Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Vận động hành lang trong quan hệ ngoại giao của Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

Phạm Thị Kim Dung

VẬN ĐỘNG HÀNH LANG
TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA MỸ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ

TP.HCM-2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------------

Phạm Thị Kim Dung

VẬN ĐỘNG HÀNH LANG
TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA MỸ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 60.31.40

PGS.TS. NGUYỄN THÁI YÊN HƯƠNG

TP.HCM-2013



MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................... 3
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ 5
LỜI NĨI ĐẦU ............................................................................................................... 6
Chương 1: Lịch sử nhóm lợi ích và hoạt động vận động hành lang ở Hoa Kỳ ..... 14
1.1.Nhận thức chung về nhóm lợi ích và vận động hành lang ...................................... 14
1.1.1.Khái niệm vận động hành lang ............................................................................ 14
1.1.2.Khái niệm nhóm lợi ích ........................................................................................ 17
1.1.3.Hồn cảnh ra đời của vận động hành lang và các nhân tố đưa đến sự ra đời của
vận động hành lang ....................................................................................................... 18
1.2.Sự hình thành và phát triển của vận động hành lang tại Hoa Kỳ............................ 24
Chương 2: Vai trò của vận động hành lang trong quan hệ ngoại giao của Hoa
Kỳ .................................................................................................................................. 33
2.1.Vai trò của vận động hành lang kinh tế trong chính sách đơi ngoại Hoa Kỳ ......... 34
2.1.1.Vai trò của vận động hành lang trong việc Mỹ cấp PNTR cho Việt Nam .......... 35
2.1.2.Vai trò của vận động hành lang trong việc Mỹ cấp PNTR cho Nga ................... 41
2.2.Vai trò của vận động hành lang của các nhóm sắc tộc trong chính sách đối ngoại
Hoa Kỳ .......................................................................................................................... 46
2.2.1.Vài nét về người Do Thái ở Mỹ ........................................................................... 47
2.2.2.Nhóm sắc tộc Do Thái tác động lên chính sách Trung Đơng của Hoa Kỳ .......... 49
2.3.Vai trị của các nhóm cộng đồng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ............. 55
Chương 3: Vận động hành lang trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ ..................... 63
3.1.Vài nét về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ ................................................................. 63
3.1.1. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trước bình thường hóa ......................................... 63
3.1.2.Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau bình thường hóa ............................................. 65
3.2.Các nhóm lợi ích Mỹ có liên quan đến Việt Nam................................................... 67

1



3.2.1.Những nhóm lợi ích có tác động tích cực ............................................................ 67
3.2.2.Những nhóm lợi ích có tác động tiêu cực ............................................................ 73
3.3.Khuyến nghị cho Việt Nam .................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 88

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AARP

The American Association of Retired People
Hiệp hội những người hưu trí Mỹ

AIPAC

American-Israeli Public Affair Committee
Ủy ban công vụ Mỹ - Do Thái

AFL

American Federation of Labor
Liên đoàn lao động Mỹ

AFL-CIO

The American Federation of Labor and Congress of Industrial
Organizations

Tổ chức liên đoàn lao động Mỹ - Các tổ chức công nghiệp

ASDA

American Seafood Distributors Associations
Hiệp hội các nhà phân phối thuỷ sản Hoa Kỳ

BTA

Bilateral Trade Agreement
Hiệp định thương mại song phương

CITAC

The Consuming Industries Trade Action Coalition
Liên đoàn hành động vì ngành cơng nghiệp tiêu dùng

DOC

United States Department of Commerce
Bộ thương mại Mỹ

FARA

The Foreign Agents Registration Act
Luật đăng kí thể nhân nước ngồi

HRW

Human Rights Watch

Nhóm quan sát viên về quyền Con người

LULAC

League of United Latin American Citizens
Liên hiệp các dân tộc Mỹ La Tinh

MFN

Most Favoured Nation
Quy chế tối huệ quốc

NAM

National Association of Manufacturer
Hiệp hội các nhà sản xuất quốc gia

3


NELA

National Electric Light Association
Hiệp hội đèn điện quốc gia

NTR

Normal trade relations
Quy chế quan hệ thương mại bình thường


PNTR

Permanent Normal Trade Relations
Quy chế quan hệ thương mại tình thường vĩnh viễn

SSA

Southern Shrimp Alliance
Liên minh tôm miền nam Mỹ

STAC

The Shrimp Trade Action Committee
Uỷ ban thương mại tơm Mỹ

STF

Shrimp Task Force
Nhóm đặc trách tôm

USCC

The US Chamber of Commerce
Viện thương mại Mỹ

VASEP

The Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam


WINEP

Washington Institute for Near East Policy
Học viện vì vấn đề Trung Đơng Washington

WTO

The World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới

4


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoa Kỳ là một cường quốc số một thế giới, vì vậy việc thiết lập, duy
trì và phát triển một mối quan hệ ngoại giao tốt với Hoa Kỳ là điều hết sức
quan trọng. Làm ăn hay quan hệ với Hoa Kỳ đều phải biết vận động hành
lang. Việt Nam đã từng học được những bài học quan trọng về việc để lỡ
nhiều cơ hội với Hoa Kỳ, hay bị thua thiệt trong mối quan hệ kinh tế với
cường quốc này, và một trong những bài học lớn nhất đó là Việt Nam chưa
biết cách vận động hành lang cho hiệu quả.
Một trong những công thần lập quốc của nước Mỹ là ông James
Madison (sau này trở thành Tổng thống thứ tư của Mỹ vào năm 1809) là
người phổ biến thuyết “bàn tay vơ hình” trong chính trường cho rằ ng chính
trường cũng như thương trường, nếu thông tin được lưu hành tốt thì cung sẽ
gặp cầu, chính trường sẽ ổn định, vì Nhà nước có đủ thơng tin (và u cầu,
áp lực từ dân) để biết và cung được cái gì dân cầu[19].
Khi đã có các quan hệ chính trị, thương mại, kinh tế, xã hội là tất sẽ
có nhiều vấn đề phức tạp, xung đột do những tranh chấp quyền lợi, hoặc từ

những cảm nhận sai lệch, đưa đế n những s ự hiểu lầm khó tránh, đặc biệt là
khi hai bên có sự khác nhau trong văn hóa xã hội, chính trị, cách làm ăn . Vì
vâ ̣y, viê ̣c đưa thông tin chinh xác đế n đố i phương là điề u vô cùng cầ n thiế t .
́
Nhiều người thường thấy người Mỹ ln nói theo luật, sống theo luật, nên họ
cứ ngỡ rằng làm việc với người Mỹ chỉ cần nói lý là đủ. Nhưng ngồi lý ra
vẫn còn những yếu tố quan trọng khác, một trong những yếu tố đó là nghệ
thuật nói lý như thế nào cho hiệu quả, có tác động tốt và chuyển tải thơng tin
chính xác để các bên hiểu nhau hơn, để các bên tìm thấy những lợi ích
chung.

