Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.56 KB, 13 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trờng đại học kinh tế quốc dân
Trung tâm đào tạo, bồi dỡng và t vấn về ngân hàng,
tài chính & chứng khoán
Bản thu hoạch
đề tài: những hạn chế của ttck hiện nay.
Nguyên nhân và giảI pháp khắc phục.
Họ và tên: Đỗ Hữu Phú
Lớp: Cơ bản ( ban ngày)
Điện thoại: 0904 198 762
Hà nội, ngày 17 tháng 8 năm 2007
I - Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam

Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức hoạt động vào tháng 7/2000,
với sự ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ngày 28/7/2000
theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, mà nay đã được chuyển đổi
thành Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ngày 8/8/2007. Sau đó vào 8/3/2005
TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động đánh dấu bước phát triển mới của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Trung tâm GDCK TP Hồ Chí Minh khai trương hoạt động của mình chỉ với 2
mã cổ phiếu là REE và SAM với giao dịch khối lượng giới hạn. Vào tháng 7/2005, số
lượng mã cổ phiếu niêm yết trên thị trường này đã là 30 mã cổ phiếu cộng thêm 1 quỹ
đóng. Đến nay, con số này đã là 110 mã cổ phiếu được niêm yết với tổng vốn hóa thị
trường xấp xỉ 13 tỉ USD, 2 chứng chỉ quỹ IFCs và 407 trái phiếu các loại. Giá trị giao
dịch bình quân trong ngày trên thị trường này lên tới 40 triệu USD. Có thể quan sát thấy
rằng, trong 7 năm qua chỉ số VNIndex(chỉ số phản ánh tình hình giá cả trên thị trường
giao dịch TPHCM) trên thị trường đã tăng mạnh và liên tiếp tạo nên những bước nhảy
vọt kỉ lục mặc dù trong thời gian gần đây thị trường đang có nhiều điều chỉnh khiến chỉ
số VNIndex có phần ảm đạm. Những mức đỉnh đạt được hết sức quan trọng thúc đẩy thị
trường đi lên như mức 571.04 điểm vào tháng 6/2001, mức 632.69 điểm vào tháng
4/2006 và gần đây nhất là mức đỉnh kỉ lục 1174.22 điểm trong tháng 3/2007. Tuy nhiên


chỉ số VNIndex hiện nay đang trong giai đoạn điều chỉnh và nó đã giảm xuống khoảng
20% so với mức đỉnh kỉ lục đã đạt được. Hiện nay TT GDCK HCM đã được chuyển đổi
thành Sở GDCK HCM (HOSE - Ho Chi Minh Stock Exchange), hoạt động như một
công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên và chuyển đổi phương thức từ giao dịch khớp
lệnh định kỳ sang giao dịch khớp lệnh liên tục.
- Trung tâm GDCK Hà Nội khai trương hoạt động vào tháng 3/2005 dưới sự
giám sát chặt chẽ chỉ thực hiện một số hoạt động đấu giá IPO - Initial public
2
offering(phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng) và một số trái phiếu chính phủ trong
khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 7/2005. Sau đó, thị trường giao dịch tại Hà Nội
mới chính thức hoạt động như thị trường giao dịch thứ cấp vào với giá trị giao dịch
khiêm tốn khoảng 6.4 triệu USD. Đến nay, thị trường này đã có 87 mã cổ phiếu được
đăng ký với tổng giá trị thị trường là 4.5 tỉ USD. Và theo định hướng của Chính phủ thì
xây dựng thị trường giao dịch Hà Nội trở thành một trung tâm giao dịch chứng khoán
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn pháp định từ 10 tỉ VND cho đến 80 tỉ VND, và
đến năm 2010 phải xây dựng TT GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập
trung (OTC - Over the counter) đơn giản, gọn nhẹ.
- Đứng bên ngoài những hoạt động giao dịch cổ phiếu trên hai thị trường tập
trung chính thức đó là thị trường phi tập trung OTC, mà theo như những người trên thị
trường gọi nó là ''thị trường chợ đen'' chính vì chưa có một trung tâm giao dịch nào hình
thành để quản lý thị trường này. Đây là một thị trường phát triển tự phát, độc lập và
chưa được quản lý chặt chẽ, nên rất khó nắm bắt những số liệu báo cáo, tuy nhiên theo
đánh giá của các nhà nghiên cứu thì giá trị thị trường OTC đang giao dịch là rất lớn, với
khoảng 600 công ty đại chúng đang có cổ phiếu lưu hành trên thị trường này.
- Với sự phát triển thần kì trong suốt 7 năm qua, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã đánh dấu những bước tăng trưởng nhảy vọt trong đầu tư với tổng lượng vốn
hóa thị trường đã đạt mức 17.5 tỉ USD mà trong đó đã có sự tham gia của khoang
200.000 tài khoản của nhà đầu tư trong nước và 6.000 của nhà đầu tư nước ngoài trong
đó có 4000 nhà đầu tư cá nhân và 270 nhà đầu tư có tổ chức. Số lượng các quỹ đầu tư
trên thị trường cũng tăng lên đáng kể, hiện nay đã có 45 quỹ đầu tư đang hoạt động tại

