PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Trong chương trình tiếng việt tiểu học cải cách năm 2000, trong phân môn tập
đọc, phần lớn các tác phẩm được đưa ra là những tác phẩm thơ, văn đặc sắc, gần
gũi với thiếu nhi. Đặc biệt, từ lớp 4, các em bắt đầu học thành thục văn miêu tả
trong các tiết tập làm văn, chính vì thế, các bài tập đọc đưa ra, phần nhiều là các
bài văn miêu tả: tả người, tả cảnh, tả hoạt động hay sự đan xem giữa các yếu tố đó.
Các ngữ liệu văn miêu tả đưa ra rất đặc sắc, giàu hình ảnh và lôi cuốn được các
em.
Các tác phẩm văn miêu tả không chỉ mang đến những bài học giáo dục mà còn
đem đến những ước mơ, khơi gợi khát vọng hoài bão; lấp đầy vào tâm hồn vốn đã
thơ ngây của các em . muốn hiểu hết những tác phẩm văn học ấy, các em cần phải
có cái nhạy cảm, rung động nhạy bén đối với từng từ, từng ý trong tác phẩm.
Việc cảm thụ của các em tốt hay không, ngoài việc do bản thân các em, thì
phần nhiều là do sự dẫn dắt, hướng dẫn của giáo viên. Để sự cảm nhận và thông
hiểu của học sinh ở mức tốt nhất, thì giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng. Vai
trò của người thầy là giúp hs nắm bắt “ý” của bài, từ đó có cách nhìn nghệ thuật,
cách cảm nghệ thuật về tác phẩm. Muốn vậy, cần phải có 1 hệ thống bài tập phù
hợp cho học sinh.
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các giáo viên còn chưa chú trọng
nhiều đến các câu hỏi nhằm khai thác vẻ đẹp của ngôn từ mà phần lớn là các câu
hỏi tái hiện – dạng bài tập đọc hiểu ở mức độ thấp. Như vậy sẽ không phát huy hết
tiềm năng sáng tạo của các em.
Trong chương trình sách giáo khoa, trong các câu hỏi đưa ra trong các bài
văn miêu tả cũng chưa chú trọng đến các bài tập cảm nhận vẻ đẹp của ngôn từ.
1
Chính vì thế tôi chọn đề tài này, mong muốn thông qua các bài tập đọc văn
miêu tả lớp 4, thông qua việc phân tích, bình giá cái hay cái đẹp của lớp nghệ thuật
ngôn từ mà đưa ra được các bài tập cảm thụ văn học- giúp hs nhận ra vẻ đẹp của
ngôn từ qua đó giúp kĩ năng cảm thụ văn học của hs trở thành 1 kĩ năng quen
thuộc.
Tên đề tài của tôi là:” Bình giá vẻ đẹp ngôn từ và xây dựng bài tập đọc hiểu
giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ trong bài văn miêu tả lớp 4”.
II. Giả thuyết khoa học
Đề tài của tôi được xây dựng nhằm đưa ra các câu hỏi, bài tập đọc hiểu giúp
học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ trong văn miêu tả lớp 4. Chính vì thế,
nếu được sử dụng, sẽ đem lại hiệu quả, giúp học sinh có những câu hỏi hay, phù
hợp theo các mức độ nhận thức, từ đó lựa chọn cho mình bài tập phù hợp nhất để
làm bài. Hệ thống bài tập này cũng có tác dụng rất lớn đến giáo viên. Không chỉ
đưa ra bài tập, mà ở đề tài này, tôi đã xây dựng các bước đưa ra câu hỏi theo các
mức độ. Chính vì thế, giáo viên có thể áp dụng vào trong nhiều loại bài tập đọc
khác nhau, dựa vào đó để đưa ra câu hỏi. Cho nên, nếu được áp dụng và sử dụng
hiệu quả, thì các bài tập này đúng là một phương tiện hỗi trợ có hiệu quả cho cả
người dạy và người học
2
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I Cơ sở khoa học:
1 . Cơ sở lí thuyết
1.1 Cơ sở văn học
1.1.1 Văn miêu tả và đặc điểm của văn miêu tả
1.1.1.1 Thế nào là văn miêu tả?
Theo từ điển Tiếng Việt ( Hoàng Phê chủ biên), miêu tả là “dùng ngôn ngữ
hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung
được cụ thể về sự vật, sự việc”.
Trong SGKTV4 Tập 1, trang 140, các tác giả đưa ra ghi nhớ “ miêu tả là vẽ lại
bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của vật giúp người nghe,
người đọc có thể hình dung được các đối tượng ấy”.
Các kiểu bài miêu tả dạy ở trường Tiểu học:
Dựa vào nhà trường do yêu cầu giảng dạy, văn miêu tả được chia thành
nhiều kiểu. Căn cứ vào đối tượng miêu tả, văn miêu tả gồm có các kiểu bài: tả đồ
vật, tả cây cối, tả người, tả con vật, tả cảnh.
Ở chương trình CCGD cũng như chương trình mới, các kiểu bài này dạy
cho các học sinh lớp 3, 4, 5 nhưng thực chất học sinh đã được làm quen với kiểu
bài này ngay từ lớp 2 khi tập quan sát tranh, trả lời câu hỏi, tập tả ngắn về đồ vật,
con vật, người, cảnh. Chính vì vậy, khi xây dựng hệ thống bài tập giúp học sinh
làm quen với văn miêu tả chúng tôi cũng quan tâm đến việc giúp các em làm quen
với các kỹ năng miêu tả đơn giản của từng kiểu bài được dạy ở các lớp trên.