6


Là một học viên chuyên ngành quan hệ quốc tế, tác giả thiết nghĩ việc
nghiên cứu chuyên đề “Vận động hành lang trong quan hệ ngoại giao c

ủa

Mỹ” sẽ góp phần làm cho mọi người trong đó có bản thân người viết nhận
thức sâu sắc hơn về bản chất của hoạt động vận động hành lang nói chung và
vai trò của ho ạt động này trong quan hê ̣ c ủa Hoa Kỳ . Bên cạnh đó, luận văn
cịn có giá trị thực tiễn khi đề cập và nghiên cứu quan hệ Việt-Mỹ dưới góc
độ vận động hành lang. Qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá, phân tích
sự tác động của yếu tố này trong quan hệ hai bên. Từ đó tim ra những gi ải
̀
pháp nhằm giúp cho hoạt động vận động hành lang của Việt Nam hiệu quả
hơn nhất là trong giai đoạn quan hệ Việt-Mỹ đang ngày một phát triển.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Dựa trên các khái niệm, lịch sử ra đời, các nhân tố tác động cho sự ra

đời của hoạt động vận động hành lang và các nhóm lợi ích để phản ánh một
cách khách quan, khoa học, chân thực về hoạt động vận động hành lang ở
Hoa Kỳ.
Nghiên cứu, phân tích sự tác động của hoạt động vận động hành
lang lên chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ theo hướng xác định vai trò
của hoạt động vận động hành lang kinh tế, vận động của các nhóm sắc
tộc và vận động tư tưởng lên chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Bên
cạnh đó nghiên cứu các “case studies” để làm rõ thêm cho vai trị của
các hoạt động vận động này.
Thơng qua việc tìm hiểu về vai trị của vận động hành lang trong quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, để đưa ra một số kiến nghị nhằm giúp cho hoạt động
vận động hành lang của Việt Nam trở nên hiệu quả và chuyên nghiệp hơn.
Và đây cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của luận văn.

7


3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề Vai trị của vận động
hành lang trong hoạt động ngoại giao của Hoa Kỳ ở cả trong và ngồi nước.
Ở trong nước, có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu như: Đỗ Lộc
Diệp(1999), Hoa Kỳ: Tiến trình văn hóa chính trị, Nxb Khoa Học Xã Hội,
Hà Nội; Vũ Dương Huân(2002), Hệ thống chính trị Mỹ: cơ cấu tác động đối
với quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, Nxb.Chính Trị Quốc Gia, Hà
Nội; Trầ n Bách Hiếu , Hoạt động vận động hành lang trong q trình xây
dựng chính sách và pháp luật ở Mĩ, Tạp chí châu Mĩ ngày nay, số 2 tháng
2/2009; Phạm Thị Thu Huyền, Vài nét về hoạt động vận động hành lang ở
Mĩ. Nghiên cứu quốc tế, năm 2011. Các cơng trình này đều phân tích đánh
giá Vai trò của vận động hành lang trong quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ trên
nhiều lĩnh vực.

Cụ thể, trong các nghiên cứu của mình, Đỗ Lộc Diệp (chủ biên) và Vũ
Dương Huân (chủ biên) đã nhắc tới vận động hành lang và các nhóm lợi ích
như là một phần khơng thể tách rời trong hệ thống chính trị Mỹ. Thêm vào
đó, hai tác giả này cũng nghiên cứu đến các tác động của hoạt động này lên
thể chế Hoa Kỳ nói chung và chính sách đối ngoại nói riêng. Hai tác phẩm có
khái quát các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của các nhóm
lợi ích, nhưng không đề cập đến các giai đoạn phát triển của vận động hành
lang cũng như của nhóm lợi ích một cách cụ thể trong tiến trình lịch sử.
Phạm Thị Thu Huyền trong bài viết Vài nét về hoạt động vận động
hành lang ở Mỹ, lại mô tả một cách khái quát những lý thuyết cơ bản về hoạt
động vận động hành lang ở Hoa Kỳ. Trong đó Phạm Thị Thu Huyền nêu lên
khái niệm vận động hành lang, hoạt động của các nhóm lợi ích ở Mỹ, các
quy định pháp lý về hoạt động vận động hành lang và thực tiễn thi hành các
quy định này. Tuy vậy, Phạm Thị Thu Huyền trong bài viết của mình lại

8


chưa làm nổi bật được các yếu tố tác động đến hoạt động vận động hành lang
cũng như vai trò của vận động hành lang trong quan hệ ngoại giao của Mỹ.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, Lê Hồng Hiệp với bài viết Viê ̣t
Nam cầ n thận trọng với ảnh hưởng của các nhóm lợi ích

