Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO LIÊN XÔ - TRUNG QUỐC - MỸ NHỮNG NĂM 1950 - 1970

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.95 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐƠNG PHƯƠNG HỌC
------

TIỂU LUẬN
NHỮNG CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC
ĐỀ TÀI

NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG QUAN HỆ
NGOẠI GIAO LIÊN XÔ - TRUNG QUỐC MỸ
NHỮNG NĂM 1950 - 1970

NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO
LIÊN XƠ- TRUNG QUỐC- MỸ NHỮNG NĂM 1950- 1970.


A: LỜI MỞ ĐẦU:
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Hội nghị Ianta mở ra
một trật tự thế giới mới - “ Trật tự hai cực Ianta” thực chất “hai cực” ở đây
là chỉ Mỹ và Liên Xô phân chia nhau phạm vi thế lực trên cơ sở thoả thụân
của hội nghị Ianta. Sau hội nghị Ianta mối quan hệ Xô- Trung là mối quan
hệ cơ bản nhất, có ảnh hưởng lớn nhất trong quan hệ quốc tế. Nhằm tiêu
diệt Liên Xô và các nước CNXH trên thế giới Mỹ đã tiến hành “chiến
tranh lạnh” chống Liên Xô. Cuộc chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mỹ
diễn ra ngày càng quyết liệt. Chính sự căng thẳng trong quan hệ Xơ- Mỹ đã
làm cho tình hình thế giới ngày càng căng thẳng và phức tạp.
Trong khi đó Trung Quốc mới giành độc lập năm 1949, đất nước
còn nhiều khó khăn, quan hệ quốc tế cịn hạn chế. Giai đoạn những năm
1950- 1970, là giai đoạn nhạy cảm và phức tạp trong quan hệ ngoại giao
của Trung Quốc. Ngoại giao giữ vai trị vơ cùng quan trọng đối với bất kỳ


quốc gia nào. Nó góp phần tích cực trong phát triển kinh tế, bảo vệ chủ
quyền an ninh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, tăng cường địa vị quốc
tế. Ngoại giao với vai trò quan trọng như vậy thì Trung Quốc sẽ có những
đối sách gì trong chiến lược ngoại giao giai đoạn này? Nếu không đưa ra
được những chính sách ngoại giao hợp lí, khơng tìm cho mình một con
đường ngoại giao phù hợp thì sẽ gây rất nhiều bất lợi cho một đất nước non
trẻ như Trung Quốc. Quan hệ ngoại giao của Trung Quốc chịu sự chi phối,
tác động rất lớn từ Liên Xô và Trung Quốc. Vậy trong bối cảnh quốc tế
phức tạp, quan hệ Xô- Mỹ căng thẳng, Trung Quốc sẽ phải xử lí quan hệ
ngoại giao của mình với Liên Xô và Mỹ như thế nào mà vẫn đảm bảo được
lợi ích quốc gia? Đây là những câu hỏi lớn đặt ra đối với các nhà lãnh đạo
Trung Quốc lúc bấy giờ. Trung Quốc đã cho thấy sự nhạy bén, khả năng
thích ứng của mình trước thời cuộc, họ đã tự tìm cho mình một lối đi riêng
trong xử lí các mối quan hệ quốc tế. Từ đó, họ khơng chỉ đứng vững mà
còn vươn lên khẳng định địa vị của mình trên trường quốc tế. Trong những
năm 1950- 1970 trục quan hệ Liên Xô- Trung Quốc- Mỹ diễn ra với nhiều
sự kiện phong phú nhưng cũng vô cùng phức tạp và có ảnh hưởng to lớn
trong quan hệ quốc tế lúc bấy giờ.
2

2


Mặc dù, những năm 1950- 1970 đã lùi vào lịch sử song những bước đi
của Trung Quốc trong xử lí các mối quan hệ quốc tế vẫn có những giá trị
và bài học lịch sử của nó. Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc có
quan hệ mật thiết với Trung Quốc. Chúng ta đã rút ra được bài học gì từ
Trung Quốc và ứng dụng nó như thế nào trong thực tiễn hiện nay? Học tập
bài học không có nghĩa là bệ ngun những gì mà người khác đã làm vào
hồn cảnh riêng của mình làm như thế là tự hại mình, là sự học tập nguy

hiểm.
Xuất phát từ những suy nghĩ đó nên em trọn đề tài “ Những nét chính
trong quan hệ ngoại giao Liên Xơ- Trung Quốc- Mỹ trong những năm
1950- 1970”. Đây là một đề tài có nội dung tương đối rộng với nhiều sự
kiện và chính sách ngoại giao phong phú, phức tạp. Vì thế, để có thể
nghiên cứu sâu, kĩ vấn đề này cần phải có thời gian và nguồn tài liệu phong
phú. Nhưng do trình độ của em cịn hạn hẹp, nguồn tài liệu rất ít, vì thế
trong bài tiểu luận này em chỉ xin trình bày một cách khái quát nhất những
nét chính trong giai đoạn này.
Bài tiểu luận được bố cục làm ba phần:
A: Lời mở đầu.
B: Nội dung:
1. Quan hệ ngoại giao Liên Xô- Trung Quốc- Mỹ giai đoạn 1950- 1960 :
a) Quan hệ Liên Xô- Mỹ trong chiến tranh lạnh.
b) Quan hệ Liên Xô- Trung Quốc.
c)

Quan hệ Mỹ- Trung Quốc.

2. Quan hệ ngoại giao Liên Xô- Trung Quốc- Mỹ giai đoạn 1960- 1970:
a) Quan hệ Liên Xô- Trung Quốc.
b) Quan hệ Mỹ- Trung Quốc.

C: Kết luận.

3

3



Em xin chân thành cảm ơn thầy Lê Tuấn Thanh đã bổ xung cho em
nhiều kiến thức về ngoại giao của Trung Quốc trong q trình giảng dạy
mơn CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA TRUNG QUỐC!
B: NỘI DUNG:
1.QUAN HỆ LIÊN XÔ- TRUNG QUỐC- MỸ GIAI ĐOẠN 1950- 1960.
A.QUAN HỆ LIÊN XÔ- MỸ TRONG CHIẾN TRANH LẠNH:

Cách mạng tháng mười Nga thành công, nước XHCN đầu tiên trên thế
giới ra đời. Sau chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít giành thắng lợi một
loại các nước Đông âu dưới sự giúp đỡ của Liên Xơ sau giải phóng đã đưa
đất nước tiến theo con đường XHCN. Đây là sự kiện có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng, nó đánh dấu sự hình thành hệ thống XHCN trên thế giới- một
lực lượng đối trọng với hệ thống TBCN, là mối đe doạ lớn đối với các
nước TBCN. Vì thế các nước TBCN coi Liên Xơ và các nước XHCN là kẻ
thù đối đầu trực tiếp của mình. Sau chiến tranh thế giới thứ II hình thành
lên một trật tự thế giới mới- trật tự hai cực Ianta. Thực chất đây chính là
hai cực XHCN và TBCN mà đứng đầu của phe XHCN là Liên Xô, còn
đứng đầu phe TBCN là Mỹ. Mối quan hệ Liên Xô- Mỹ là mối quan hệ cơ
bản, then chốt nhất trong quan hệ quốc tế.
Ngay từ tháng 3- 1947, tổng thống Mỹ Tơruman đã đưa ra học thuyết “
chủ nghĩa Tơruman”- theo chủ nghĩa này thì Mỹ phải đứng ra “đảm nhiệm
sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do”, phải “ giúp đỡ” các dân tộc trên thế giới
chống lại “sự đe doạ” của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự bành trướng
của Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Như vậy với sự ra
đời của “chủ nghĩa Tơruman”, Mỹ đã chính thức phát động cuộc “chiến
tranh lạnh” chống lại Liên Xô và các nước XHCN. Từ đây quan hệ XôMỹ là quan hệ đối đầu, là chạy đua vũ trang.
Biểu hiện nổi bật cho sự căng thẳng trong quan hệ Xô- Mỹ trong chiến
tranh lạnh là Mỹ và Liên Xô đua nhau thành lập các tổ chức quân sự, kinh
tế để tạo sức mạnh và phơ trương thanh thế cho mình. Mỹ đã sử dụng "kế
hoạch Macsan" thông qua viện trợ để khống chế và lơi kéo các nước Tây

