ký kết giữa 2 bên là hợp đồng mua bán xăng dầu chứ không phải
là hợp đồng môi giới hay đại lý hưởng hoa hồng. Do vậy việc bà K.A trình
bày là chỉ làm trung gian để hưởng hoa hồng là không có căn cứ, còn việc
hoá đơn ghi tên người mua không phải tên của DNTN BK là do phía Công
ty TM YK ghi theo yêu cầu của bà (thể hiện trên các chứng từ bên Công ty
đã cung cấp). Mặt khác, về phía Công ty TM YK cũng đã xác nhận trên
bảng kê chứng từ cung cấp cho Công an TP HN là thể hiện mối quan hệ mua
bán.
Trên cơ sở kiểm tra, xem xét, đối chiếu hồ sơ, ngày 12/11/2002, Cục
thuế TP HN đã tiến hành làm việc lại với DNTN XD BK để xác định hành
vi vi phạm đối với đơn vị. Nội dung biên bản đã ghi rõ: Trong 2 năm
2000,2001 DNTN XD BK đã mua xăng dầu của Công ty TM YK để bán
nhưng không ghi chép vào sổ sách kế toán của đơn vị, không kê khai nộp
thuế với tổng giá trị là 628.507.039 đồng. Như vậy, doanh nghiệp đã có hành
vi man khai trốn thuế vi phạm Điều 13 Luật thuế giá trị gia tăng và Điều 11
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

Trang 9
4. Căn cứ theo Điều 19 Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT), Điều 24
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và các qui định về việc xử phạt
đối với hành vi trốn thuế, Cục thuế TP HN đã ra Quyết định số 366/QĐ-CT
ngày 17/12/2002 về việc xử lý vi phạm đối với DNTN xăng dầu BK :
- Truy thu thuế GTGT và thuế TNDN: 31.425.351 đồng.
Trong đó: Thuế GTGT : 9.741.858 đồng.
Thuế TNDN: 21.683.493 đồng.
- Phạt 01 lần thuế GTGT-TNDN, số tiền là 31.425.351 đồng.
- Thời hạn nộp: Chậm nhất đến hết ngày 30/12/2002
(Ghi chú: Do đơn vị man khai trốn thuế nên thuế GTGT và thuế
TNDN truy thu và phạt được tính ấn định theo quy định tại Quyết định số
6852 CT/NV ngày 24/7/2000 của Cục trưởng Cục thuế TP HN về việc ban
hành biểu tỷ lệ GTGT và tỷ lệ thu nhập chịu thuế tính trên doanh thu để tính
thuế GTGT và thuế TNDN đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nộp thuế theo phương pháp trực tiếp không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ chế độ kế toán, chế độ hoá đơn chứng từ.).
5. Sau khi nhận được Quyết định xử lý số 366/QĐ-CT của Cục thuế
TP HN, ngày 21/12/2002, DNTN XD BK đã có đơn khiếu nại gởi đến Cục
thuế TP HN đề nghị xem xét lại việc xử lý đối với DN, vì cho rằng đơn vị
chỉ đứng ra làm trung gian môi giới chứ không mua hàng trực tiếp của Công
ty TM YK, mặt khác đây là vi phạm lần đầu nên việc Cục thuế xử phạt 01
lần thuế là quá nặng.
Tiếp nhận được đơn khiếu nại của DNTN XD BK, ngày 25/12/2002,
Cục thuế TP HN đã ra Công văn số 1330/CT-TTr giải quyết đơn của doanh
nghiệp với nội dung giữ nguyên Quyết định xử lý đối với doanh nghiệp, yêu
cầu đơn vị chấp hành.
6. Ngày 2/01/2003, DNTN xăng dầu BK đã làm đơn khởi kiện Quyết
định xử lý số 366/QĐ-CT ngày 17/12/2002 của Cục thuế TP HN ra Toà
Hành chính – Toà án nhân dân TP HN.

Trang 10

×