đã có những so

sánh và đánh giá về thực trạng vận động hành lang ở Việt Nam. Trong đó Lê
Hồng Hiệp nhận định rằng, dù chưa được thừa nhận một cách chính thức
nhưng Việt Nam vẫn chịu những ảnh hưởng nhất định của các nhóm lợi ích.
Những ảnh hưởng này đơi khi mang tính tiêu cực cho cộng đồng, do đó, Lê
Hồng Hiệp đưa ra những cảnh báo về vấn đề này. Đồng thời đề ra một số

giải pháp để hạn chế những ảnh hưởng xấu trước khi luật vận động hành lang
chính thức ra đời. Lê Hồng Hiệp cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trị quan trọng
của Luật vận động hành lang.
Ngồi ra, rất nhiều luận văn cao học cũng chọn viết về đầ tài này mà
điển hình như: Nguyễn Hồng Hiệp, Cộng đồng người Việt tại Mỹ và ảnh
hưởng đối với quan hệ Việt Nam – Mỹ từ năm 1995 đến nay, Luận Văn Thạc
Sĩ Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, 2010; Vũ Thị Tú Quyên, Tác động của
vận động hanh lang đến chinh sách của Mỹ đối với ISRAEL trong thập kỷ 90
của thế kỷ XX, Luận Văn Thạc Sĩ ĐH KHXHNV HN.
Ở ngoài nước, đề tài Vận động hành lang trong quan hệ ngoại giao
của Hoa Kỳ cũng được nghiên cứu với nhiều cơng trình như Kevin W.
Hula(2007), Lobbying Together: Interest Group Coalitions in Legislative
Politics, Georgetown University Press, Washington DC. Đây là tác phẩm
được hình thành với mục đích giúp đỡ những cá nhân, tập thể chưa có một
tầm hiểu biết nhất định với hoạt động vận động hành lang và đang có ý định
tham gia vào hoạt động này. Vì vậy, tác giả Kevin W. Hula chú trọng đến
việc đưa ra các bí quyết vận động hành lang hữu ích cho mọi người,
bao gồm cả những người mới bắt đầu và những chuyên gia vận động
chuyên nghiệp.

9


Robert Salisbury(1969), An Exchange Theory of interest groups,
Midwest Journal of Political Science, Vol. 13, No.1, 1-32; David B.
Truman(1951), The Governmental Process: Political Interests and Public
Opinion, Publish New York, New York. David B. Truman là một trong
những học giả đầu tiên nghiên cứu về vận động hành lang và đưa ra những
khái niệm sơ khai nhất cho hoạt động này. Trong tác phẩm của mình, David
B. Truman đã đề cập đến lịch sử hình thành, các lý thuyết và các yếu tố tác

động đến hoạt động vận động hành lang cũng như nhóm lợi ích. David B.
Truman đã giải thích sự hình thành của các nhóm lợi ích dựa trên học thuyết
phá rối(Disturbance Theory). Tiếp tục kế thừa và phát huy những nghiên cứu
của David B. Truman, Robert Salisbury cũng đã đưa ra những nghiên cứu
riêng của mình về vận động hành lang. Trong tác phẩm của mình, Robert
Salisbury nhấn mạnh đến vai trò của các doanh nghiệp và các doanh nhân sự
hình thành của các nhóm lợi ích. Ơng cho rằng các nhóm lợi ích ra đời do sự
mất cân bằng hoặc khan hiếm về lợi tức.
Lionel Zetter(2011), Lobbying: the art of political persuasion,
Harriman House, Hampshire.… Cơng trình nghiên cứu này tập trung nhấn
mạnh vào các vấn đề lịch sử hình thành, lý thuyết và thực tiễn của hoạt
động vận động hành lang trên thế giới nói chung, đặc biệt là hoạt động
vận động hành lang ở Anh Quốc và Hoa Kỳ nói riêng. Tác giả đưa ra
những nhận định riêng, những ý kiến cá nhân, những lời khuyên hữu
ích cho từng bước vận động. Tác giả cũng đưa ra bài học kinh nghiệm
từ một số trường hợp vận động hành lang cụ thể.
Tất cả những cơng trình nghiên cứu trên đều đề cập đến nhiều khía
cạnh của đề tài Vâ ̣n đô ̣ng hành lang trong qua n hê ̣ ngoa ̣i giao Hoa Kỳ , phân
tích một cách hệ thống và tồn diện vai trị của vận động hành lang ở Hoa
Kỳ.

10


Trên cơ sở kế thừa những thành quả của những người đi trước, từ đó
bổ sung những thiếu sót và khắc phục những vấp váp trong các cơng trình đã
hồn thành, tác giả luận văn quyết định chọn đề tài Vai trò của vận động
hành lang trong hoạt động ngoại giao của Hoa Kỳ làm luận văn tốt nghiệp
chương trình thạc sĩ Quan hệ quốc tế sau hơn hai năm học tập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng cụ thể của luận văn là hoạt động vận động của các nhóm
lợi ích trong q trình triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Về không gian nghiên cứu: luận văn chủ yếu tập trung vào nghiên
cứu hoạt động vận động hành lang ở Hoa Kỳ, hoạt động của các nhóm lợi ích
của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong qua trình nghiên cứu, có một số vấn đề được
mở rộng ra bình diện khu vực và thế giới và liên quan tới Việt Nam. Trong
luận văn có sử dụng nhiều tên gọi khác nhau của Hoa Kỳ như nước Mỹ, Mỹ,
Hoa Kỳ.
Về thời gian nghiên cứu: Vì đề tài liên quan đến hoạt động vận
động hành lang của Hoa Kỳ qua các giai đoạn lịch sử, nên giới hạn của
đề tài tập trung vào giai đoạn từ khi nước Mỹ ra đời cho đến nay.
Là một luận văn thiên về lĩnh vực quan hệ quốc tế, nhưng để
luận văn được hoàn thiện, tác giả cũng mở rộng nghiên cứu sang các
lĩnh vực khác nữa như: lĩnh vực văn hóa, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực
kinh tế, lĩnh vực lịch sử, lĩnh vực nhân học…
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở cho việc nghiên cứu vai trò của vận
động hành lang trong quan hệ ngoại ngoại của Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, chủ
nghĩa tự do cũng được lựa chọn làm phương pháp luận chủ yếu và xuyên
suốt trong quá trình nghiên cứu. Đây là một phương pháp luận phù hợp cho
11