1.1.1.2 Các đặc điểm của văn miêu tả
a. Tính sinh động và tạo hình: Là đặc điểm đầu tiên của văn miêu tả. Một đoạn văn
hay một bài văn mang tính sinh động và tạo hình khi đoạn văn đó hoặc bài văn đó
cụ thể, hàm súc. Làm nên tính sinh động và tạo hình của văn miêu tả là những chi
tiết, hình ảnh sống động. Những chi tiết, hình ảnh sống động đó được lấy từ thực
3
tiễn cuộc sống, từ sự hiểu biết, khả năng quan sát của chúng ta. Nếu tước bỏ những
chi tiết ấy đi bài văn miêu tả sẽ trở nên mờ nhạt, kém hấp dẫn.
b. Tính sáng tạo, thẩm mĩ, tính chứa đựng tình cảm của người viết
Khi miêu tả bất kỳ một đối tượng nào đó ( người, vật hay cảnh ) dù có bám sát thực
tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh những sự
vật, con người đó một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng,
đánh giá hết sức phong phú, người viết nó bao giờ cũng gửi gắm tình cảm và quan
điểm thẩm mỹ của mình vào đó.
Cùng một đối tượng miêu tả nhưng mỗi người chọn một vị trí quan sát
khác nhau, có cách cảm nhận, sự rung cảm trước cảnh khác nhau nên phong cách
viết của từng người khác nhau. Bài văn miêu tả của người nào có sự quan sát thấu
đáo, tinh tế phát hiện ở cảnh vật, con người, … những nét đặc sắc, tinh tế, đồng
thời lại biết dùng những phương tiện tu từ để diễn đạt lại cách cảm, cách nghĩ của
mình thì bài văn đó đã thể hiện được sự sáng tạo. Như vậy tính sáng tạo chứa đựng
tình cảm của người viết trong văn miêu tả thể hiện ở chỗ họ phát hiện ra cái riêng,
cái mới của người khác không thấy hoặc chưa thấy, không cảm hoặc chưa cảm như
mình.
c. Tính chân thực
Văn miêu tả không chỉ đòi hỏi tính sinh động và sáng tạo mà còn đòi hỏi tính chân
thật, tính chân thật đòi hỏi người viết phải miêu tả bằng những chi tiết sát thực,
không “bịa” đặt mà phải miêu tả đúng bản chất của đối tượng.
Văn miêu tả không hạn chế tính tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo mới mẻ
của người viết, nhưng như vậy không có nghĩa là văn miêu tả cho phép người viết
muốn tả thế nào thì tả. Tính chân thật đòi hỏi người viết phải miêu tả băng những
chi tiết sát thực, đúng với bản chất của đối tượng. Điều này có liên quan đến việc
quan sát để lựa chọn chi tiết, nếu người nào quan sát tinh vi, thấu đáo thì miêu tả sẽ
chân thực, thấu đáo.
4
d. Ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh và cảm xúc
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của văn miêu tả. Bởi lẽ văn miêu tả là “vẽ”,
là tái hiện lại cảnh vật, con người thông qua ngôn ngữ. Nhờ cớ ngôn ngữ, người
viết có thể miêu tả được tiếng động, âm thanh hay tư tưởng, tình cảm của con
người mà sự miêu tả trong các lĩnh vực khác không có được.
Ngoài ra, ngôn ngữ miêu tả còn giúp cho người viết bộc lộ được vẻ đẹp muôn
màu của cảnh vật và con người xung quanh. Thứ làm nên chất liệu ngôn ngữ miêu
tả này chính là các phương tiện ngôn ngữ. Vận dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ
so sánh, nhân hóa cùng với tính từ chỉ màu sắc, mức độ với từ ghép, từ láy, … vào
trong viết văn miêu tả đã làm cho đối tượng miêu tả trở nên ấn tượng, hấp dẫn
trong con mắt người đọc.
1.1.2 Văn bản nghệ thuật – nghệ thuật của ngôn từ
1.1.2.1 Ngôn từ là chất liệu xây dựng hình tượng văn học
Chất liệu của văn chương là ngôn từ. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều lao động trên
chất liệu đó. Sắp xếp “tiếng lòng” như thế nào cho hay, cho du dương hay có vần
điệu để có được “cái thú được nghe lời mình nói” là một việc làm nhọc lòng,
nhưng tự nguyện. Thơ là tự giác. Không ai bắt nhà thơ ngồi vào bàn gửi gắm tâm
sự của mình. “Tiếng lòng” giống như những sợi tơ lóng lánh sẽ theo ngòi bút chảy
xuống trang giấy “bện” thành các con chữ. Chữ viết là hình thức vật chất hóa ý
nghĩ, tư tưởng. Ngôn từ thơ “photo” lại “tiếng lòng” của nhà thơ. Thơ vốn được coi
là “một ngôn ngữ bí mật”, nhà thơ lao động trên sự bí mật đó.
Hội họa dùng màu sắc, đường nét… âm nhạc diễn tả bằng âm thanh, tiết
tấu… điêu khắc dùng chất liệu (kim loại, đá, gỗ...) tạo nên hình khối, đường nét
v.v… Còn văn học phải diễn tả bằng ngôn từ. Mỗi tác phẩm văn học phải được
gắn liền với một thứ ngôn ngữ và văn tự (gốc) nhất định. Ngôn ngữ, văn tự là công
cụ của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân được ca ngợi là bậc thầy về ngôn ngữ. Văn
5
của ông là tờ hoa, là trang văn. Hồ Chí Minh viết văn làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ,
bằng tiếng Pháp, bằng chữ chữ Hán. Thật là kì tài.