Âu. Trong đó, tiêu biểu là sự thành lập khối quân sự Bắc Đại Tây Dương-

4

4


NATO do Mỹ cầm đầu vào ngày 4- 4- 1949, với sự tham gia của 12 nước
như: Canada, và các nước thuộc "Liên hiệp Tây Âu"( Anh, Pháp, Hà Lan,
Bỉ, Lucxembua).. .. Việc thành lập khối quân sự NATO là một bước tiến
mới và là một bộ phận quan trọng trong việc thực hiện những kế hoạch
thống trị thế giới của Mỹ, đặc biệt là khi Tây Đức vào NATO, biến Tây
Đức thành "lực lượng xung kích" chống lại Cộng hồ dân chủ Đức, Liên
Xơ và các nước Đơng Âu XHCN.
Trước các hành động khiêu khích của Mỹ và để bảo vệ thành quả cách
mạng tháng 10, Liên Xô cũng tiến hành thành lập các tổ chức liên minh
của mình, bởi lẽ trong hoàn cảnh như vậy, phương pháp giữ gìn hồ bình,
ngăn chặn chiến tranh tốt nhất là tổ chức hệ thống an ninh tập thể của các
nưỡc XHCN. Vì thế mà hiệp ước hữu nghị, hợp tác, và tương trợ Vacxava
được ký kết vào ngày 14- 5- 1955- hiệp ước nhằm giữ gìn an ninh của các
nước hội viên, duy trì hồ bình ở Châu Âu và củng cố hơn nữa tình hữu
nghị và sự hợp tác bền vững giữa các nước hội viên.
Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước Xô- Mỹ lên tới đỉnh cao vào
những năm 1970, với một khối lượng vũ khí khổng lồ và sức huỷ diệt lớn
mà theo ước tính của các chun gia qn sự thì chỉ cần phóng ra 1/2 số
kho vũ khí hạt nhân của Mỹ hoặc Liên Xơ cũng đủ để huỷ diệt toàn bộ sự
sống con người và nền văn minh của toàn nhân loại. Qua đây cũng tốt lên
tồn bộ cục diện quan hệ quan hệ Xơ- Mỹ.
Sự căng thẳng trong quan hệ Xơ- Mỹ có ảnh hưởng rất lớn đến tình
hình thế giới, nó đẩy nhân loại tới nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh quy

mô lớn và tàn khốc. Tạo ra một bầu chính trị gột gạt bao trùm mọi mối
quan hệ quốc tế. "Chiến tranh lạnh" đã cuốn các nước theo chiều sóng của
nó. ở đây khơng chỉ đơn thuần là đối đầu trực tiếp giữa Liên Xơ với Mỹ
nữa mà nó là sự đối lập, đối đầu giữa hai ý thức hệ xã hội tức là nó là sự
đối đầu của hai hệ thống xã hội TBCN và XHCN.
Chiến tranh lạnh và sự đối đầu căng thẳng trong quan hệ mới Xô- Mỹ là
bối cảnh quốc tế chủ yếu ảnh hưởng mạnh mẽ tới Trung Quốc. Nước
CHND Trung Hoa tuy là nước có diện tích lớn, dân số đơng có tiềm lực
5

5


nhưng vừa mới thành lập năm 1949, nó chịu sự chi phối rất lớn từ Liên Xô
và Mỹ. Nhiệm vụ trước mắt của các nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó là
bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước. Lúc này
Trung Quốc phaỉ lựa chọn cho mình con đường đối ngoại hợp lí. Trung
Quốc có 3 con đường để lựa chọn, hoặc là theo Liên Xơ hoặc theo Mỹ
hoặc Trung Lập. Xử lí tốt các mối quan hệ đối ngoại phù hợp với xu thế
thế giới sẽ đem lại lợi ích quốc gia cho Trung Quốc. Trong thời kỳ này
Trung Quốc đã tỏ rõ lập trường và thái độ của mình, họ đứng về phía Liên
Xô, về phe XHCN và đối đầu với Mỹ.
b. QUAN HỆ LIÊN XÔ- TRUNG QUỐC:

Ngay từ trước năm 1949, Liên Xơ và Trung Quốc đã có mối quan hệ
với nhau tuy nhiên lúc đó do cách mạng Trung Quốc chưa giành thắng lợi
vì thế quan hệ ngoại giao chỉ với tư cách các tổ chức Đảng mà thôi. Đảng
Cộng Sản Trung Quốc hoạt động vũ trang để chống xâm lược, về mặt
ngoại giao hầu như chỉ quan hệ với Đảng Cộng Sản Liên Xô và Quốc tế
cộng sản chứ chưa được thế giới công nhận. Đảng Cộng Sản Trung Quốc

tiến hành cuộc cách mạng theo con đường cách mạng vô sản dưới ánh sáng
chỉ đường của chủ nghĩa Mác –Lênin. Trong cuộc chiến đó họ đã nhận
được sự giúp đỡ to lớn từ Liên Xô. Sau khi cách mạng thành công Trung
Quốc đi lên con đường CNXH, họ đứng về phe XHCN ngả về phía Liên
Xơ. Mặt khác, Quốc Dân Đảng- một lực lượng đối đầu với Đảng Cộng Sản
lại nhận được sự viện trợ và giúp đỡ từ Mỹ làm cho cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ của Trung Quốc càng thêm khó khăn và đổ máu. Tập đồn
Tưởng Giới Thạch bỏ chạy ra Đài Loan và trở thành một lực lượng độc lập
tách ra khỏi Trung Quốc đại lục, tiếp tục nhận sự chi viện và giúp đỡ từ
Mỹ trở thành một mối lo gây mấy ổn định đối với Trung Quốc. Chính
trong bối cảnh đó mà Trung Quốc lựa chọn trọng tâm quan trọng trong
quan hệ ngoại giao của mình là Liên Xơ, chống lại chủ nghĩa đế quốc, coi
những nước tư bản lớn là chủ nghĩa đế quốc, quyết tâm lật đổ chủ nghĩa đế
quốc đã trở thành phương châm cơ bản trong đối xử quan hệ ngoại giao
với các nước khác Trong giai đoạn này, Trung Quốc đưa ra nhiều chính
sách ngoại giao, trong đó "nhất biên đảo ” được coi là trung tâm điểm
6

6


trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc, nó tốt lên toàn bộ ý đồ của
các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Chính sách "nhất biên đảo ” ra đời ngày 612- 1949 trong dịp Mao Trạch Đơng dẫn đồn đại biểu Trung Quốc đi dự
sinh nhật Xtalin. Nội dung cơ bản của chính sách này là Trung Quốc coi
Liên Xơ là đối tác chiến lược, là trọng tâm trong quan hệ đối ngoại của
Trung Quốc. Xác định Trung Quốc là người bạn đồng hành cùng Liên Xô
và các nước XHCN trên cùng trận tuyến chống CNTB, CNĐQ. Tiếp đó
tháng 12- 1950 hai nước cịn kí điều ước hỗ trợ "đồng minh hữu hảo XôTrung ”. Điều ước này giữ vai trị quan trọng, nó thúc đẩy, tăng cường hơn
nữa quan hệ ngoại giao Liên Xô- Trung Quốc. Quyết định liên minh với
Liên Xô là một giải pháp quan trọng trong quan chính sách ngoại giao của

Trung Quốc lúc này, nó giúp Trung Quốc tranh thủ được sự ủng hộ giúp
đỡ tồn diện từ Liên Xơ trong cơng cuộc khơi phục và phát triển kinh tế.
Liên Xô đã đầu tư vào Trung Quốc 156 cơng trình - những cơng trình này
đã đặt nền móng cho cơng nghiệp Trung Quốc. Liên Xơ còn cung cấp kĩ
thuật, vốn và cố vấn cho Trung Quốc. Không chỉ hợp tác về mặt kỹ thuật
mà Liên Xơ cịn giúp Trung Quốc về mặt qn sự. Liên Xơ giúp Trung
Quốc bước đầu xây dựng vũ khí chiến lược của riêng mình. Ngày
27/4/1955, Liên Xơ đã kí với Trung Quốc hiệp định về việc Liên Xô giúp
đỡ Trung Quốc xây dựng lị phản ứng hạt nhân thí nghiệm đầu tiên của
Trung Quốc và máy gia tốc đưa vào hoạt động từ năm 1957. Tiếp đó
15/10/1957, Liên Xơ và Trung Quốc lại kí một hiệp định trong đó Liên Xô
hứa sẽ cung cấp cho Trung Quốc một mẫu bom nguyên tử và những số
kiệu kĩ thuật để chế tạo. Với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, trong giai đoạn
1949- 1957 Trung Quốc đã khôi phục được nền kinh tế bị tàn phá, hoàn
thành xuất sắc kế hoạch 5 năm lần 1.
Việc Trung Quốc quyết định liên minh với Liên Xơ, ngả về phía Liên
Xơ, ủng hộ Liên Xô dường như là một điều tất yếu bởi: thế giới chia hai
cực một cách rõ ràng lấy ý thức hệ làm tiêu chuẩn quan trọng nhất. Đối với
các nước XHCN thì TBCN mà đứng đầu là Mỹ được coi là kẻ thù trực
tiếp. Còn CNTB mà tiêu biểu là Mỹ tìm mọi biện pháp tiêu diệt Liên Xơ,
đập tan hệ thống XHCN trên tồn thế giới. Vì thế cục diện đối đầu, căng
7