đề tài luận văn vì những đặc tính cơ bản của nó. Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh
đến vai trị của pháp lý, dân chủ, các thể chế và kinh tế trong quan hệ quốc tế
cũng như trong việc xây dựng một xã hội hịa bình, ổn định.
Về phương pháp nghiên cứu, vì luận văn là đề tài chuyên về quan hệ
quốc tế, nên phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, phương pháp quy nạp
sẽ được lựa chọn. Với phương pháp này, các vấn đề sẽ được phân tích,

chứng minh và cuối cùng đưa ra những kết luận chung nhất. Thêm vào đó,
luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu của các ngành, các lĩnh
vực khác như văn hóa, chính trị, nhân học…
Mặt khác, để nghiên cứu có tính thuyết phục, phương pháp tiếp cận
dựa trên “case study” cũng được lựa chọn. Thông qua các bài học thực tế,
các trường hợp cụ thể xảy ra trong lịch sử để chứng minh cho vai trò của vận
động hành lang lên quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ.
6. Kế t cấ u của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba
chương:
Chương 1. Lịch sử nhóm lợi ích và hoạt động vận động hành lang ở
Hoa Kỳ. Chương này tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan, đồng
thời trình bày các yếu tốc tác động đến sự ra đời của hoạt động vận
động hành lang, của các nhóm lợi ích và lịch sử phát triển của hoạt
động vận động hành lang ở Hoa Kỳ.
Chương 2. Vai trò của vận động hành lang trong quan hệ ngoại giao
Hoa Kỳ. Đây là chương trọng tâm của luận văn. Chương này tổng hợp,
phân tích, đánh giá sự tác động của vận động hành lang trong quan hệ
ngoại giao của Hoa Kỳ. Từ đó nhận rõ được những hinhg thức vận động chủ
yếu nào sẽ có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Và thông
qua các trường hợp cụ thể trong lịch sử để rút ra những bài học, những kinh
12


nghiệm quý báu cho hoạt động vận động hành lang.
Chương 3. Vận động hành lang trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: đặc
điểm và triển vọng. Chương này đề cập đến vai trị tích cực và cả tiêu cực
của các nhóm lợi ích của Hoa Kỳ có liên quan đến Việt Nam. Thông qua
thực trạng của hoạt động vận động hành lang trên nước Việt Nam hiện này
để đưa ra một số kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển tích cực, hợp

pháp, chuyên nghiệp cho hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam
trên nước Hoa Kỳ cũng như hoạt động vận động hành lang của các
nhóm lợi ích tại chính Việt Nam.
Do các yếu tố chủ quan và khách quan từ sự thiếu thông tin, thời gian
và khả năng của cá nhân tác giả…nên luận văn có những hạn chế, sai sót dù
ít dù nhiều. Tác giả mong nhận được sự góp ý chân thành, thẳng thắn từ thầy
cơ, bạn bè để luận văn được hồn thiện hơn.

13


Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NHĨM LỢI ÍCH VÀ HOẠT ĐỘNG
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG Ở HOA KỲ
Ở Việt Nam vẫn tồn tại những quan điểm sai lầm về vận động hành
lang và nhóm lợi ích. Vì vậy, chương I của luận văn sẽ trình bày về những
khái niệm cơ bản về vận động hành lang, về nhóm lợi ích. Để hiểu rõ thêm
về những khái niệm này việc tìm hiểu về lịch sử hình thành, các nhân tố tác
động đến vận động hành lang và nhóm lợi ích, cũng như thực trạng các vấn
đề này ở Mỹ cũng được đề cập đến.
1.1.

Nhận thức chung về nhóm lợi ích và vận động hành lang

1.1.1. Khái niệm vận động hành lang
Vận động hành lang (lobby) theo tiếng Anh, là hành lang rộng tại
nhà Quốc hội, là nơi chờ đợi trong tiền sảnh của các khách sạn hay tồ
nhà lớn. Trong chính trị học, lobby được sử dụng với ý nghĩa là “vận động
người có chức, có quyền nhằm đạt được mục đích về kinh tế, chính trị, xã
hội...”[8, tr.441]
Người ta sử dụng từ “lobby” cho hoạt động vận động hành lang vì đây

là địa điểm mà hoạt động này diễn ra đầu tiên trong lịch sử, đó là hành
lang của Nghị viện Anh quốc, nơi mà trong thời gian nghỉ giải lao, các
nghị sĩ thường trao đổi với đồng nghiệp hoặc với bất kỳ người nào để bổ
sung thông tin về vấn đề đang được thảo luận hoặc quyết định tại Nghị
viện.[1, tr.1]
Từ khi ra đời đến nay, khái niệm vận động hành lang chung nhất, chính xác
nhất vẫn chưa được xác nhận. Vì vậy, trên thế giới có rất nhiều cách định
nghĩa vận động hành lang.
Vận động hành lang là thuyết phục người được vận động ban hành
chính sách theo ý muốn của người vận động. Vấn đề cần vận động có thể là
một dự luật hoặc đơn giản chỉ để yêu cầu nghị sĩ tiếp xúc thường xuyên
14


hơn với một nhóm cử tri nào đó. Nói một cách khái quát thì vận động hành
lang là đưa ra chính kiến của một nhóm lợi ích đối với một chính sách của
Nhà nước và tác động để biến đổi chính sách đó theo nhu cầu của nhóm lợi
ích.[23]
Định nghĩa lâu đời nhất về vận động hành lang được cho là của
Milbrath, theo Milbrath “vận động hành lang thực chất là một tiến trình trao
đổi thơng tin. Vì thơng tin là cách thức duy nhất để gây ảnh hưởng hoặc làm
thay đổi một nhận thức.”[48, p.2]
Theo Ann Sullivan, chuyên viên vận động hành lang ở Washington,
vận động hàng lang là vận động giùm cho người khác về một vấn đề mà
người đó khơng hiểu rõ đường đi nước bước, họ không biết phải vận
động như thế nào, vận động ai để đề đạt được ý nguyện của họ lên cơ
quan lập pháp.[64]
Xét riêng về mặt luật pháp, khái niệm vận động hành lang cũng có
những sự khác biệt. Theo luật Canada, vận động hành lang là một trong
những hoạt động hợp pháp để tiếp cận với Quốc hội, các cơ quan của