Con người sống và làm việc để duy trì sự tồn tại và hơn nữa là thúc đẩy lịch
sử con ngưởi phát triển. Từ mục đích đó thì ngôn ngữ ra đời để chỉ rõ hiện tượng,
sự vật và ý nghĩa biểu tượng cần diễn đạt..., phục vụ cuộc sống và mục đích của
con người. Và còn mang một ý nghĩa khác quan trọng không kém trong cuộc sống
của con người là phục vụ trong hoạt động tinh thần, về những sáng tạo nghệ thuật
như thơ văn....của con người. Trong đó muốn diễn đạt nó bao hàm đầy đủ ý nghĩa,
muốn lưu lại và muốn hữu hình ý của mình... thì hẳn nhiên con người phải tạo ra
một phương thức biểu hiện mới dễ dàng và khô đúc hơn- đó là ngôn từ.
Ngôn từ khác ngôn ngữ ở chỗ, ngôn từ là một trong hai bộ phận cấu thành
ngôn ngữ. Nó mang nét đặc trưng, cá nhân nhưng phổ biến và khoa học. Ngôn từ
là sự biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ trong sự giao tiếp sống động của con người
qua lời nói của một cá nhân, mang đậm sắc thái cá nhân để tác động đến một người
khác. Ngôn từ có thể là một từ, một nhóm từ, một câu, một đoạn văn... khi nói hoặc
khi viết. Và ngôn từ là cái tác động trực tiếp nhất, sớm nhất khi con người tiếp xúc
với tác phẩm. Nên nói đến một “tác phẩm nghệ thuật đích thực” không thể không
bàn đến sự phát minh về hình thức và sự khám phá về nội dung của ngôn từ trong
tác phẩm.
Nhưng nếu xét trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung thì ngôn từ chưa có trong
hầu hết bộ phận này. Cụ thể như trong kiến trúc hay hội họa... rất ít có ngôn từ, ít
lấy ngôn từ làm cách diễn đạt chính trong tác phẩm đó và không mang ý nghĩa
quan trọng, chủ chốt trong ngành. Vì nghệ thuật là tư duy của hình tượng, không
có hình tượng thì không có nghệ thuật. Mà hình tượng là một phương tiện cố định
thu hút những cái được yêu thích thường hay biến đổi; là một cái gì đơn giản và rõ
ràng hơn nhiều so với cái được giải thích. Vì tính hình tượng có mục đích làm xích
6
gần ý nghĩa của hiện tượng với cách hiểu của chúng ta. Nhưng xét trong tác phẩm
văn chương thì ngược lại. Nó có ý nghĩa sâu sắc, mạnh mẽ và quyết định tới thành
công của tác phẩm...Nó là kẻ tạo ra thành công của tác phẩm vì hình tượng được
toát ra từ ngôn từ. Ngôn từ vừa mang một nghĩa bên trong nó, tức là tính biểu thị
của ngôn từ; vừa gợi ra một vật gì đó ở bên ngoài nó - là tính hàm nghĩa của ngôn
từ. Mặt thứ hai này của ngôn từ đưa đến cho con người nét nhìn sâu hơn, xa hơn,
phát triển hơn. Giúp chúng ta tư duy nhanh về hình tượng.
Nói như nhà văn Nga Leonov: “Tác phẩm nghệ thuật đích thực nhất là tác
phẩm mà ngôn từ bao giờ cũng là một phát minh về hình thức, một khám phá về
nội dung”.
Như trên ta đã nói ngôn từ có thể là một từ, một câu, một đoạn.... Nó có cấu
trúc bên trong và có quy luật, trình tự nhất định của nó. Nhiều khi chúng tạo thành
hệ thống, tạo nên mối liên hệ cái này làm nảy sinh cái kia. Có đối lập nhưng lại
dựa vào nhau để cùng tồn tại, chi phối nhau, quy định nhau và đòi hỏi nhau. Ngoài
ra chúng còn có mối quy luật giữa ngôn từ với những thành tố bên ngoài nó như
hoàn cảnh....tác động từ bên ngoài tới sự hình thành của tác phẩm. Vì thế con
người làm ra ngôn từ và vô tình làm ra quy luật mới. Sự thể hiện rõ ràng lập
trường, quan điểm, ý thức tư tưởng, thế giới quan của mỗi người qua ngôn từ trong
tác phẩm chính là “phát minh” hình thức của ngôn từ.
Tuy nhiên những quy luật đó đều mang tính cộng đồng, tập thể nên rất hiện
thực và gần gũi. Nếu “phát minh” đó quá xa lạ hay quá nghịch lí thì khó chấp nhận
mà dễ bị phê phán, chống đối. Nó luôn luôn bị chi phối bởi ý thức và tư tưởng của
đọc giả, của người trong ngành...
Còn “sáng tạo nội dung” qua ngôn từ là như thế nào? Ngôn từ rõ ràng không
chỉ là hình thức, mà là bắt nguồn từ thực tiễn và ý thức của con người. Hình thức
7
muốn tồn tại được thì phải luôn luôn gắn liền với nội dung, mang dấu ấn của nội
dung.
Ngôn từ mang nhiều nghĩa khác nhau và gần nhau. Ngôn từ là đa nghĩa và
khi đem nó vào sử dụng. Qua phát minh hình thức thành công của ngôn từ sẽ tạo ra
được những đoạn văn chương, những tác phẩm nghệ thuật cụ thể. Sẽ tạo ra “văn
cảnh” cho tác phẩm mà không một tác phẩm nghệ thuật đích thực nào có thể biểu
hiện hơn điều đó. Qua văn cảnh đó, ý muốn và dụng ý sáng tạo của tác giả được
bộc lộ sâu sắc, vì thế ngôn từ cũng đã làm tròn nhiệm vụ của mình là “phát minh
về hình thức và sáng tạo về nội dung”.