7


thẳng giữa hai chiến tuyến là điều không thể tránh khỏi. Trong khi đó
Trung Quốc ra khỏi chiến tranh đi lên theo con đường CNXH lấy ý thức hệ
vô sản làm nên tảng và trở thành một nước XHCN lớn trên thế giới, góp
phần hình thành và tăng cường sức mạnh cho phe XHCN. Có thể nói sau

Liên Xơ, Trung Quốc trở thành kẻ thù thứ 2 của Mỹ. Mỹ sẽ khơng thể là sự
lựa chọn có lợi cho Trung Hoa. Cịn thực lực của Trung Quốc lúc đó hầu
như khơng có, đối với một nước vừa hồn thành cách mạng dân tộc dân
chủ thì cịn nhiều khó khăn phải đối diện trên mọi lĩnh vực kinh tế- chính
trị- xã hội. Trung Quốc chưa đủ sức để tìm cho mình con đường trung lập.
Vì thế trong 3 con đường mà Trung Quốc có thể lựa chọn trong giai đoạn
này thực chất chỉ có thể là Liên Xơ mà thơi. Chỉ có Liên Xơ mới là chỗ
dựa tốt nhất để Trung Quốc quốc thực hiện được mục tiêu quan trọng trước
mắt là bảo vệ thành quả cách mạng, khôi phục và xây dựng đất nước.
Mối quan hệ hữu hảo Xô- Trung 1950- 1960 đã có tác động lớn đến
tình hình quốc tế, đặc biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô- Trung Quốc đối với
sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc. Chính mối quan hệ khăng khít
giữa hai quốc gia này đã trở thành chỗ dựa rường cột cho phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới. Trung Quốc đã tích cực hợp tác với Liên Xơ
ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần cho các dân tộc đang đấu tranh nhằm
thoát khỏi ách thống trị của chế độ thuộc địa cũ và chống lại chủ nghĩa
thực dân mới của các nước đế quốc. Phong trào giải phóng dân tộc của
nhân dân Đơng Dương nói chung của dân tộc Việt Nam nói riêng đã nhận
được sự giúp đỡ rất lớn từ Liên Xô- Trung Quốc cả về vũ khí, quân trang
quân dụng. Đặc biệt trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953) Trung
Quốc đã đưa quân tình nguyện của mình vào trực tiếp đối đầu với Mỹ và
giải phóng miền Bắc Triều Tiên. Tất nhiên khơng có sự giúp đỡ nào mà
khơng có mục đích. Ở đây câc nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đưa lợi ích
quốc gia dân tộc lên hàng đầu. Giúp đỡ các nước láng giềng chống lại chủ
nghĩa đế quốc là nhằm bảo vệ an ninh biên giới của Trung Quốc. Vấn đề
an ninh quốc phòng đã được xem xét và đưa lên hàng đầu.

8

8



Tuy nhiên, liên minh với Liên Xơ thì Trung Quốc cũng chịu nhiều sự
chi phối từ nước này. Trong một chuyến đi tham quan Matxcova, Chủ tịch
Mao đã nói với các sinh viên Trung Quốc: “ Phe đế quốc có một cái đầu,
đó là Mỹ. Phe XHCN cũng phải có một cái đầu đó là Liên Xơ ”. Cùng với
sự thừa nhận này, Trung Quốc đã luôn ủng hộ Liên Xơ trong các biện pháp
đối phó với CNĐQ. Và thực tế Trung Quốc trong xử lí các vấn đề quan hệ
quốc tế lớn thường khơng có lợi ích và quan điểm của riêng mình mà chủ
yếu là của Liên Xơ.
Nhìn chung, mối quan hệ Xô- Trung trong giai đoạn này là mối quan hệ
hữu hảo tốt đẹp với hàng loạt các hiệp định, hiệp ước trên nhiều lĩnh vực
đã được hai bên kí kết. Trung Quốc đã biết phát huy sức mạnh của quan hệ
ngoại giao để xây dựng, củng cố đất nước. Mối quan hệ tốt đẹp này cũng
đóng vai trị tích cực nhất trong việc khẳng định sức mạnh của phe XHCN.
Hơn thế nữa phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới cũng nhận được sự
giúp đỡ tích cực, có hiệu quả từ Liên Xơ và Trung Quốc. Đó là ý nghĩa
quốc tế vơ cùng to lớn mà quan hệ Xô- Trung đem lại trong thời gian này.
c. QUAN HỆ MỸ- TRUNG QUỐC:
Trong bối cảnh chung của quan hệ quốc tế là cuộc chiến tranh lạnh và
sự đối đầu, căng thẳng trong quan hệ Xô- Mỹ, trong giai đoạn này quan hệ
Mỹ- Trung Quốc cũng ở trạng thái đối đầu, căng thằng và gay gắt. Ngay từ
khi Đảng Cộng Sản chưa giành thắng lợi hồn tồn thì Mỹ ln tìm cách
ngăn cản hoạt động của Đảng này, lợi dụng Quốc Dân Đảng làm con bài
chính trị. Mỹ viện trợ cho Tưởng lên tới 4 tỷ 350 triệu USD, giúp Tưởng
huấn luyện hơn 500 nghìn quân tinh nhụê với mục tiêu là tạo cho quân
Tưởng một sức mạnh đủ lớn để có thể tiêu diệt được lực lượng đối lập là
Đảng Cộng Sản. Nhưng cuối cùng Quốc Dân Đảng đã bị đánh bại rút chạy
ra Đài Loan, còn Trung Quốc thành lập nước CHND Trung Hoa đi theo
con đường XHCN vào 1/10/1949. Đây là sự kiện lớn trở thành mối e ngại

của Mỹ bởi Mỹ lo ngại rằng khi nước CHDCND Trung Hoa thành lập sẽ
giúp một lực lượng lớn làm hùng mạnh thêm phe XHCN, gây ảnh hưởng
lớn đến phong trào giải phóng dân tộc của CNCS ở Châu Á.

9

9


Trước mối quan ngại đó, Mỹ đã áp dụng chính sách kiềm chế đối với
Trung Quốc vào đầu những năm 1950. Đặc biệt, khi điều ước “an ninh
Nhật- Mỹ” được kí kết. Điều ước này quyết định chống lại Liên Xô và
Trung Quốc, phạm vi bảo vệ đến Nhật, sau này, mở rộng ra đến Đài Loan.
Mỹ còn tiếp tục kí nhiều hiệp ước với các nước khác tạo ra một vành đai
bao vây Trung Quốc. Đối với Mỹ, việc Trung Quốc liên kết với Liên Xô
ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á- Phi- Mỹ Latinh, trực
tiếp đưa quân tham chiến ở Triều Tiên và ủng hộ tích cực cho phong trào
cách mạng ở Việt Nam càng làm cho Mỹ lo ngại và đẩy quan hệ MỹTrung thêm căng thẳng. Liên Xô- Trung Quốc trở thành kẻ thù đối đầu trực
tiếp của Mỹ. Mỹ tìm mọi cách nhằm tiêu diệt hai cánh cửa của XHCN. Đối
với Trung Quốc việc Mỹ tiếp tục viện trợ tích cực cho lực lượng Quốc Dân
Đảng ở Đài Loan, biến Đài Loan thành lực lượng đồng minh thân Mỹ ở
Châu Á nhằm ngăn chặn sự phát triển của XHCN ở khu vực này, mà trước
hết là nhằm vào Trung Quốc đại lục. Thực tế là cho đến nay Đài Loan vẫn
ln là vấn đề nóng bỏng, là mối quan ngại của Trung Quốc, việc giải
quyết vấn Đài Loan còn chịu nhiều sự can thiệp của Mỹ, Trung Quốc dù
sao cũng phải thăm dị động thái của Mỹ. Đài Loan ln là vấn đề nhạy
cảm.
Phải nói rằng trong giai đoạn này, Trung Quốc chưa có được tiếng nói
và địa vị trên trường quốc tế vì thế nó chịu sức ép rất lớn từ hai cường
quốc là Liên Xô và Mỹ. Trong khi mà thế giới có sự phân cực rất rõ ràng,