Việt Nam, với tổng vốn đạt 6.277 tỉ USD. Ngoài ra, còn có khoảng 50 tổ chức đầu tư
theo hình thức uỷ thác qua công ty chứng khoán.
- Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK đã hình thành và phát triển nhanh
chóng. Tính đến nay, trên thị trường có 57 công ty chứng khoán, tăng mạnh hàng năm,
vốn điều lệ bình quân đạt 77 tỉ đồng/công ty. Ngoài ra, còn có sự tham gia của 18 công
3
ty quản lý quỹ, 2 chứng chỉ quỹ đầu tư, 43 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng
khoán, 8 ngân hàng lưu ký.
- Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007) đã tạo khung
pháp lý cao cho TTCK phát triển góp phần thúc đẩy khả năng hội nhập vào thị trường
tài chính quốc tế của TTCK Việt Nam. Những vấn đề liên quan đến TTCK, trong đó
những quy định về đăng ký, lưu ký, công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của
các cơ quan chức năng quản lý hoạt động của TTCK từng bước được hoàn thiện. Chính
phủ đã chỉ đạo việc phối hợp giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và
Ngân hàng Nhà nước trong việc tăng cường kiểm soát TTCK ở nước ta tạo ra sự ổn
định và phát triển mạnh mẽ của thị trường.
1. Một số đặc điểm đáng chú ý của TTCK Việt Nam trong thời gian qua là:
- Cùng với sự phát triển của các nhà đầu tư là doanh nghiệp (bảo đảm về năng lực
tài chính, có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng khoán...) thì sự phát triển
của các nhà đầu tư cá nhân rất đông (chiếm hơn 70% số nhà đầu tư) và nhà đầu tư nước
ngoài cũng quan tâm đầu tư vào TTCK nước ta ngày càng nhiều (bao gồm cả những
nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân). Các nhà đầu tư nước ngoài (hiện có
khoảng 4000 nhà đầu tư cá nhân và 270 nhà đầu tư có tổ chức) chủ yếu đầu tư vào cổ
phiếu và trái phiếu đã niêm yết (khoảng 68% cổ phiếu và 32% trái phiếu), trong đó các
nhà đầu tư nhỏ lẻ đã nắm giữ tới 1tỉ USD.
- Tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta hiện nay còn mang tâm lý “đám
đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào,
qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật và cũng
qua đó nhiều người được hưởng từ “một vốn, bốn lời” thậm chí tới 10 hoặc hơn 10 lời.
Tình hình sôi động của TTCK đã phản ánh những hiện tượng kinh tế tốt lành là:

(1) nền kinh tế Việt Nam đã và đang tăng trưởng và có xu hướng tiếp tục tăng
trưởng;
4
(2) vốn cho đầu tư phát triển được huy động qua kênh TTCK và vẫn còn điều
kiện phát triển qua kênh này trong thời gian tới, do nhiều doanh nghiệp lớn (trong đó có
các ngân hàng thương mại nhà nước) tiến hành cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, thực
hiện niêm yết tại các công ty chứng khoán.
Tuy nhiên, việc phát triển “nóng” của TTCK cũng sẽ phát sinh 2 vấn đề cần phải
quan tâm:
(1) việc các nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện thao túng, dễ gây rủi ro cho
TTCK trong nước;
(2) cũng đã tác động khá mạnh đến thị trường bất động sản, đẩy giá nhà, đất lên
cao.
- Các ngân hàng thương mại cổ phần sau quá trình tái cơ cấu đã làm ăn tốt, đang
ổn định và phát triển, tiếp tục tái cơ cấu để tăng cường năng lực cạnh tranh và hội nhập
theo các cam kết của WTO, trong đó có việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn.
Theo quy định tại Nghị định số 141 ngày 22 - 11 - 2006 của Chính phủ “Về ban hành
danh mục vốn pháp định của tổ chức tín dụng” thì đến hết năm 2007 vốn điều lệ của các
ngân hàng thương mại nước ta phải đạt 1000 tỉ đồng và đến năm 2010 phải đạt 3000 tỉ
đồng. Để thực hiện được việc này, các ngân hàng thương mại phải tìm mọi cách để tăng
vốn, trong đó bao gồm cả việc phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng (phát hành mới,
phát hành thêm, thưởng cuối năm bằng cổ phiếu) và đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho cổ phiếu ngân hàng luôn “nóng”.
- Có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu tư chứng
khoán theo 2 hướng:
(1) các nhà đầu tư cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng khoán
(2) những người khác (bao gồm cả công ty chứng khoán của ngân hàng) lại vay
tiền của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán (theo báo cáo của Ngân
hàng Nhà nước, tỷ lệ các ngân hàng thương mại cho các công ty chứng khoán ngân
hàng vay để kinh doanh chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2006 là 2,6%). Qua đây

5

×