Trong sáng tạo về nội dung của ngôn từ thể hiện thì không phải người sáng
tạo dựa trên quy luật, dựa trên cái đã có để “xếp chữ” tạo ra một hình thức ngôn từ
mới là đủ như hiện nay điều này diễn ra rất phổ biến. Vì như vậy tạo ra sự sao
chép, học đòi và tính khoe mã không trung thực trong sáng tạo tác phẩm nghệ thuật
qua ngôn từ. Vì như vậy người nghệ sĩ sẽ chẳng khác nào một thợ lắp ráp ngôn từ
đơn thuần, ai muốn cũng có thể làm được. Mà họ phải làm chủ được tác phẩm của
mình, làm chủ ngôn từ trong tác phẩm của mình. Nó bắt nguồn từ cuộc sống và
viết nên từ sâu thẳm tim gan người cầm bút, từ những tư tưởng lớn và những suy
nghĩ...qua bút pháp riêng. Giúp con người nâng cao tâm hồn, nhận thức, tư tưởng...
về cuộc sống, về nhân lọai... đó cũng là điều dễ hiểu vì sao các tác giả lại đa số
không tìm cách phát triển năng lực tư duy hay phân tích trong mình mà lại dồn tất
cả năng lượng vào sự say mê đối với vật liệu- ngôn từ hơn.
Ngôn từ văn học có thể tồn tại ở nhiêù dạng : lời nói ,câu hát,… Đối với vaăn
học viết, ngôn từ là chữ viết.
Các bộ môn khoa học khác cũng được hình thành từ ngôn từ .Nhưng
văn bản ngôn từ chỉ là tác phẩm văn học khi văn bản ngôn từ ấy dùng lời văn với
8
mọi phương tiện biểu hiện của lời nói như: Nghĩa ,vần, nhịp, ngữ điệu , các biện
pháp tu từ , … để tạo ra những hình tượng nghệ thuật.
1.1.2.2 Văn bản nghệ thuật – nghệ thuật của ngôn từ
Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Nhờ chất liệu ngôn ngữ mà chất nhân
văn, tính hình tượng, tính cảm xúc và độc đáo của văn chương còn có những sắc
thái riêng mà các nghệ thuật khác không có. Ngôn ngữ văn chương phải chau
chuốt, cô đọng, hàm xúc, có tính biểu cảm, tính hình ảnh. Nếu không, nghĩa, tình,
lí của văn chương chỉ sẽ là một nắm xương khô. Một tác phẩm văn học có giá trị
phải là sự hài hòa của nội dung và hình thức, tình ý chan chứa mà lời lẽ phải dạt
dào. Vì vậy, ngoài việc giải mã nghĩa, lí, tình, dạy đọc hiểu văn bản văn chương
còn phải cho học sinh tiếp nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn
chương, khả năng phát hiện được tín hiệu nghệ thuật, và cao hơn nữa là cho các em
đánh giá được giá trị của các tín hiệu nghệ thuật trong việc biểu đạt nội dung. Đây
cũng chính là nội dung dạy cảm thụ văn học ở trường tiểu học.
Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức không chỉ hiện ra trong toàn bộ
văn bản mà ngay trong từng yếu tố, từng cấp độ của văn bản ở trên tất cả các bình
diện: từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Việc tìm hiểu tác phẩm văn học phải bắt đầu
từ việc khám phá văn bản ngôn từ của nó. Không có chìa khóa để mở cánh cửa đi
vào cấu trúc ngôn từ của tác phẩm thì chúng ta chỉ có thể đứng ngoài ngôi nhà của
văn chương.
a) Nói về hình thức của tác phẩm, trước hết đó là phương diện âm thanh,
nhạc tính. Nó có vai trò không nhỏ trong tác phẩm văn chương, nhất là trong thơ.
Chính âm thanh, nhạc tính đã góp phần rõ rệt để tạo ra giọng văn, giọng thơ mà
chúng ta đã có dịp nói đến ở phần đọc diễn cảm. Cũng chính vì vậy, đọc diễn cảm
sẽ trở thành một biện pháp để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
Đọc diễn cảm sẽ giúp các em tái sản sinh tác phẩm nghệ thuật, để cho các dòng
chữ được vang lên. Vì vậy có những bài tập đọc ở tiểu học chỉ cần để học sinh trực
9
tiếp cảm thụ bằng chính giọng đọc, bằng chính nhạc thơ. Nó sẽ giúp HS nâng cao
khả năng cảm xúc thẩm mĩ và kích thích các em khám phá cái hay, cái đẹp của văn
chương. Tất nhiên những yếu tố âm thanh không tồn tại một cách cô lập mà gắn
với hình ảnh, ý nghĩa do lời nói tạo nên.
b) Tiếp đó là phương diện từ vựng
(1)
. Từ ngữ trong văn bản văn chương
thường mang tính gợi tả, gợi cảm, chúng “đi lại”, “nhảy nhót” trong tác phẩm.