Trung Quốc khơng thể đứng ngồi dịng mà buộc phải chọn cho mình một
con đường nhất định. Trung Quốc mặc dù đã ngả hẳn về phía Liên Xơ
thơng qua chính sách "nhất biên đảo” nhưng họ còn thực hiện nhiều chính
sách khác nhằm giải quyết quan hệ với các nước khác như: chính sách
"dọn nhà mới mời khách ”, chính sách này nhằm xố bỏ tàn dư của CNĐQ,
chính sách " nổi lửa bếp khác” mục đích để khơng kế thừa các chính sách
ngoại giao mà Quốc Dân Đảng đã kí với các nước trứơc đây.
Ngay từ khi thế giới bước vào thời kì chiến tranh lạnh, quan hệ Xơ- Mỹ
gay gắt, Mỹ áp dụng chính sách kiềm chế đối với Trung Quốc thì Trung

10

10


Quốc cho rằng Mỹ có thể sẽ can thiệp vào cuộc nội chiến của nước này và
Trung Quốc cũng giữ thái độ phê phán và thù địch với Mỹ. Trong bối cảnh
chiến tranh lạnh Xô- Mỹ, Trung Quốc chịu áp lực từ hai phía, vì thế Trung
Quốc cần phải tính đến trong tương lai làm sao Trung Quốc có thể sinh tồn
giữa hai siêu cường này trong mối quan hệ giữa cuộc nội chiến Trung
Quốc với bối cảnh chính trị quốc tế. Từ đó Mao Trạch Đơng đã đưa ra lí
luận " vùng đệm trung gian ”. Lí luận này cho rằng trong cuộc chiến tranh
lạnh giữa Mỹ và Liên Xơ cịn có một khoảng khơng gian rộng lớn đó là các
nước thuộc thế giới thứ 3, do vậy sự đấu tranh giữa Mỹ và Liên Xô thông
qua việc khống chế các nước vừa và nhỏ. Mục đích lớn nhất của lí luận
này là đánh giá vai trị của các nước thuộc thế giới thứ 3 trong cuộc chiến
tranh lạnh và Trung Quốc muốn mở rộng quan hệ với các nước này, tranh
thủ sự ủng hộ của các nước này để giảm áp lực từ hai siêu cường Liên XôMỹ đối với Trung Quốc.
Trong những năm 1950- 1960, quan hệ ngoại giao của Trung Quốc với
các nước phương Tây và TBCN có nhiều căng thẳng bất lợi; đối đầu với

Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên; Mỹ lập vành đai bao vây Trung Quốc;
với các nước láng giềng Trung Quốc còn tồn đọng nhiều vấn đề lịch sử.. .
nhìn chung tình hình ngoại giao của Trung Quốc có nhiều bất lợi cho đất
nước. Ngày 28/ 6/1959 để tìm giải pháp giảm căng thẳng trong quan hệ
ngoại giao, Trung Quốc cùng thủ tướng Ấn Độ P. J. Nehru đưa ra tuyên
bố chung 5 ngun tắc cùng chung sống hồ bình :
1. Tơn trọng chủ quyên và toàn vẹn lãnh thổ của nhau
2. Không xâm phạm lẫn nhau.
3. Không can thiệp vào nội bộ chính quyền của nhau.
4. Ngoại giao độc lập tự chủ.
5. Cùng chung sống hồ bình.

Đây là 5 ngun tắc vơ cùng quan trọng và nhất qn trong chính sách
ngoại giao của Trung Quốc. Sau này Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước khác đều dựa vào câu chữ cùng chung sống hồ bình
11

11


làm cơ sở quan hệ giữa hai nước. Ngay cả Thơng cáo chung Thượng Hải
cũng đề cập đến.
Có thể nói cùng chung sống hồ bình là sách lược quan trọng trong
cuộc đấu tranh của Trung Quốc với các nước đối địch. Ngày 28/1/1954 thủ
tướng Chu Ân Lai đã phát biểu trong hội nghị Genever: Chúng tôi quyết
không xâm lược bất kì quốc gia nào, nhưng cũng quyết khơng cho phép bất
kì kẻ nào xâm lược Trung Quốc. Chúng tơi tơn trọng sự lựa chọn của các
nước và duy trì cách sống tự do của họ và quyền lợi không chịu sự can
thiệp. Đồng thời chúng tôi cũng yêu cầu các nước khác tuân thủ nguyên tắc
này và có nguyện vọng hợp tác, chúng tôi cho rằng các nước trên thế giới

với những chế độ xã hội khác nhau có thể cùng tồn tại hồ bình.
Thơng qua lời phát biểu của Chu Ân Lai và chính sách chung sống hồ
bình đã cho thấy có sự thay đổi trong quan niệm của các nhà lãnh đạo
Trung Quốc, yếu tố ý thức hệ đã giảm nhiều trong việc đưa ra các quyết
sách đối ngoại. 5 ngun tắc cùng chung sống hồ bình khơng chỉ có ý
nghĩa chiến lược mà cịn có ý nghĩa chỉ đạo cho chính sách ngoại giao của
Trung Quốc, trở thành nguyên tắc cơ bản cho chính sách ngoại giao của
nước này.
Qua đây cho ta thấy, ngay cả trong lúc chịu áp lực từ hai siêu cường
Liên Xô và Mỹ, Trung Quốc đã có ý thức xây dựng con đường đi lên một
cách độc lập, tự chủ; tìm cách hạn chế và đi đến thoát khỏi sự phụ thuộc
vào Liên Xô. Bên cạnh việc lấy quan hệ Xô- Trung làm trọng điểm, Trung
Quốc cịn có những hoạt động đối ngoại riêng biệt nhằm củng cố thế lực
của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ln ln tìm tịi, sáng tạo
trong việc đưa ra các chính sách ngoại giao. Với việc đưa ra chính sách
cùng chung sống hồ bình đã giúp Trung Quốc tự tìm cho mình một cách
đi riêng trong chính sách ngoại giao, nó khác với chính sách ngoại giao của
Liên Xơ và Mỹ.
2. QUAN HỆ LIÊN XƠ- TRUNG QUỐC- MỸ GIAI ĐOẠN 1960- 1970.

Những năm 1960- 1970, trong quan hệ ngoại giao của Trung Quốc có
nhiều vấn đề phức tạp, đường lối ngoại giao bất ổn định, quan hệ Xô12

12


Trung ngày càng rạn nứt, căng thẳng và chuyển sang chia rẽ cơng khai;
quan hệ Mỹ- Trung cũng khơng có gì thay đổi, cho mãi đến đầu những
năm 70 quan hệ Mỹ- Trung mới bắt đầu có bước cải thiện, Trung Quốc dần
bắt tay với Mỹ chính thức chống lại Liên Xơ. Vì thế trong giai đoạn này

mối quan hệ Liên Xô- Trung Quốc –Mỹ rất phức tạp, ảnh hưởng khơng
nhỏ đến quan hệ quốc tế.
a. QUAN HỆ LIÊN XƠ- TRUNG QUỐC 1960- 1970.