Chính phủ và chính quyền địa phương vì lợi ích của công chúng[1, tr.5].
Theo luật pháp của bang Washington - Mỹ, thì vận động hành lang là “cố
gắng ảnh hưởng đến việc thông qua hoặc bãi bỏ bất kỳ dự thảo luật nào
của cơ quan lập pháp của bang Washington hay sự chấp nhận hoặc chối bỏ
bất kỳ luật lệ, tiêu chuẩn, thuế địa phương hay văn bản của bất kỳ cơ quan
chính quyền nào theo Đạo luật thủ tục hành chính nhà nước, chương 34.05
RCW”[1, tr.5].
Theo luật pháp Hoa Kỳ mà cụ thể là theo quy định của Đạo luật Công
khai vận động hành lang, Bộ luật về Ngân sách Liên bang và Đạo luật Đăng
ký đại diện cho nước ngồi, thì vận động hành lang được hiểu là các hoạt
động tiếp xúc hoặc xúc tiến để nhằm gây tác động, ảnh hưởng tới các quan

15


chức có thẩm quyền, các hoạt động chuẩn bị và lên kế hoạch, nghiên cứu và
các hoạt động hỗ trợ để thực hiện một mục đích nào đó
Trong bài tham luận tại Hội nghị Người Việt Nam ở nước ngoài lần
2, Michael Bui, Việt Kiều Mỹ, đã đưa ra những khái niệm khác nhau về vận
động hành lang ở châu Âu, ở Mỹ và ở Việt Nam. Ở châu Âu, vận động hành
lang được coi là hoạt động nhằm gây ảnh hưởng, tác động đến các quan
chức, những người có thẩm quyền; các hoạt động chuẩn bị lên kế hoạch,
nghiên cứu và các hoạt động hỗ trợ để thực hiện một mục đích nào đó...
Người Mỹ thừa nhận vận động hành lang góp phần cải thiện quy
trình ra quyết định một cách dân chủ của đất nước. Nhằm bảo đảm cho tất cả
tiếng nói, các tranh luận đều được lắng nghe, giúp cho các ý nguyện của cử
tri đến được với chính quyền một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Ở Việt Nam, phần đông người đánh giá vận động hành lang: Là việc
làm xấu, là cái gì đó lén lút, không công khai, phạm pháp, Là nghệ thuật đưa
phong bì, là lợi dụng quan hệ trục lợi, chạy dự án, doanh nghiệp sân sau.[33]

Khái niệm vận động hành lang tuy có nhiều sự khác biệt, nhưng tựu
trung lại có thể hiểu vận động hành lang là những hoạt động có tính hệ thống
nhằm tiếp cận, thuyết phục, gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình ra quyết
định của cơ quan lập pháp, hành pháp, các nghị sĩ, quan chức và những
người có thẩm quyền khác trong bộ máy nhà nước để họ ủng hộ hoặc
khơng ủng hộ chính sách, dự luật, chương trình, kế hoạch, hợp đồng, chứng
chỉ, sự đề cử, bổ nhiệm hoặc một vấn đề nào đó vì lợi ích của cộng đồng,
các nhóm lợi ích hoặc của cá nhân.[1, tr.6]
Như vậy có thể thấy rõ rằng vận động hành lang là hoạt động vì lợi
ích của một cá nhân, của một nhóm, hay của cộng đồng nhằm ảnh hưởng lên
sự ra đời hoặc hủy bỏ một quyết định từ cơ quan chức năng và những người
có thẩm quyền.
16


1.1.2. Khái niệm nhóm lợi ích.
Cũng giống như vận động hành lang, cho đến nay vẫn chưa có một
khái niệm chung nhất về nhóm lợi ích. Trong từ điển tiếng Anh nhóm lợi
ích(Interest group) được định nghĩa là “một nhóm người có cùng mối quan
tâm hoạt động vì lợi ích chung”.[53] Cũng theo từ điển tiếng Anh thì Nhóm
lợi ích chính trị(Political Interest groups) là “những nhóm tìm cách gây ảnh
hưởng lên quá trình lập pháp”.[54]
Theo David B. Truman, một trong những học giả đầu tiên nghiên cứu
về nhóm lợi ích thì “Các nhóm lợi ích, về cơ bản, là những nhóm dựa trên
việc đưa ra một hoặc nhiều hơn một những lợi ích, quan điểm tương đồng để
đạt được những quyền lợi vượt hơn những nhóm khác trong xã hội.”[15,
p.135] theo như cách Truman định nghĩa thì nhóm lợi ích là một nhóm có vai
trị chống lại nỗ lực của các nhóm khác.
Tiếp tục tiếp thu và mở rộng tư tưởng của Truman, Robert Salisbury
cho rằng: Nhóm lợi ích là các nhóm hình thành khi sự phân chia nguồn tài

nguyên không thỏa đáng hoặc bị đe dọa. Theo Salisbury, người sáng lập
nhóm sẽ đưa ra những lợi ích để thu hút những thành viên gia nhập nhóm.
Lợi ích có thể là vật chất hữu hình, là sự liên kết hay quyền phát biểu ý kiến.
Trong đó thành viên sẽ nhận được những lợi ích và người đứng đầu nhóm
cũng nhận được những lợi ích tương tự. Như vậy để đảm bảo việc tiếp tục
tham gia của các thành viên thì mối quan hệ này phải dựa trên vấn đề lợi
ích. Hay nói tóm lại, sự hình thành, phát triển hay mất đi của các nhóm lợi
ích dựa vào sự trao đổi lợi ích giữa các thành viên. Trong đó vai trị của
người đứng đầu nhóm là quan trọng hơn cả.[14]
Với Mancur Lloyd Olson, một nhà kinh tế học và một nhà khoa học
xã hội người Mỹ thì “nhóm lợi ích là một tổ chức hay thể chế đưa ra những
địi hỏi chính sách đối với chính phủ”[50, p.49]