Chính vì thế, trong các bài miêu tả, lớp từ láy được sử dụng rất nhiều. Nhờ có lớp
từ tượng hình, tượng thanh mà cảnh người, vật đang gồng gánh hàng họ đi chợ
được tả thật là sinh động, hối hả, nhộn nhịp:
Tiếng ve kêu rền rĩ trong những đám lá cây bên đường. Tiếng kéo lách cách của
những người bán thịt bò khô. Tiếng còi ô tô xin đường gay gắt. Tiếng còi tàu hỏa
thét lên và tiếng bánh sắt lăn trên đường ray ầm ầm. (Âm thanh thành phố – TV3 –
T1)
Chỉ với một sắc vàng với các cấp độ khác nhau: vàng xuộm, vàng hoe, vàng
lịm, vàng tươi, vàng ối, vàng xọng, vàng mượt, vàng giòn, vàng mới, vàng trù phú
nhà văn Tô Hoài đã thổi vào phong cảnh làng quê vào giữa ngày mùa một vẻ đẹp
lạ lùng: vẻ đẹp của những sắc vàng đầm ấm và trù phú. (Quang cảnh làng mạc
ngày mùa – TV5 – T1)
Những tính từ, nhất là những tính từ tuyệt đối như đỏ ối, xanh rợn, tím ngắt,
vắng tanh, vàng hoe, trắng tuyết, đỏ son, xanh um, thơm lừng, thơm ngát, đỏ chót,
ngọt lịm, cao vút, sâu hoắm,…được dùng với tần số cao tạo ra những sắc màu, hình
khối phong phú, đa dạng của những bài tập đọc ở tiểu học.
Về mặt ngữ nghĩa, từ trong văn bản văn chương có biên độ nghĩa được mở
rộng tối đa, tạo ra những nghĩa văn cảnh, nghĩa bóng rất đa dạng. Các nhà văn đã
vận dụng các nét nghĩa khác nhau và đã sử dụng từ rất là đắc địa.
Khi giải mã văn chương, phải nắm được các thế đối lập về nghĩa của từ
trong hệ thống ngôn ngữ mới hiểu văn bản và chỉ ra được sự tài tình của việc dùng
10
từ. Phải thấy được sự khác nhau về nghĩa của “xông” với “xộc”, hoặc “bay” thì
mới lột tả hết được sự ngỡ ngàng, thái độ ngạc nhiên vui thích và sự rung cảm của
nhà văn trước mùi hương ngào ngạt, đậm đà lan tỏa nhiều trong không khí.
Vì muốn gây ấn tượng, các nhà văn, nhà thơ đã đi chệch ra khỏi chuẩn mực
thông thường của ngôn ngữ toàn dân, sáng tạo ra bao từ mới chẳng hề có trong từ
điển. “Tím ngắt” thì chỉ màu sắc của mà hoa sầu riêng “tím ngát” thì lại có cả màu,
cả mùi thơm, cả sự lan tỏa của màu, của hương và sự mơ hồ lan tỏa của tâm hồn
người đứng ngắm sầu riêng (Sầu riêng – TV4 )
Nếu việc nắm các thế đối lập của từ trong hệ thống ngôn ngữ là rất cần thiết,
nó cho phép chúng ta chỉ ra cái “đắc địa”, sự tài tình của việc lựa chọn từ trong
trục dọc của ngôn ngữ, thì những hiểu biết về những nét nghĩa chung của một
trường từ vựng cũng không kém phần quan trọng. Nó sẽ giúp chúng ta giải mã
được nhiều bài tập đọc ở tiểu học. Giá trị của tác phẩm văn chương không chỉ là ở
cái hay riêng của từng từ đơn lẻ mà còn là sự hài hòa, lan tỏa, cộng hưởng của cả
một trường từ. Chính nét nghĩa chung, sự hòa đồng, cộng hưởng này sẽ tạo ra
những giá trị ngữ nghĩa mới của văn bản. Cả một trường từ của những sắc màu rực
rỡ: người ta không thể không nghĩ tới màu đỏ rực của hoa chuối, người ta cũng
không thể nào bỏ qua cái “vàng hoe ” của phố huyện, càng không thể bỏ qua màu
sương núi “tím nhạt” trong buổi hoàng hôn, hay màu “trắng xóa” của thác nước....
Có thể nói việc sử dụng các từ ngữ gợi màu sắc rất độc đáo khiến chúng ta có
cảm giác như chính mình đang đi trên con đường chênh vênh, thưởng ngoạn những
cảnh đẹp hùng vĩ ấy. Đường lên Sa Pa dường như lung linh trong những sắc màu
tuyệt diệu.
Chính việc lựa chọn từ có những nét nghĩa chung đã tạo ra sự cộng hưởng
của các từ làm nên phép tu từ có tên gọi biện pháp hoà hợp.
11
Một đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật là sử dụng nhiều biện pháp tu từ. Các biện
pháp tu từ thường được sử dụng trong các bài tập đọc ở tiểu học là so sánh, ẩn dụ
(so sánh ngầm), hoán dụ, nhân hóa, hòa hợp.
