SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1: Bộ máy tổ chức NHNN
Hình 2: Bộ máy tổ chức FED
Hình 3: Bản đồ các khu vực quản lý của các Ngân hàng FED khu vực
Bảng 1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ 01/2008 – 01/2011.
Bảng 2: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79
Bảng 3: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ tháng 12/2010
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BH: Bảo hiểm
BHTG: Bảo hiểm tiền gửi
CK: chứng khoán
CSHT: cơ sở hạ tầng
FED: Cục dự trữ liên bang Mỹ (federal reserve system)
NGNN: Ngân hàng Nhà nước
NHDT: Ngân hàng dự trữ
NHNNVN: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHQG: Ngân hàng Quốc gia
NHTK: Ngân hàng tiết kiệm
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
TCNH: Tài chính – Ngân hàng
TCTD: tổ chức tín dụng
TTCK: Thị trường chứng khoán
TTTC: Thị trường tài chính
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 1
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới hiện nay, hệ thống tài
chính đóng vai trò quan trọng vì tạo ra các kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn đến
người thiếu vốn, cung cấp các dịch vụ tài chính như: chia sẻ rủi ro, tính lỏng, thông tin
các giao dịch tài chính. Hoạt động của các tổ chức tài chính trên thế giới đã ra đời và
phát triển mạnh mẽ…Tính ưu việt của các tổ chức tài chính này đã tạo nên một kênh
dẫn vốn rất quan trọng đến các doanh nghiệp và thực tế cho thấy hoạt động của các tổ
chức tài chính là một trong những nhân tố đẩy nhanh trình độ phát triển công nghệ ở
các nước, nhất là đối với các nước chậm phát triển. Đối với một số quốc gia trên thế
giới thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Và để đáp ứng được nhu cầu này một số
nước đã rất tích cực trên mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Tuy nhiên trong thời gian qua vốn đầu tư còn bị hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau trong đó có chính sác đầu tư còn nhiều bất cập. Nhằm khắc phục tình trạng này
việc đưa ra một cơ chế đầu tư hợp lý là điều cần thiết. Chính vì vậy các tổ chức tài
chính ra đời ở những nước này là một giải pháp hữu hiệu.
Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức tài chính này còn mới mẻ sơ khai chưa có
môi trường pháp lý và định hướng rõ ràng. Thiếu những văn bản pháp quy hoàn chỉnh
và đồng bộ, có một số văn bản pháp quy đến nay đã không còn phù hợp. Và tất nhiên
để hoạt động ngày một hiệu quả hơn, các tổ chức tài chính đều mong muốn đất nước
có một hệ thống tài chính rõ ràng, tối ưu và đi sát với thực tiễn hiện nay.
Hệ thống tài chính Mỹ được cho là một hệ thống phức tạp về cấu trúc và chức
năng. Đặc biệt nền kinh tế Mỹ đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ
năm 1930 không chỉ khiến cho nền kinh tế của Mỹ mà kinh tế của cả thế giới cũng
lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng. Một nguyên nhân cơ bản là sự giám sát hệ
thống tài chính.
Tại Việt Nam, hệ thống tài chính còn non trẻ và ít nhiều cũng đã hứng chịu tác
động tiêu cực theo xu thế suy thoái kinh tế của Mỹ và toàn cầu. Do đó đặt ra cơ hội có
thể rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong hệ thống tài chính ở Việt
Nam, góp phần vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế là một yêu cầu cấp thiết đang
đặt ra từng ngày. Nhận thức rõ được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 2
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
đã chọn đề tài: “So sánh hệ thống tài chính của Việt Nam và Mỹ” làm đề tài nghiên
cứu.
Mục tiêu của đề tài:
- Cung cấp cái nhìn tổng quan về hệ thống tài chính của Mỹ và Việt Nam.
- Nắm được nét chính về hoạt động và công cụ tài chính của các thị trường tài chính.
- Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của các định chế tài chính như: ngân hàng,
công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán,…
Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin, dữ liệu từ các nguồn khác nhau.
- So sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp mô hình hóa sử dụng bảng biểu, đồ thị.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hệ thống tài chính của Mỹ và Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu dựa trên phương pháp tư duy phân tích kinh tế. Đi
từ tổng quan đến cụ thể cấu trúc mô hình thị trường tài chính.
Do đây là một lĩnh vực có tính vĩ mô cao, cộng với trình độ nhóm viết còn hạn chế
nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong cô đóng góp, chỉ
bảo để đề tài của nhóm được hoàn chỉnh hơn.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Khái niệm
Thị trường tài chính là một thị trường mà trong đó tài sản tài chính được giao
dịch. Ngoài việc cho phép trao đổi tài sản tài chính phát hành trước đó, TTTC tạo
điều kiện cho vay và cho vay bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán tài sản
tài chính mới được ban hành.
2. Phân loại
2.1. Việt Nam
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 3
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Dựa vào thời hạn tín dụng:
Thị trường tiền tệ: là nơi các công cụ ngắn hạn được mua bán với số lượng lớn.