17


Hiểu một cách đơn giản nhất thì các nhóm lợi ích là các phe phái
chính trị, tập hợp lại với nhau vì một mục đích chung nào đó.[5, tr.113]
Như vậy, nhóm lợi ích là một nhóm những người có chung một mối quan
tâm, cùng hành động để đạt được phần ưu thế hơn những nhóm khác bằng
cách tác động lên q trình lập pháp.
1.1.3. Hồn cảnh ra đời của động hành lang và các nhân tố đưa đến sự ra đời
của vận động hành lang
Lịch sử của vận động hành lang bắt nguồn từ những hoạt động của
Nghị viện Anh quốc. Nước Anh có cơ chế hai viện là viện nguyên lão
(thượng viện) và viện dân biểu (hạ viện). Thượng viện chủ yếu đại diện cho
quyền lợi của các lãnh chúa, rất gắn bó với quyền lợi của Hồng gia và
hưởng tước lộc từ Hồng gia, do đó đại đa số nhân dân ít được tiếp cận với
họ. Hạ viện với nguyên nghĩa là Nghị viện của "thường dân" do Thành viên
của Viện này được nhân dân trực tiếp bầu ra và việc tái cử hay không là

tùy thuộc vào sự tin cậy của cử tri. Vì vậy, họ ln coi trọng sự ủng hộ của
cử tri và giữ mối liên hệ chặt chẽ với cử tri. Mỗi lần đến dự các kỳ họp,
các vị dân biểu thường dành thời gian đọc tài liệu, trao đổi với đồng
nghiệp tại phòng chờ hoặc hành lang của Nghị Viện. Theo quy định của
pháp luật về Nghị viện thì cơng dân cũng được phép có mặt tại hành lang
của tịa nhà Nghị viện để trình bày ý kiến, kiến nghị với các vị đại biểu của
mình. Chính vì vậy, cử tri hoặc người đại diện cho họ thường đến khu
hành lang này để gặp gỡ, bày tỏ quan điểm nhằm cung cấp thông tin,
thuyết phục nghị sĩ bỏ phiếu ủng hộ hoặc không ủng hộ những vấn đề,
chính sách hoặc dự luật sẽ hoặc đang được bàn thảo tại Nghị viện. Từ đó,
vận động hành lang đã ra đời. Vận động hành lang ra đời tại Anh nhưng phát
triển mạnh mẽ nhất ở Mỹ bởi đặc tính xã hội Mỹ và Hệ thống chính trị Mỹ
rất thuận lợi cho hoạt động này. Cũng có thể nói, người Mỹ đã kế thừa và
phát huy những thành quả của hoạt động vận động hành lang từ Anh. Vì về
cơ bản, Mỹ và Anh có nhiều đặc điểm chung. Đầu tiên, cả Mỹ về Anh đều
18


thuộc nền văn hóa Anglo-Saxon. Thứ hai, Hoa Kỳ đã từng là thuộc địa của
Anh. Anh và Mỹ có cùng ngơn ngữ… Chính những yếu tố này đã góp phần
quan trọng cho người Mỹ kế thừa và phát triển của hoạt động vận động hành
lang từ người Anh.
Thêm vào đó, “Hệ thống chính trị Mỹ đặc biệt mở rộng đối với ảnh
hưởng của những nhóm áp lực”[3, tr.420], mà “hoạt động vận động hành
lang lại gắn liền với các nhóm lợi ích”[5, tr.113]. Vì vậy hoạt động sơi nổi
của các nhóm lợi ích cũng chứng minh cho sự phát triển mạnh mẽ của vận
động hành lang.
Mỹ là một xã hội có tính đa dạng về chủng tộc và dân tộc, sự khác
nhau về lợi ích giữa các khu vực và sự phức tạp về kinh tế đã giúp cho hoạt
động của các nhóm áp lực ở Mỹ rất mạnh. Hơn nữa, sự phân cơng lao động

chun mơn hóa và sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế ngày càng
cao làm cho việc bảo vệ quyền lợi của các nhóm lợi ích càng trở nên cấp
thiết.
Mỹ xây dựng hình ảnh là một nước dân chủ, vì vậy văn hóa chính trị
Mỹ khuyến khích sự phát triển của các nhóm lợi ích như một hình thức thể
hiện tính dân chủ một cách hợp pháp. Vì tính tự do ngơn luận, tự do báo chí,
tự do hội họp là yếu tố sống cịn của các nhóm áp lực và ở nước Mỹ, các
nhóm lợi ích được thừa nhận thậm chí được hoạt động theo khn khổ của
hiến pháp và pháp luật.1
Tính phi tập trung hóa trong chính phủ Mỹ cũng tạo nhiều thời cơ hơn
cho các nhóm lợi ích hoạt động. Sự tồn tại của tam quyền phân lập cùng việc
1

Đại sứ quán hợp chủng quốc Hoa Kỳ(Hà Nội – Việt Nam), Hiến pháp Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền, Điều
bổ sung và sửa đổi thứ 1, : Quốc hội
sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tơn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngơn
luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất
bình.

19


phân chia thẩm quyền cho từng tiểu bang và thẩm quyền đan chéo trong
những vấn đề thương mại, đối ngoại hay mơi trường…sẽ tạo ra nhiều tiếp
điểm cho các nhóm lợi ích tiếp cận. Các ứng cử viên ra tranh cử cần nguồn
tài trợ, những viên chức nhà nước cần được bầu, dân chúng có quyền tự
quyết định một vài vấn đề thông qua trưng cầu ý kiến… Những chiến dịch
nhằm những mục đích này thường là do những nhóm lợi ích có quyền lợi
liên quan trực tiếp tổ chức và tài trợ.
Các đảng phái và các nhóm lợi ích khơng có quyền u cầu các nhà

lập pháp phải làm gì, nhưng họ có thể tác động hướng dẫn những nhà lập
pháp bỏ phiếu thông qua việc tập trung những ứng cử viên để nhận tài trợ và
những cử tri bỏ phiếu trong vịng bầu cử sơ bộ.
Ngồi việc hệ thống chính trị Mỹ đã tạo ra một hồn cảnh hết sức
thuận lợi cho sự ra đời của vận động hành lang cũng như các nhóm lợi ích,
hoạt động này ngày càng phát triển còn do nhiều nhân tố tác động. Nhân tố
đầu tiên chính là nhân tố kinh tế. Từ xưa đến nay, con người luôn phấn đấu
để đảm bảo những lợi ích của mình, một khi những lợi ích này bị đe dọa, con
người sẽ đấu tranh để đòi lại, dù ở bất kỳ lãnh thổ nào, dân tộc nào, nghề
nghiệp nào, địa vị xã hội như thế nào. Từ khi con người biết buôn bán trao
đổi, lợi ích kinh tế đã được đặt lên hàng đầu. Ngày nay, tồn cầu hóa về kinh
tế với sự ra đời của hàng loạt cơng ty, tập đồn lại càng nhấn mạnh thêm vai
trị của kinh tế trong đời sống chính trị xã hội, thậm chí cả việc hoạch định
chính sách quốc gia. Chỉ tính riêng ở Washington đã có hơn một nửa số tổ
chức là các tổ chức thương mại kinh doanh, và 15% là các tổ chức nghề
nghiệp[5, tr.114]. Các cơng ty, tập đồn phải nỗ lực giành lấy lợi ích về phía
mình, vì vậy các nhóm lợi ích về kinh tế lại càng phát huy vai trò ảnh hưởng.
Một trong những tổ chức lớn đại diện cho lợi ích kinh doanh lớn ở Mỹ là
Phòng thương mại Mỹ. Phòng thương mại Mỹ ra đời khi nước Mỹ đang
trong giai đoạn giữa của cuộc suy thoái, rất nhiều hãng sản xuất nhận thấy
yêu cầu cấp bách phải đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước khác. Đứng trước
20