Những cách dùng từ đặc sắc cùng với các biện pháp tu từ đã làm cho lớp
ngôn từ nghệ thuật kết lại thành những hình ảnh văn chương lung linh màu sắc tạo
nên vẻ đẹp của phần Tập đọc trong bộ SGK tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5. Đó là
những hình ảnh “Cọ xoè ô che nắng” rất dễ thương làm râm mát đường em đi học
trong bài “Đi học”, hình ảnh “Ngọn tre cong gọng vó. Kéo mặt trời lên cao.” (Luỹ
tre) gây ấn tượng bởi sự liên tưởng độc đáo, thú vị. Rồi những “Long lanh lưỡi hái
liếm ngang chân trời” (Tiếng hát mùa gặt) cho thấy hình ảnh con người lao động
đứng ở tư thế ngang tầm trời đất; “Trời thu thay áo mới. Trong biếc nói cười thiết
tha” làm hiện lên gương mặt một đất nước mới dạt dào niềm vui say đắm vì được
làm chủ vận mệnh của mình. Rồi “Mái chèo khua bóng núi rung rinh” mới thể hiện
được sự xao động của lòng người khi đi thuyền trên hồ Ba Bể cùng với những hình
ảnh tượng trưng “Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh” nói về sức sống, sự trường
tồn của dân tộc Việt Nam,…
c) Về phương diện cú pháp, trước hết nhờ từ ngữ mang nghĩa biểu trưng, mà
tác phẩm văn học thường có những cách kết hợp từ bất bình thường, gây ấn tượng,
không hề có trong ngôn ngữ đời thường kiểu như: “Sắc màu Việt Nam” (Sắc màu
em yêu) ,”màu phượng mạnh mẽ kêu vang” ( hoa học trò), “ Thân hình cột
chặt”(thắng biển), “Khúc hát ngọt ngào”, “Tiếng hót làm xanh da trời” (Con chim
chiền chiện), “Đôi cánh đẫm nắng trời” (Hành trình của bầy ong), “hoa sầu riêng
tím ngát” (Sầu riêng),”Tuổi thơ được nâng lên từ những cánh diều”( cánh diều tuổi
thơ) “Giấc ngủ em nghiêng” (Lời ru trên nương)...
Cấu trúc ngữ pháp thơ không phải lúc nào cũng như cú pháp lời nói thường.
Lời thơ được nén lại, nên nhiều khi muốn giải mã câu thơ phải thêm từ ngữ để lấp
đầy. Không hiểu đặc điểm cú pháp của thơ, nhiều GV đã không cắt nghĩa đúng. Có
12
cô giáo đã giải nghĩa, “Gió về đưa hương lạ” (chùm hoa giẻ) là “Gió đưa về một
mùi hương không quen”, trong lúc câu thơ phải được hiểu “gió về mang theo mùi
hương thơm đến lạ lùng”. Có cô giáo đã dùng rất nhiều lời lẽ, cả hình ảnh trực
quan để giải nghĩa “dáng ân cần” trong câu thơ “Nhớ dáng mẹ ân cần mà lặng lẽ”
(Mẹ) là cái dáng như thế nào, trong lúc từ ân cần không phải dùng để tả dáng dấp
bề ngoài mà câu thơ phải được hiểu “Nhớ dáng mẹ, sự chăm sóc của mẹ…tất cả
đều toát ra vẻ ân cần”.
Trong văn bản nghệ thuật, các kiểu câu theo mục đích nói khác nhau được
sử dụng đan xen rất linh hoạt, đặc biệt là những câu cảm thán, câu hỏi tu từ được
sử dụng tài tình đã phát huy được hiệu quả nghệ thuật.
Nói đến phương diện ngữ pháp của văn bản nghệ thuật, cần phân biệt lời
nhân vật và lời tác giả, những nhận định, những lời bàn trực tiếp hay những câu
trực tiếp bộc lộ cảm xúc, cần phân biệt những câu miêu tả và câu nhận định. Nhiều
khi, sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta nhanh chóng khám phá ra đích thông báo,
đích tác động của văn bản.
Không xác định đúng vai nói, đối tượng nói năng của các câu trong văn bản,
nhiều khi ta sẽ bỏ quên những tình cảm, cảm xúc rất đáng yêu của bài văn, bài thơ.
Ví như bài ca dao Trâu ơi nếu không xác định là lời của ai nói với ai thì sẽ không
thấy hết lòng yêu mến của người nông dân đối với con trâu “đầu cơ nghiệp” của
mình. Người nông dân – nhân vật trữ tình của bài thơ – đã gọi “trâu” và xưng là
“ta” thân thiết như gọi – xưng với một người bạn.
Bàn về cú pháp văn chương cần chú ý đến các biện pháp tu từ cú pháp như
điệp ngữ, đảo ngữ. Chúng có giá trị nhấn mạnh, gây ấn tượng về sự vật, hiện tượng
và cảm xúc. Chẳng hạn, đoạn văn “thoắt cái lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa
thu. Thoắt cái trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận.
Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu nhung hiếm
13
quý (Đường đi Sa Pa) có điệp kiểu câu cùng với điệp từ “Thoắt cái” nên đã nhấn
mạnh được sự biến đổi mau lẹ và lạ kì của thời tiết và cảnh vật Sa Pa.
d) Nói đến nghệ thuật ngôn từ, nhiều bài văn, bài thơ lại có thành công đặc
sắc ở lập luận, cấu tứ bài Trăng sáng sân nhà em (TV1) được khép bằng mấy câu
mở “ Ông trăng tròn sáng tỏ. Soi rõ sân nhà em.” tạo ra cấu tứ đầu cuối tương ứng
khiến bài thơ như một bài đồng dao, một bài hát xoay vòng mãi không hết, tạo một
giai điệu yên ắng không gây động nhưng lay động. Bài Luỹ tre (TV2) chọn trật tự
miêu tả theo trục thời gian một ngày đêm và kết thúc bằng hai câu thơ:
Đêm chuyển dần về sáng
Mầm măng đợi nắng về
mở ra một ngày mới đầy ánh sáng và tương lai.
Một đoạn thơ ngắn Nhớ Việt Bắc cũng có cấu trúc rất chặt chẽ với một câu tự
nghĩa đầu tiên nêu ý khái quát tạo cho khổ thơ có lập luận diễn dịch “Ta về mình
có nhớ ta, Ta về ta nhớ những hoa cùng người.” Hoa ở đây là cảnh Việt Bắc, người
ở đây là người Việt Bắc được tất cả các câu còn lại của đoạn thơ theo từng cặp lục
bát sóng đôi láy đi láy lại mãi : câu lục nhớ về cảnh Việt Bắc, câu bát nói về người
Việt Bắc cùng với điệp từ nhớ, cứ thế cảnh với người, người cảnh điệp lại miên
man không dứt trong nỗi nhớ.