Ngay từ cuối những năm 50 trong quan hệ Xơ- Trung đã có những dấu
hiệu rạn nứt. Nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng trong quan hệ Xơ- Trung
có rất nhiều, nó xuất phát từ cả hai phía.
Đối với Trung Quốc, Trung Quốc là một nước lớn, có nhiều tiềm lực và
tham vọng. Sở dĩ những năm 50- 60 Trung Quốc phải dựa vào Liên Xô là
do lúc này thực lực của Trung Quốc chưa đủ mạnh, Trung Quốc chưa tạo
được vị thế chính trị quốc tế, chưa tác động vào các nước thuộc thế giới
thứ 3, và quan trọng là bối cảnh lịch sử không cho phép Trung Quốc tự
khẳng định mình. Trung Quốc từ xưa đã có tư tưởng nước lớn, tư tưởng bá
quyền, tư tưởng này đã ăn sâu bén rễ vào hầu hết các nhà lãnh đạo Trung
Quốc, mà tiêu biểu đó là Mao Trạch Đơng. Mao Trạch Đơng là người có
cơng lớn trong cuôc cách mạng dân tộc dân chủ của Trung Quốc và ngược
lại trong con người ơng có tinh thần chủ nghĩa dân tộc đận nét. Trên cơ sở
tư tưởng nước lớn, tư tưởng dân tộc Đại Hán mà Mao đã đề ra một thứ chủ
nghĩa mới- chủ nghĩa Mao Trạch Đơng(maoisme) và tìm mọi biện pháp để
tiến hành nó. Đến cuối những năm 1950, Trung Quốc bắt đầu lớn mạnh,
điều kiện đã tạo thuận lợi cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc mà đứng đầu
là Mao Trạch Đông bước vào triển khai tư tưởng bá quyền phục vụ cho lợi
ích dân tộc hẹp hịi của mình. Mặt khác lúc này tương quan lực lượng đã
có sự thay đổi theo hướng có lợi cho Trung Quốc cả về kinh tế- chính trị
và qn sự. Trung Quốc có khả năng phát triển kinh tế độc lập mà không
phải phụ thuộc vào Liên Xô nữa. Sức mạnh quân sự được khẳng định
thông qua sự kiện tháng 10- 1964 Trung Quốc đã thử thành công bom
nguyên tử. Năm 1967 Trung Quốc tuyên bố đã sản xuất được bom nhiệt

13


13


hạch. Những sự kiện này đã đánh dấu bước phát triển dài trong sự phát
triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Điều này đã rút ngắn khoảng
cách và dần đi tới thế cân bằng về sức mạnh quân sự với Mỹ và Liên Xô.
Vị thế của Trung Quốc đang dần được khẳng định trên trường quốc tế.
Việc Trung Quốc đưa ra chính sách và nguyên tắc cùng chung sống hồ
bình đã thể hiện sự thay đổi trong quan niệm ý thức hệ của các nhà lãnh
đạo Trung Quốc. Điều này là một trong những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến sự rạn nứt trong quan hệ Xô- Trung.
Đối với Liên Xô, Liên Xô đã giúp đỡ Trung Quốc rất lớn cả trong chiến
tranh và xây dựng phát triển kinh tế nhưng sự giúp đỡ ấy cũng nhằm mục
đích thực hiện các chính sách áp đặt đối với Trung Quốc. Liên Xô thông
qua hiệp ước đồng minh tương trợ năm 1950 và các kế hoạch viện trợ khác
để khống chế và áp đặt tư tưởng cho Trung Quốc. Chính vì thế Trung
Quốc càng muốn nhanh chóng tìm cách thốt khỏi sự khống chế của Liên
Xô.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khơng thể khơng nhắc đến đó
là bối cảnh quốc tế hay vai trị quan hệ Xơ- Mỹ trong giai đoạn mới. Về
bối cảnh quốc tế thì cái phơng chung của nó vẫn là cục diện chiến tranh
lạnh, sự đối đầu Xô- Mỹ, nhưng lúc này trong quan hệ Xô- Mỹ đã có sự
hồ dịu hơn trước. Điều này tác động rất lớn đến quan hệ quốc tế. Vào
cuối những năm 1950, Liên Xô đã tạo ra được thế cân bằng với Mỹ về vũ
khí chiến lược. Tháng 8- 1957, Liên Xơ phóng thành cơng tên lửa vượt đại
châu. Tiếp đó 4/10/1957 Liên Xơ phóng thành cơng vệ tinh nhân tạo đầu
tiên trên thế giới. Hai sự kiện này làm mất đi ưu thế quân sự truyền thống
của Mỹ. Đạt được thế cân bằng về lực lượng vũ trang cũng có ý nghĩa là
nó làm giảm đi nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh lớn, mang tính huỷ

diệt. Song cũng đến lúc này Liên Xô và Mỹ nhận ra rằng việc chạy đua vũ
trang với những khoản chí phí khổng lồ đã trở thành gánh nặng cho nền
kinh tế hai nước. Hơn nữa do chỉ tập trung vào chạy đua cũ trang mà để
ngỏ công tác phát triển kinh tế, làm giảm sức mạnh kinh tế của cả hai
nước. Trong khi đó các nước Tây Âu và Nhật Bản có thời gian để khôi

14

14


phục và phát triển, vào cuối những năm 1950, Tây Âu và Nhật Bản đã trở
thành đối thủ cạnh tranh lớn về thị trường và khu vực ảnh hưởng. Khoản
chi viện cho phong trào giải phóng dân tộc và các nước XHCN khác cũng
trở thành gánh nặng đối với Liên Xô và Mỹ cũng phải chịu gánh nặng
trong việc dẫn dắt hệ thống TBCN.
Nhìn chung cả Liên Xơ và Mỹ đều đã thấy sự mệt mỏi trong chạy đua
vũ trang vì thế hai nước đều có xu hướng xoa dịu sự căng thẳng trong quan
hệ song phương đã tồn tại trong thời gian dài.
Năm 1953, sau khi Stakin qua đời Khơ- rut- xốp lên thay nắm quyền
lãnh đạo Đảng và nhà nước Liên Xô. Với cùng đường lối phê phán Chủ
nghĩa cá nhân và chủ trương “chung sống hồ bình” với chủ nghĩa đế quốc.
Quan điểm này của Khơ- rut- xốp đã gây nhiều lúng túng cho các Đảng
cộng sản và các nước XHCN khác, dẫn đến những ảnh hưởng xấu đến phe
XHCN. Khơ- rut- xơp cịn mời thủ tướng Đức sang thăm Liên Xơ nhằm
thực hiện bình thường hố quan hệ song phương, giảm căng thẳng bảo vệ
lợi ích của Liên Xô ở Châu Âu.
Trước bối cảnh lịch sử có nhiều biến động như thế, Trung Quốc bất
đồng và kịch liệt lên án chủ nghĩa "giáo điều" và chủ nghĩa "xét lại". Mối
quan hệ Xô- Trung ngày càng trở nên lạnh nhạt, căng thẳng đi đến chia rẽ

công khai. Mặt khác lúc này mối quan hệ Mỹ- Trung không có nhiều thay
đổi vẫn là mối quan hệ trong trạng thái căng thẳng đối đầu. Điều này có thể
thấy qua việc Trung Quốc trực tiếp đối đầu với Mỹ trong chiên tranh Triều
Tiên và vấn đề Đài Loan. Nhìn chung quan hệ Mỹ- Trung vẫn là mối quan
hệ bế tắc chưa có sự cải thiện. Vì thế Trung Quốc quyết định chính sách
ngoại giao của riêng mình, khơng cịn nghiêng về bất cứ một cực nào nữa.
Chính sách đó gọi là chính sách ngoại giao “hai con đường”. Chính sách
này thực hiện trong những năm 1959- 1969. Đây là chính sách vừa chống
đế quốc, vừa chống chủ nghĩa “xét lại”.
Nếu trước đây trong những năm 1950- 1960 quan hệ Xô- Trung là mối
quan hệ hữu hảo, Trung Quốc nghiêng hẳn về Liên Xơ thơng qua chính
sách ngoại giao “nhất biên đảo” nhưng đến giai đoạn này thì chính sách đó
15