tình hình đó, Hiệp hội các nhà sản xuất quốc gia – National Association of
Manufacturer (NAM), ra đời năm 1895 tại Cincinnati bang Ohio, đã kêu gọi
chính phủ thành lập Phịng thương mại Mỹ. NAM cũng đã phát động việc
hình thành Hội đồng quốc gia về thương mại mà sau này là Viện thương mại
Mỹ (the US Chamber of Commerce). Năm 1930 NAM đã phát động chiến
dịch quan hệ công chúng đầu tiên. Trong suốt 13 năm, NAM bỏ ra hơn

15.000.000$ để cung cấp thông tin cho công chúng về vai trị quan trọng của
cơng nghiệp sản xuất đối với sự sống còn của nền kinh tế Mỹ[61]. Những nỗ
lực này bao gồm những bộ phim ngắn, diễn văn trên radio, phim giáo
dục…Trải qua bao nhiêu năm lịch sử, cho đến ngày nay, NAM vẫn chứng tỏ
được tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của mình nhằm đem lại những chính
sách có lợi nhất cho sự hưng thịnh của ngành sản xuất tại Mỹ. Bên cạnh Hiệp
hội thương mại Mỹ và Hiệp hội các nhà sản xuất quốc gia còn có các hiệp
hội được thành lập với mục đích đại diện và đấu tranh cho một ngành công
nghiệp đặc biệt nhất định ví dụ như viện dầu lửa Mỹ, đại diện cho 350 cơng
ty dầu lửa chính[3, tr.428]. Hiệp hội các nhà kinh doanh bất động sản quốc
gia và nhiều công ty tư nhân tự vận động hành lang cho mình hoặc th các
cơng ty chun vận động hành lang làm đại diện.
Nhân tố thứ hai tác động đến sự ra đời của các nhóm lợi ích chính là
các phong trào xã hội. Phong trào xã hội phát triển mạnh mẽ sau cuộc nội
chiến điển hình là cuộc đấu tranh giải phóng nơ lệ ở Mỹ. Phong trào bãi nơ
xuất hiện vào đầu thập niên 1830 mang tính chiến đấu mạnh mẽ, kiên quyết
không thỏa hiệp và nhấn mạnh việc chấm dứt ngay lập tức chế độ nô lệ.
Quan điểm này đã tìm được người lãnh đạo là William Cloyd Garrison, một
thanh niên quê ở Massachusetts. Vào ngày 01/1/1831, Garrison đã xuất bản
số đầu tiên tờ báo của mình, tờ Người Giải Phóng, mang lời tun ngơn “Tơi
sẽ chiến đấu kiên cường vì sự nghiệp ban quyền cơng dân ngay lập tức cho
người dân nô lệ của chúng ta”[22]. Những phương pháp có tác động mạnh
của Garrison đã thức tỉnh người miền Bắc chú ý tới sự xấu xa trong thể chế

21


mà từ lâu nhiều người đã từng coi như không thể thay đổi được. Ơng đã duy
trì sự chú ý của cơng chúng tới những khía cạnh ghê tởm nhất của chế độ nơ
lệ và địi hỏi phải trừng phạt những kẻ chiếm hữu nô lệ, những tên chuyên tra

tấn và buôn bán cuộc sống con người một cách phi đạo đức. Garrison đã
tranh thủ được tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ khác từ phía trong đó có Theodore
Dwight Weld và nhiều người theo chủ nghĩa bãi nô khác đã vận động chống
lại chế độ nô lệ tại các bang miền Tây Bắc với sự nhiệt tình của giáo phái
Phúc âm. Một ví dụ khác chứng minh cho luận điểm nhóm lợi ích là sản
phẩm của các phong trào xã hội đó là phong trào chống rượu ở Mỹ. Phong
trào này được đẩy lên cao trào với hoạt động của nhiều nhóm nhỏ như Liên
đồn chống uống rượu của các phụ nữ Cơ Đốc giáo (Woman's Christian
Temperance Union) nhằm thúc đẩy việc giảm hoặc cấm sử dụng chất uống
có cồn. Thậm chí cịn ép các nhà làm luật thi hành luật chống lại thậm chí
cấm hồn tồn việc uống rượu. Ngoài Liên đoàn chống uống rượu của các
phụ nữ Cơ Đốc giáo, vào năm 1826 các mục sư ở Boston đã tổ chức hội
khuyếch trương phong trào hạn chế rượu. Năm 1833 ở Philadelphia, Hội này
đã tổ chức một hội nghị quốc gia và thành lập Liên hiệp hạn chế rượu Mỹ.
Liên hiệp này đã kêu gọi từ bỏ tất cả các loại đồ uống có cồn và gây áp lực
với các cơ quan lập pháp bang cấm việc bán và sản xuất rượu. Cho tới năm
1855, 13 bang đã thực hiện như vậy, tuy nhiên các bộ luật sau đó đã bị thách
thức tại tịa án. Các bộ luật này chỉ tồn tại ở miền bắc New England, nhưng
dù sao thì vào những năm, từ 1830 đến 1860, phong trào hạn chế rượu cũng
đã làm giảm sản lượng rượu tiêu thụ theo đầu người. Cũng từ phong trào
này, Hiệp hội chống rượu Mỹ (American Temperance Society) ra đời và còn
tồn tại tới ngày nay.Hiệp hội chống uống rượu Mỹ hình thành vào năm 1826
và trong vịng 12 năm đã thu hút được hơn 8.000 nhóm địa phương với hơn
1.500.000 thành viên. Vào năm 1839, mười tám tờ báo về chủ đề chống uống
rượu được xuất bản[56]. Đồng hành với nó là các nhà thờ cũng tham gia vào
việc thúc đẩy phong trào chống uống rượu.