Ba khổ thơ trong bài Con chim chiền chiện (TV2) cũng được viết rất chặt chẽ : khổ
thơ nào cũng dùng hai câu để nói về dáng bay và hai câu nói về giọng hót của con
chim sơn ca này. Nhưng khổ thơ sau không phải là sự lặp lại mà phát triển thành
khổ thơ trước : đã bay cao càng cao hơn : “bay vút vút cao” đến “chim bay chim
sà” và cuối cùng “bay cao cao vút” tiếng hót đã hay càng hay hơn : “Khúc hát ngọt
ngào” đến “Chan chứa lời chim ca” và cuối cùng hay đến gây bất thường, đến mức
nghe tiếng chim hót ta tưởng như trời xanh hơn, đẹp hơn lên “Tiếng hót làm xanh
da trời”.
14
Những bài như Vẽ quê hương, Nghệ nhân Bát Tràng cùng có một điểm
chung về cấu tứ : Vừa ca ngợi bức vẽ đẹp, ca ngợi tài hoa của người vẽ - một nghệ
sĩ tí hon hay một nghệ nhân, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước -
nguồn đề tài vô tận của những nghệ sĩ này. Câu thơ “Chị ơi bức tranh. Quê ta đẹp
quá!” (Vẽ quê hương) là tiếng reo vui vì biết vẽ và vì sự bất ngờ về vẻ đẹp của quê
hương. Còn những gì được khắc lên đất cao lanh “nở đầy sắc hoa” trên đồ gốm Bát
Tràng như “cánh cò bay lả bay la”, “luỹ tre đầu xóm”, “cây đa giữa đình”, “con đò
lá trúc”, “trái mơ tròn trĩnh”, “quả bóng đung đưa” (Nghệ nhân Bát Tràng) ... đều là
hình ảnh thân thương, tươi đẹp của làng quê Việt Nam.
Với bài Sắc màu em yêu, Phạm Đình Ân (TV5 – T1) cũng đã tìm được một
cách nói sáng tạo, mới mẻ để viết về Tổ quốc, nhân dân. Tác giả đã ngắm nhìn, soi
xét, mong muốn từ góc độ của sắc màu : màu đỏ như máu trong tim, như lá cờ Tổ
quốc, như khăn quàng đội viên. Rồi đến màu xanh, màu trắng, màu nâu...để cho
bài thơ từ từ hiện lên một Tổ quốc gần gũi thân yêu cùng với em bé với những
người thân trong gia đình của em là bà, mẹ và chị.
Bài Việt Nam của Lê Anh Xuân và Đất nước của Nguyễn Đình Thi đều chọn
cấu từ theo hai trục không gian và thời gian để nói về đất nước tươi đẹp và truyền
thống của cha ông. Có những bài, đoạn chọn cấu trúc tổng – phân - hợp như Nghe
thầy đọc thơ với hình ảnh khái quát ở hai câu đầu “Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây” rồi
một loạt câu làm rõ ý “nắng đỏ, cây xanh” như thế nào để kết luận, nhắc lại chính ý
ban đầu : “Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn”. Nhờ thế cả bài thơ đã nói một cách
hình ảnh sức tác động ghê gớm về tiếng thơ của thầy : chính những lời thầy dạy
làm thay đổi cả thế giới xung quanh em, đánh thức em phát hiện ra bao điều đẹp đẽ
của cuộc sống quanh mình.
Có những bài chọn cách lập luận cộng hưởng từng phần, từng đoạn như
Mùa thảo quả ta có dịp nói đến ở trên. Có bài lại chọn cách lập luận đối lập giữa
các đoạn như bài Sầu riêng, nhấn vào cái tầm thường của vẻ ngoài sầu riêng – cây,
15
cành, lá : Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về cái dáng của giống cây kì lạ
này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng
nghiêng, chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng, hơi
khép lại, tưởng như lá héo để làm nổi bật hơn, làm người đọc bị bất ngờ hơn bởi
hương vị diệu kì, say lòng người của quả sầu riêng.
e) Vấn đề bút pháp thường ít được nhắc đến khi bàn về dạy đọc hiểu ở Tiểu
học. Dù vậy, nhiều khi sự quan tâm đến bút pháp sẽ giúp chúng ta tháo gỡ những
vướng mắc khi đọc hiểu một cách dễ dàng hơn. Chẳng hạn, chú trọng đến mạch ẩn
dụ xuyên suốt từng bài Hành trình bầy ong, Dừa ơi, Tre Việt Nam, ta mới không
dạy Gửi các vì sao như một bài tả cảnh trời đêm. Bài Hành trình bầy ong không thể
dừng lại ở chuyện những con ong chăm chỉ, có ích và cũng không dạy như một
truyện ngụ ngôn như dạy bài “Con cáo và tổ ong”. Ta sẽ không dạy Vào hè như bài
“Mùa hè” mặc dù đề tài nghe qua có vẻ giống nhau. Ta sẽ không dạy Dừa ơi như
bài “Cây dừa”, không dạy Tre Việt Nam như bài “Luỹ tre”, vì “Dừa ơi” là chuyện
về quê nội, về đồng bài miền Nam, “Tre Việt Nam” là chuyện về dân tộc Việt.