15


khơng cịn phù hợp nữa. Quan hệ Trung- Xơ xấu đi. Năm 1965 Trung
Quốc chính thức đăng bài báo với nội dung: chủ nghĩa xét lại từ trước đến
nay luôn là trụ cột của XHCN đế quốc, là lực lượng phục tung chủ nghĩa
đế quốc. Vì thế Trung Quốc cho rằng, muốn chống lại chủ nghĩa đế quốc
cũng cần chống lại CN "xét lại”. Và họ chính thức cơng khai chủ trương
chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa "xét lại”(tức Liên Xô ). Với chủ
trương chống lại hai siêu cường cùng một lúc thì các nhà lãnh đạo Trung
Quốc đã nhận định rằng: rất có thể Xơ- Mỹ sẽ hợp tác với nhau kiềm chế
thậm chí gây nguy hiểm cho Trung Quốc. Thậm chí năm 1968, Trung
Quốc cịn coi Liên Xô là kẻ thù lớn nhất của Trung Quốc, sự kiện Chân
Báo Đảo xảy ra vào năm 1969 đã chính thức đẩy quan hệ Xơ- Trung căng
thẳng thêm một bước trở thành cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước.
Sự căng thẳng trong quan hệ Xô- Trung đã gây ra nhiều hậu quả

nghiêm trọng. Liên Xô và Trung Quốc là hai nước lớn trong khối các nước
XHCN- Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng cộng sản Trung Quốc giữ vai trò
to lớn trong phong trào cộng sản quốc tế vì thế mâu thuẫn Xơ- Trung tác
động trước hết và chủ yếu đến các nước XHCN.
Mâu thuẫn trong quan hệ Xơ-Trung dẫn đến sự dao động của các nước
XHCN, nó tạo ra một xu hướng li tâm trong khối, dẫn đến sự suy yếu của
các nước XHCN đã phá vỡ tính thống nhất trong khối, gây chia rẽ trong
các nước XHCN. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc củng cố và mở
rộng phạm vi của khối ra toàn thế giới. Bởi chính bản thân sự rạn nứt này
sẽ gây ra thái độ dè dặt của các nước khi lựa chọn con đường phát triển cho
dân tộc mình;gây tâm lí hoang mang về niềm tin đối với chế độ XHCN và
tính đúng đắn của CN Mác- Lênin.
Mâu thuẫn Xơ- Trung còn là một tổn thât lớn đối với phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc trên thế giới bởi Liên Xơ và Trung Quốc là hai
nước lớn có sự viện trợ tích cực và hiệu quả phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới, nhưng nay hai nước này mâu thuẫn thì sự viện
trợ đó sẽ yếu hẳn đi, cũng có nghĩa là các nước tiến hành Cách mạng giải
phóng dân tộc gặp khó khăn hơn.
16

16


Thực chất giai đoạn này Trung Quốc đang thực hiện đường lối ngoại
giao độc lập, đi giữa hai siêu cường mà khơng ngả về bên nào. Nhưng vơ
hình chung ngoại giao Trung Quốc lại rơi vào tình trạng bị cơ lập. Trong
khi đó ở trong nước, Mao Trạch Đơng thực hiện Đại cách mạng văn hoá
một cách cứng rắn, cực tả gây tổn hại nghiêm trọng đến phát triển kinh tế
và sự ổn định Xã Hội. Để thoát ta khỏi tình trạng khó khăn đó Trung Quốc
phải tăng cường mở rộng hợp tác với các nước thuộc thế giới thứ ba và các

nước Tư bản khác. Ngày 12-11-1946, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại
giao với Pháp. Lý luận "hai vùng trung gian" được Mao Trạch Đông đưa ra
là sự phát triển từ lý luận "vùng đệm" năm 1946. Lý luận này cho rằng
giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xơ cịn tồn tại hai vùng đệm :
Vùng đệm thứ nhất: Á- Phi – Mỹlatinh.
Vùng đệm thứ hai: Châu Âu, Canada, úc, Niudilân và Nhật Bản.
Quan hệ giữa Mỹ và Liên Xơ vừa mang tính hợp tác lại vừa có tính đấu
tranh, tranh nhau vùng đệm giữa. Lý luận đưa ra cho thấy Trung Quốc
không coi Liên Xô là lãnh tụ của các nước XHCN. Các nước mới thành lập
ở Châu á, Châu Phi, Mỹlatinh trở thành khu vực đấu tranh với Mỹ và Liên
Xô để giành độc lập. Các nước Tư bản khác tương đối phát triển cũng
được coi là các quốc gia thuộc vùng đệm. Mục tiêu khi Trung Quốc thực
hiện chính sách này là tập trung vào hợp tác với các nước thuộc thế giới
thứ ba và các nước Tư bản khác nhằm giảm áp lực từ Liên Xô và Mỹ, phá
vỡ thế bị cô lập về ngoại giao. Ngày 12- 11- 64 Trung Quốc thiết lập quan
hệ ngoại giao với Pháp, đây là bước đột phá quan trọng trong quan hệ của
Trung Quốc với các nước Tây Âu, phá vỡ sự cô lập ngoại giao của Mỹ đối
với Trung Quốc. Đối với Nhật bản tuy chưa có mối quan hệ chính thức
nhưng việc nhân dân hai nước tăng cường giao lưu, trao đổi sẽ là cơ sở cho
bình thường hố quan hệ hai nước sau này. Lý luận hai vùng đệm là chính
sách ngoại giao của Trung Quốc trong giai đoạn khó khăn vận dụng lý luận
đấu tranh giai cấp và sách lược trận tuyến thống nhất quan sát xu thế chính
trị thế giới.

17

17


Phải nói rằng vào đầu những năm 1960, Trung Quốc đã vấp phải nhiều

bước đi sai lầm và để lại những hậu quả không nhỏ. Hậu quả của cuộc Đại
Cách mạng văn hoá đã đẩy Trung Quốc tụt hậu xuống mấy chục năm so
với các nước trên thế giới làm cho kinh tế Trung Quốc tụt hậu, đời sống Xã
hội rối ren. Những chiến lược ngoại giao mà Trung Quốc đề ra ra trong
giai đoạn này còn nhiều điều phải xem xét. Việc chọn con đường trung lập
giữa hai cực Xô- Mỹ lúc này là chưa hợp thời cho dù thực lực của Trung
Quốc có mạnh hơn đầu những năm 1950 song nó vẫn khơng thể đạt tới
trình độ của Liên Xô và Mỹ. Hơn nữa bối cảnh Quốc tế cũng không cho
phép Trung Quốc vượt ra khỏi sự khống chế của Mỹ và Liên Xô, việc coi
Mỹ và Liên Xô là kẻ thù lớn của Trung Quốc là một sai lầm có ý nghĩa
chiến lược. Phải chăng Trung Quốc đã đánh giá quá cao sức mạnh của
mình hay do sự cứng rắn trong ý thức hệ, trong tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.
Thực tế đã chứng minh sau khi thực hiện chính sách ngoại giao “hai con
đường” Trung Quốc đã bị Mỹ cô lập ngoại giao. Mâu thuẫn trong quan hệ
Xô- Trung không chỉ ảnh hưởng lớn đến phong trào giải phóng dân tộc và
phe XHCN trên thế giới mà còn tác động trực tiếp tới Trung Quốc. Trung
Quốc hi vọng rằng sau khi Liên Xô suy yếu, Trung Quốc cơng kích Liên
Xơ để tạo ưu thế cho mình nhằm mục tiêu tranh giành ngôi dẫn dắt phe
XHCN từ tay Liên Xô, nhưng kết quả đã không như mong muốn của
Trung Quốc. Trung Quốc không những không nâng cao địa vị Quốc tế của
mình mà cịn đánh mất đi vai trò Xã Hội quốc tế, vai trò của Trung Quốc
giảm dần trên trường quốc tế. Tham vọng của Trung Quốc lúc này rất lớn
nhưng lại không phù hợp với điều kiện thực tế, nhưng cũng phải thừa nhận
rằng ý thức độc lập tự chủ của trung Quốc rất lớn, Trung Quốc ln tìm
cách thốt ra khỏi sự kiềm chế của Liên Xô.
b. QUAN HỆ MỸ–

TRUNG QUỐC (1960-1970)

Quan hệ Mỹ- Trung Quốc từ trước vẫn là mối quan hệ căng thẳng, đối

đầu, cho đến đầu những năm 1960 quan điểm của Mỹ đối với Trung Quốc
đã có những thay đổi, Mỹ khơng cịn kiềm chế, cũng khơng cịn cơ lập
Trung Quốc như trước nữa. Quan hệ Mỹ– Trung cuối những năm 1960 đã