22



Ngồi hai phong trào giải phóng nơ lệ và chống uống rượu cịn có các
phong trào khác ảnh hưởng đến sự ra đời của các nhóm lợi ích như: hiệp hội
quốc gia vì sự tiến bộ của dân tộc bị thực dân hóa xuất hiện vào năm 1910 là
sản phẩm của phong trào chống phân biệt, hành hình khơng qua xét sử và
bạp lực chống người Mỹ gốc Phi. Phong trào tăng lương và đòi hỏi các điều
kiện làm việc tốt hơn đã mở đường cho việc hình thành các tổ chức cơng
đồn vào những năm 1930. Hay sự ra đời của liên đoàn các cử tri nữ đầu thế
kỷ XX bắt nguồn từ phong trào đòi được quyền bầu cử của phụ nữ.
Ngồi lợi ích kinh tế, các phong trào xã hội thì sự ra đời và phát triển
của các nhóm lợi ích cũng chịu tác động từ sự tìm kiếm lợi ích liên quan đến
lĩnh vực chính trị và tinh thần từ chính phủ. “Khi chính phủ mở rộng các hoạt
động của mình thì đồng thời cũng xuất hiện thêm những nhóm lợi ích để gây
ảnh hưởng tới chính sách của chính phủ”[5, tr.116]. Ví dụ tổ chức cựu chiến
binh ra đời sau các cuộc chiến và vận động quốc hội cũng như giám sát các
hoạt động của bộ các vấn đề của cựu chiến binh. Vấn đề phúc lợi cũng là một
vấn đề được quan tâm, vì vậy có rất nhiều nhóm lợi ích đăng kí hoạt động ở
lĩnh vực này. Điển hình là Hiệp hội những người hưu trí Mỹ - The American
Association of Retired People (AARP). AARP thành lập năm 1958, với số
lượng thành viên tăng từ một triệu người năm 1968 lên ba mươi lăm triệu
người năm 1991, gồm hơn ½ tổng số những người trên 50 tuổi của Mỹ[3,
tr.429]. Các chương trình tài trợ của chính phủ liên bang cho các bang và các
địa phương làm xuất hiện các nhóm lợi ích thuộc chính phủ như sự ra đời của
Hội đồng chính phủ các bang, Liên hiệp quốc gia các thành phố, hiệp hội quố
gia các thống đốc bang, Liên đoàn các thị trưởng Mỹ.
Cuối cùng, các nhóm lợi ích ra đời nhằm đối phó với các quy định của
chính phủ. Khi có thêm một số công việc kinh doanh và một số ngành nghề
chịu sự điều hành của nhà nước, thì sẽ có nhiều tổ chức mới ra đời nhằm đảm
bảo lợi ích của họ. Các nhóm lợi ích này thường là các tổ chức nghề nghiệp,
ví dụ như Hiệp hội đèn điện quốc gia – National Electric Light Association
23



(NELA). NELA được hình thành năm 1885 bởi G.S.Bowen Terry và Charles
A. Brown, là đại diện cho lợi ích của các công ty cung cấp điện tư nhân trong
thời buổi nền cơng nghiệp điện cịn non trẻ. Ngồi ra cịn có các cơ quan
chuyên nghiệp khác như hiệp hội hội y tế Mỹ là đại diện cho các bác sĩ; Hiệp
hội luật sư Mỹ là cơ quan chuyên nghiệp của các luật sư có ảnh hưởng rất
mạnh đến chính phủ, đặc biệt là những phán quyết của tòa án.
Vận động hành lang đã xuất hiện từ rất sớm, dưới sự tác động của
nhiều nhân tố nên ngày càng phát triển mạnh mẽ. Các nhóm lợi ích cũng theo
đó mà phát triển tùy vào mưu cầu lợi ích và mục tiêu theo đuổi. Có nhóm lợi
ích xuất phát từ lợi ích kinh tế, có nhóm là sản phẩm của các phong trào xã
hội, có nhóm lợi ích được hình thành từ nhu cầu tìm kiếm lợi ích liên quan
đến lĩnh vực chính trị, tinh thần từ chính phủ, lại cũng có nhóm lợi ích ra đời
nhằm đối phó với các quy định của chính phủ. Ngày nay có hơn 22.000 nhóm
lợi ích và tổ chức ở Mỹ[5, tr.113], và tính đến năm 2012 có tổng số 12.374
nhà vận động hành lang với tổng chi phí cho các hoạt động là 3,28 tỉ đơ
la[62]. Các nhóm lợi ích càng nhiều thì việc nảy sinh mâu thuẫn lợi ích giữa
các nhóm cao. Các nhóm lợi ích tìm mọi cách để vận động nhằm gây ảnh
hưởng lên các cơ quan chức năng để đạt được mục tiêu của họ.
1.2.

Sự hình thành và phát triển của vận động hành lang tại Hoa Kỳ:
Vận động hành lang ban đầu không được ghi trong hiến pháp nhưng
nhiều học giả cho rằng hoạt động vận động hành lang đã xuất hiện ngay từ
khi nước Mỹ ra đời và “vận động hành lang vừa là tự nhiên vừa là tất
yếu”[16, p.3]. Theo quan điểm này thì vận động hành lang xuất hiện khi có
sự khác biệt về lợi ích, khi có người lãnh đạo và người bị lãnh đạo, thì sẽ có
những người cố gắng thuyết phục những người có chức có quyền sử dụng
quyền lực theo hướng có lợi cho họ. Hiến pháp Mỹ năm 1787 trong bản sửa

đổi đầu tiên, bằng việc khẳng định quyền tự do ngơn luận, tự do hội họp và
u sách hồ bình, đã cung cấp các cơ sở pháp lý cho cái gọi là “những
nhóm lợi ích đặc biệt”. Theo đó, bất cứ một nhóm nào cũng đều có quyền
24


×