Ví dụ, để tìm hiểu bài Tre Việt Nam, ngay từ đầu ta phải giải mã ẩn dụ này,
tìm cho được vế so sánh còn ẩn chìm ở dưới để không mắc sai lầm vụng về như
một cô giáo nọ ghi một mục đề lên bảng “Các đặc điểm của tre”, “Tre có đặc điểm
gì nữa” để cho HS trả lời đưa ra những kết hợp từ phi lí như “Tre cần cù, chăm
chì”, “Tre đoàn kết”, “Tre bất khuất”. Vì thế mà làm thô thiển, không giải mã được
bài thơ có chiều sâu triết lí chứa đựng biết bao xao động, ngỡ ngàng, phát hiện lắng
sâu trong suy tư của Nguyễn Duy về dân tộc Việt.
Cũng ca ngợi sức lao động nhưng cách nói “Mồ hôi mà đổ xuống đồng. Lúa
mọc trùng trùng sáng cả đồi nương” khác với “Bàn tay ta làm nên tất cả. Có sức
người sỏi đá cũng thành cơm.” mà có giáo viên đã giải mã hình ảnh “bàn tay” sai,
nói rằng đó là muốn nói đến lao động của các anh bộ đội hồi ấy còn vất vả, thô sơ
phải làm thủ công, bằng tay.
16
1.1.3 Cảm thụ văn học và đặc điểm của cảm thụ văn học
1.1.3.1 Cảm thụ văn học
Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê – Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà
Nội, 1992 thì cảm thụ là “nhận biết được cái tế nhị bằng cảm tính tinh vi”.
Theo giáo sư Trần Mạnh Hưởng thì hiểu một cách đơn giản, cảm thụ văn
học chính là : “sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp
đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (cuốn truyện, bài văn, bài thơ...) hay một
bộ phận tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ, ...thậm chí một từ ngữ có giá trị trong câu
văn, câu thơ)
Cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc (nghe) một tác phẩm , một câu chuyện,
một bài thơ... ta không hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng và thực sự gần gũi,
nhập tâm với những gì đã học.
1.1.3.2 Đặc điểm của cảm thụ văn học
Lí thuyết cảm thụ văn học đã chỉ ra 3 cấp độ trong cảm thụ văn học:
- Người đọc tri giác, hiểu ngôn từ, tình tiết, cốt truyện,thể loại để có cảm nhận
hiện tượng trong sự toàn vẹn của các chi tiết, các liên hệ.
- Người đọc tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ, thâm nhập vào hệ
thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của tác giả.
- Người đọc đưa hình tượng vào đời sống kinh nghiệm riêng của mình để thể
nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng, nâng cấp lí giải tác phẩm lên cấp quan niệm
và tính hệ thống,hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn học, tư tưởng,
đời sống và truyền thống nghệ thuật.
Lí luận văn học đã chỉ ra rằng khi nhà văn kết thúc trang viết cuối cùng thì lúc
đó tác phẩm mới thực sự bắt đầu. Vì vậy, cần phải thấy được giá trị tự thân của tác
phẩm và cách cảm thụ (tiếp nhận) các giá trị đó. Trong văn chương, người ta phân
biệt văn bản – sản phẩm văn chương cảu tác giả với tác phẩm- sản phẩm của người
đọc khi tiếp nhận văn bản. Dạy cảm thụ là quá trình biến văn bản thành tác phẩm
văn học của mỗi người học. Đây là một quá trình phức tạp, do tính đa nghĩa, hàm
17
súc, tính đối thoại của ngôn từ, tính không nói hết của hình tượng nghệ thuật cũng
như do sự liên tưởng, tưởng tượng khám phá sáng tạo hết sức phong phú của người
đọc. Khi ta bắt đầu đọc tác phẩm, ta sẽ tri giác toàn bộ tác phẩm, từ những yếu tố
nhỏ nhất như hình vị (tiếng), từ, câu đến việc tiếp nhận ý nghĩa của toàn bộ tác
phẩm, chuyển nội dung văn bản thành tác phẩm của mình.
1.1.4 Các dạng bài tập dạy cảm thụ cho học sinh
Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ là hình thành năng lực đọc cho học
sinh giúp các em có kĩ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được văn bản, giáo
dục các em lòng ham thích đọc sách, giúp các em làm giàu kiến thức về ngôn ngữ,
đời sống và văn hóa, bồi dưỡng các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em
cách suy nghĩ logic và tư duy hình ảnh. Các mục đích và nhiệm vụ này chỉ có thể
thực hiện thông qua hệ thống các câu hỏi và bài tập tương ứng.
Có nhiều cách phân loại hệ thống bài tập. Tuy nhiên để phục vụ cho việc nghiên
cứu xây dựng bài tập, chúng tôi căn cứ theo mục đích, nội dung dạy học, các công
việc cần làm phân loại bài tập thành các kiểu dạy như sau:
- Nhóm bài tập có tính chất nhận diện, tái hiện ngôn ngữ của văn bản
Đây là nhóm bài được sử dung nhiều nhằm mục đích làm cầu nối để đi đến
giải quyết các vấn đề có tính chất phát hiện và sáng tạo. Nhóm bài tập này dùng
khi học sinh tham gia quá trình đọc giải mã, nhận diện các đơn vị ngôn ngữ, tái
hiện hình tượng, nhận diện nhân vật, nắm bắt tình tiết và hình dung bức tranh miêu
tả trong văn bản nghệ thuật.
Loại bài tập này chỉ cần nhận diện ghi nhớ, phát hiện ra các từ ngữ, câu,
đoạn, chi tiết của văn bản chưa yêu cầu cao tính làm việc độc lập của học sinh. Vì
thế dạng bài này chỉ nên sử dụng ở mức độ nhất định và đan xen với các dạng bài
tập khác.
- Nhóm bài tập cắt nghĩa ngôn ngữ văn bản
18