18

18


có những cải thiện đáng kể. Đến những năm 1970, đặc biệt là nhữn năm
1972 khi Nichxơn thăm Trung Quốc và hai bên đã đưa ra “Thông cáo
chung Thượng Hải”- mốc đánh dấu quan hệ Mỹ– Trung đã bước sang giai
đoạn bình thường hố. Giai đoạn này Trung Quốc đã tỏ rõ lập trường là bắt
tay hợp tác với Mỹ để chống lại Liên Xô. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự
thay đổi trong quan hệ Mỹ –Trung và tác động của nó đến trục quan hệ
Liên Xơ-Trung Quốc-Mỹ, cũng như những ảnh hưởng đến phong trào giải
phóng dân tộc và các nước XHCN khác trên thế giới.
Mỹ thay đổi thái độ đối với Trung Quốc là một chuyển biến lớn. Nó
khơng chỉ là sự thay đổi về mặt nhận thức mà đó cịn là sự thay đổi trong
chính sách đối ngoại của Mỹ. Lúc này, Mỹ đã nhận thức rõ hơn về vị thế
của mình trong tương quan Xơ– Mỹ và vai trò của các nước “vùng đệm”
khác tác động vào trục quan hệ cơ bản này, để thực hiện mục tiêu chiến
lược lâu dài là xoá bỏ Liên Xô, tiêu diệt XHCN và một tay thông lĩnh, dẫn
dắt cả thế giới, Mỹ cũng cần phải tìm cho mình hướng đi mới. Cuộc chiến
tranh lạnh chưa kết thúc nhưng dường như nó khơng mang lại kết quả như
Mỹ mong muốn. Ngược lại kinh tế, quân sự của Liên Xô lại phát triển đến
cực thịnh vào đầu những năm 1970, tạo thế cân bằng chiến lược với Mỹ về
quân sự. Vì thế có thể nói “chiến tranh lạnh” đối với Mỹ là một sự thất bại.
Tuy nhiên vào cuối những năm 1950- 1960, quan hệ Xô- Trung ngày càng
căng thẳng. Nó là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt khơng chỉ trong quan hệ

Xơ- Trung mà cịn là biểu hiện sự rạn nứt trong quan hệ phe XHCN, tính
thống nhất và đoàn kết trong khối XHCN đã suy yếu nhiều. Đây là một cơ
hội đối với Mỹ và Mỹ cũng đã triệt để tận dung nó. Nhận thấy khối các
nước XHCN khơng cịn là một khối thống nhất nữa, Kenơdi thực hiện song
song việc duy trì hồ dịu Xơ- Mỹ với việc cải thiện quan hệ với các nước
XHCN thông qua âm mưu diễn biến hồ bình và các kế hoạch kinh tế
khác. Mỹ thúc đẩy sự nảy nở xu hướng “tự do”, thốt khỏi ảnh hưởng của
Liên Xơ. Vì vậy Mỹ muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc một mặt để
tăng cường sức mạnh đồng minh cho mình, một mặt khác khoét sâu hơn
nữa sự rạn nứt trong quan hệ Xô- Trung, đẩy mạnh thêm một bước cô lập
và đi tới tiêu diệt Liên Xơ cũng như góp phần làm suy yếu toàn bộ hệ
19

19


thống XHCN trên thế giới. Thực tế sự tan rã của Liên Xơ và các nước
Đơng Âu sau này có sự đóng góp đáng kể của chiến lược diễn biến hồ
bình của Mỹ. Mỹ đã rất biết cách lợi dụng mâu thuẫn của đối phương để
làm lợi cho mình.
Cịn đối với Trung Quốc. Trong đầu những năm 1960 Trung Quốc chọn
con đường trung lập tách ra khỏi Liên Xô và Mỹ thơng qua chính sách
ngoại giao “Hai con đường” đã làm Trung Quốc gặp nhiều khó khăn. Mối
quan hệ Xơ- Trung ngày càng đẩy lên căng thẳng. Khi đó các nhà lãnh đạo
Trung Quốc nhận định rằng Liên Xô là nước láng giềng với Trung Quốc,
những mâu thuẫn trong quan hệ Xơ- Trung rất có thể sẽ làm cho Liên Xô
đem quân đánh Trung Quốc ở vùng biên giới gây tình trạng bất ổn định về
anh ninh quốc phịng. Vì thế Trung Quốc cho rằng đối với Trung Quốc thì
Liên Xơ là mối đe doạ cịn nghiêm trọng hơn so với Mỹ, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc còn nhận định sẽ xảy ra một “cuộc chiến tranh không tránh

khỏi”, Mao Trạch Đơng cịn đề ra khẩu hiệu “chuẩn bị cho chiến tranh” để
đề phịng sự bùng nổ chiến tranh Xơ- Trung. Từ những suy nghĩ đó, Trung
Quốc thấy rằng để thốt ra khỏi sự cơ lập trên trường quốc tế, thốt khỏi
hai trận tuyến, có khả năng đối phó với chiến tranh nếu nó xảy ra thì Trung
Quốc chỉ cịn một con đường duy nhất là cải thiện quan hệ với Mỹ, dựa
vào Mỹ để chống lại sự đe doạ của Liên Xơ. Trung Quốc đã thực hiện
chính sách ngoại giao: “ Một trận tuyến thống nhất”, liên minh với Mỹ,
chống lại Liên Xơ là nội dung chính của chính sách này.
Xuất phát từ sự thay đổi trong tư duy và mưu lược của cả hai nước mà
từ năm 1969 quan hệ Mỹ– Trung đã có những thay đổi đáng kể. Ngày
9/7/1971 Kissinger bí mật đến thăm Trung Quốc, sự kiện này đánh dấu
việc phá vỡ bức tường ngăn cách giữa Trung Quốc và Mỹ. Tiếp đó tháng
2/1972 tổng thống Mỹ Nichxơn đi thăm Trung Quốc, hai bên ra Thông cáo
chung Thượng Hải– sự kiện đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Mỹ–
Trung. Ngày 16/12/1978, Trung- Mỹ lại đưa ra thông cáo chung về thiết
lập quan hệ ngoại giao, nội dung chủ yếu của nó là: Mỹ thừa nhận chính
phủ của nước CHND Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất; chấp

20

20


nhận 3 nguyên tắc trong thiết lập quan hệ ngoại giao mà Trung Quốc đưa
ra; xoá bỏ các điều ước … Để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết giữa hai
nước Mỹ- Trung, tháng 1/1979 Đặng Tiểu Bình chính thức thăm Mỹ. Đây
là lần đầu tiên sau khi thành lập nước một nhà lãnh đạo của Trung Quốc
viếng thăm Mỹ.
Việc bình thường hố trong quan hệ Mỹ– Trung gần như một lời tuyên
chiến với Liên Xô, chuyển quan hệ Xô- Trung từ bạn sang thù. Liên Xô

bước vào cuối thập niên 70 nền kinh tế dần suy yếu, địa vị quốc tế của
Liên Xơ ngày càng giảm sút, đó là những dấu hiệu đầu tiên cho một q
trình suy thối và tan rã từ góc độ một nhà nước của Liên Xô vào đầu thập
niên 90. Quan hệ Xô- Trung căng thẳng, Trung Quốc bắt tay với Mỹ chống
lại Liên Xô là một sự kiện lớn làm suy yếu cả hệ thống các nước XHCN
mặc dù Liên Xô vẵn rất cố gắng và tích cực giúp đỡ các nước XHCN khác
với vai trò của một người anh cả, của đầu tàu phe XHCN song do khó khăn
trong nước và Quốc tế mà Liên Xô phải đối mặt nên sự giúp đỡ của Liên
Xơ cũng hạn chế đi nhiều. Cịn đối với Trung Quốc do liên kết với Mỹ nên
trong giai đoại này Trung Quốc đã thay đổi chính sách ngoại giao với các
nước XHCN và phong trào giải phóng dân tộc, Trung Quốc không những
những không giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc mà cịn có hành động
ủng hộ một số lực lựơng phản động, ví như cuộc chiến tranh của nhân dân
Việt Nam chống Pháp và những năm đầu chống Mỹ chúng ta đã nhận được
sự giúp đỡ tích cực từ phía Trung Quốc. Nhưng sau khi chuyển hướng
sang thân Mỹ Trung Quốc đẫ bỏ rơi phong trào giải phóng dân tộc của các
nước thuộc địa và phụ thuộc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân
Việt Nam giai đoạn cuối cùng cũng không nhận được sự viện trợ từ Trung
Quốc. Mặt khác Trung Quốc còn ủng hộ cho lực lượng phản động Pônpốt
Iênxari ở Canpuchia gây chiến tranh biên giới Tây Nam Việt Nam năm
1978. Sau đó Trung Quốc còn trực tiếp đưa quân sang gây chiến ở biên
giới phía Bắc Việt Nam. Cuộc chiến này đã dẫn đến sự căng thẳng trong
quan hệ Việt- Trung, tình trạng căng thẳng đó cịn kéo dài đến năm 1991,
Việt Nam- Trung Quốc mới bắt đầu bình thường hố trở lại. Còn quan hệ

21

21



với Liên Xơ thì cũng phải đến những năm đầu thập niên 80 mới từng bước
được khôi phục, cải thiện và cân bằng trở lại.
Thời kì này bên cạnh chính sách “một trận tuyến” thì vào tháng 21974, Mao Trạch Đơng đề ra lí luận phân chia ba thế giới. Thế giới thứ
nhất là Mỹ và Liên Xô. Thế giới thứ hai là các nước phát triển TBCN. Thế
giới thứ ba là các nước Á- Phi- Mỹ Latinh.
Trong đó, các nước thuộc thế giới thứ nhất là đối tượng chính bị phản
đối trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Đối tượng thứ hai là đối
tượng có thể dựa vào, tranh thủ được. Đối tượng thứ ba là đối tượng có thể
tranh thủ đồn kết trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc.
Học thuyết ba thế giới có một sự quan sát mang tư tưởng chỉ đạo chiến
lược, là một lí luận mang tính tồn diện. Nó khơng chỉ cho thấy cách nhìn
về xu thế chính trị quốc tế của Trung Quốc, mà còn đưa ra những nguyên
tắc, sách lược toàn diện, hệ thống về ảnh hưởng như thế nào đến chiến
lược ngoại giao. Nó khơng chỉ đơn thuần là lí luận mà cịn là chính sách và
phương pháp cho hoạt động ngoại giao. Lí luận ba thế giới đã tổng kết và
chỉ đạo chính sách ngoại giao của Trung Quốc bao gồm :
− Chống Mỹ và Liên Xô: Sau những năm 1970, chống Liên Xô là

nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu.
− Tích cực phát triển quan hệ với các nước thuộc thế giới thứ ba,

đặc biệt là với các nước có xung đột với Mỹ và Liên Xơ.
− Đồn kết, tranh thủ, lợi dụng các nước thuộc thế giới thứ hai,

thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước này.
Chính sách ủng hộ các nước thuộc thế giới thứ ba là một chính sách
ngoại giao quan trọng của Trung Quốc. Nó giúp Trung Quốc tranh thủ sự
ủng hộ của các nước này để củng cố địa vị quốc tế của mình, giúp Trung
Quốc giảm áp lực từ Liên Xơ và Mỹ, vượt qua khó khăn trong giai đoạn
quan hệ Xô- Trung căng thẳng, Trung Quốc bị cô lập trên thế giới.


22

22


C. KẾT LUẬN
Mối quan hệ Liên Xô- Trung Quốc- Mỹ trong những năm 1950- 1970
là một giai đoạn phức tạp, nhạy cảm trong việc lựa chọn chiến lược và sách
lược đối ngoại. Sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời với hàng loạt những
khó khăn và thách thức, nền kinh tế suy sụp. lạc hậu; quốc phòng yếu kém;
địa vị chính trị thấp; chịu thái độ thù đich của Mỹ, nhưng Trung Quốc là
một nước có ý thức dân tộc sâu sắc luôn luôn muốn vươn lên để tự khẳng
định mình và khơng muốn chịu sự khống chế, áp đặt từ bên ngồi. Trung
Quốc cũng là một nước có tham vọng lớn, Mao Trạch Đơng đã từng nói :
"khơng thể có chuyện sau vài chục năm chúng ta vẫn khơng thể trở thành
một nước lớn nhất thế giới …Trung Quốc khơng những phải trở thành
trung tâm chính trị của thế giới mà còn trở thành trung tâm quân sự và kĩ
thuật nữa”.
Tham vọng đó đã thấm sâu vào hầu hết tư tưởng của các nhà lãnh đạo
Trung Quốc, nó ảnh hưởng đến những quyết sách ngoại giao của Trung
Quốc. Sở dĩ Trung Quốc sau khi thành lập nước buộc phải dựa vào Liên
Xơ vì Trung Quốc tự nhận thấy khả năng của mình chưa đủ sức để vươn
lên cạnh tranh với Liên Xơ và Mỹ. Nhưng trong suốt q trình hợp tác hữu
hảo Xơ- Trung đó (1950- 1960), Trung Quốc vẫn luôn tỏ rõ thái độ độc lập
tự chủ, luôn tìm cách hạn chế sự khống chế và chi phối của Liên Xơ. Cịn
Liên Xơ coi Trung Quốc là một đồng minh quan trọng để tăng cường sức
mạnh cho Liên Xô và cho khối các nước XHCN. Nhưng Liên Xô cũng
ln tỏ rõ ưu thế nước lớn của mình. Thơng qua các kế hoạch viện trợ giúp
đỡ Trung Quốc, Liên Xơ một mặt cịn nhằm khống chế Trung Quốc trong

sự kiểm toả của mình.
Mặt khác trong bối cảnh quốc tế mà sự đối đầu trực diện, gay gắt giữa
Liên Xô- Mỹ mà thực chất là mâu thuẫn giữa hai ý thức hệ xã hội đó là
TBCN và XHCN thì Trung Quốc khơng thể tự mình đứng ngồi dịng
được. Mỹ trong suốt những năm 1950 đến cuối những năm 1960 luôn coi
Trung Quốc là kẻ thù thứ hai sau Liên Xô, quan hệ Mỹ- Trung là quan hệ
căng thẳng kéo dài.
23

23


Bước sang những năm 1960- 1970, Trung Quốc đã thể hiện tham vọng
của mình. Đối với Trung Quốc thì quyền lợi dân tộc, quyền lợi quốc gia
luôn được đặt lên hàng đầu. Chính sách thân Mỹ chống Xơ cũng khơng
nằm ngồi ngun tắc đó.
Nhìn lại cả giai đoạn hơn 20 năm, những gì mà Trung Quốc đã thực
hiện trong chính sách ngoại giao của mình đã cho thấy Trung Quốc là một
dân tộc khá đặc biệt có khả năng thích ứng nhanh, luôn sáng tạo và độc lập
khi đưa ra những quyết sách của mình. Tất nhiên khơng phải quyết sách
nào cũng đúng, mọi thứ đều có tính hai mặt của nó. Đầu những năm 1960,
Trung Quốc đã thực hiện chính sách “hai con đường” làm cho Trung Quốc
bị cơ lập trên thế giới, liền một lúc phải đối phó với hai siêu cường là Liên
Xơ và Mỹ. Chính sách ấy khơng thể coi là đúng đắn và hồn hảo, song
chính trong lúc khó khăn đó người Trung Quốc lại tìm ra cách giải quyết
của riêng mình là đánh giá đúng vai trị, vị trí của các nước thuộc thế giới
ba trong cuộc đối đầu Xơ- Mỹ này, từ đó Trung Quốc dựa vào các nước
này từng bước xoá bỏ thế cô lập, nâng cao địa vị quốc tế của mình.
Trung Quốc trong mối quan hệ với Liên Xơ và với Mỹ luôn là những
mối quan hệ phức tạp và nhiều biến động. Trung Quốc khi đứng về phe

Liên Xô, khi trung lập, khi lại liên kết với Mỹ chống Liên Xô, tranh thủ sự
ủng hộ của các nước thuộc thế giới 3, từng bước thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước tư bản Tây Âu. Nhưng cho dù có đi theo con đường nào
đi nữa thì hai nhân tố tiên quyết ảnh hưởng đến mọi quyết sách ngoại giao
của Trung Quốc chính là lợi ich quốc gia dân tộc và vấn đề an ninh quốc
phịng.
Ngày nay nhìn lại mối quan hệ Liên Xô- Trung Quốc- Mỹ những năm
1950- 1970, ta vẫn thấy được giá trị lâu dài của nó. Ở đó ngoại giao cũng
là một mặt trận ln cần đến sự nhạy cảm, sáng tạo, mềm dẻo có nguyên
tắc và biết bảo vệ quyền lợi của quốc gia dân tộc mình, khơng ngừng tổng
kết và tích luỹ kinh nghiệm. Những bài học ấy không chỉ giành cho Trung
Quốc mà ngay cả Việt Nam và các nước khác cũng phải học tập, rút kinh
nghiệm từ thực tiễn hoạt động ngoại giao của nước mình và các nước bạn
24

24


để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ ngoại giao trong chiến lược phát triển
toàn diện đất nước.

25

25


×