Thị trường vốn: là nơi các công cụ vốn, công cụ nợ trung gian dài hạn (do các
chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các công ty cổ phần, doanh
nghiệp phát hành) được trao dổi chuyển nhượng mua bán theo quy định của pháp
luật
Dựa vào loại tín dụng: hiện việt nam cũng đã có thị trường tín phiếu, thị trường
trái phiếu, thị trường cổ phiếu, thị trường vay nợ, ngân hàng
Thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp
Thị trường tập trung, thị trường phi tập trung: số lượng doanh nghiệp giao dịch
trên thị trường tập trung là rất ít, giao dịch trên thị trường phi tập trung là chủ yếu
Thị trường chính thức và phi chính thức
Thị trường chính thức: các ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty chứng
khoáng…
Thị trường không chính thức: hợp tác xã tín dụng, các tổ chức tín dụng vi mô ở
nông thôn
2.2. Mỹ
Thị trường tài chính Hoa Kỳ cũng bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn
• Thị trường tiền tệ Hoa Kỳ: liên quan đến vay ngắn hạn, cho vay, mua và bán với
kỳ hạn ban đầu của một năm hoặc ít hơn. Kinh doanh trong thị trường tiền tệ
được thực hiện qua truy cập, bán buôn. Cụ thể với những công cụ: trái phiếu kho
bạc, thương phiếu, ngân hàng, chấp nhận, tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu,
thỏa thuận mua lại, các quỹ liên bang, các chứng khoán ngắn hạn và tài sản thế
chấp. Nó cung cấp tính thanh khoản tài trợ cho hệ thống tài chính toàn cầu.
• Thị trường vốn Mỹ: người Mỹ tự hào về hiệu quả của thị trường chứng khoán và
thị trường vốn khác, cho phép số lượng lớn người bán và người mua tham gia
vào hàng triệu giao dịch mỗi ngày. Chính phủ liên bang cũng đã đóng một vai
trò ngày càng quan trọng trong việc đảm bảo xử lý tính trung thực và công bằng
qua các giao dịch.
Việc thực hiện có hiệu quả vốn thị trường, cổ phiếu và trái phiếu được phát hành
và giao dịch, tạo ra lợi thế rất lớn về kinh tế tài chính Mỹ nói chung, và thành phố
New York nói riêng.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 4
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Ví dụ:về các thị trường tài chính bao gồm New York Stock Exchange (bán lại cổ
phần chứng khoán phát hành trước đó), thị trường trái phiếu chính phủ Mỹ (bán lại
trái phiếu phát hành trước đó), và bán đấu giá trái phiếu kho bạc Mỹ (doanh số bán
hàng-tín phiếu kho bạc mới ban hành).
Tổ chức tài chính là một tổ chức có chính nguồn gốc của lợi nhuận thông qua
các giao dịch tài sản tài chính. Ví dụ của các tổ chức tài chính bao gồm môi giới
giảm giá (ví dụ, Charles Schwab và Associates), ngân hàng, các công ty bảo hiểm,
và đa chức năng tổ chức tài chính phức tạp, chẳng hạn như Merrill Lynch.
2.3. Nhận xét
Việt Nam và Mỹ đều chia thị trường tài chính thành hai thị trường chính: thị
trường tiền tệ và thị trường vốn.
Tuy nhiên: Thị trường tiền tệ Hoa Kỳ rất hiệu quả ở chỗ nó cho phép một số
tiền lớn để được chuyển giao một cách nhanh chóng và với chi phí thấp từ một
đơn vị kinh tế (kinh doanh, chính phủ, ngân hàng, vv) sang một đơn vị kinh tế
khác trong thời gian tương đối ngắn.
II. CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
1. Ngân hàng trung ương
Trên thế giới hiện nay có hai mô hình tổ chức NHTW: một là mô hình ngân
hàng trực thuộc Chính phủ như: NHTW Anh, Pháp, Nhật, Việt Nam,…; hai là mô
hình NHTW không trực thuộc Chính phủ như: FED,…
1.1. Thành lập
- NHNNVN: sắc lệnh 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 6/5/1951.
- FED: năm 1913 theo Federal Reserve Act (Đạo luật dự trữ liên bang) được Quốc
Hội Mỹ thông qua.
1.2. Vị trí
- NHNNVN: là cơ quan ngang bộ của Chính Phủ, là Ngân hàng trung ương của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NHNNVN là pháp nhân, có vốn
pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.
- FED là tổ chức độc lập với chính phủ và Quốc hội Mỹ. Trụ sỡ chính của FED
hiện nay ở Washington, D.C
1.3. Bộ máy tổ chức
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 5
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- NHNNVN: thống đốc các cục trưởng, vụ trưởng và Hội đồng tư vấn chính sách
tiền tệ Quốc Gia,…
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 6
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- FED: Hội đồng thống đốc, ủy ban thị trường, các ngân hàng của FED và các
ngân hàng địa phương.
1.4. Lãnh đạo
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 7
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- NHNNVN: Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu
và lãnh đạo NHNN; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc
hội về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Thống đốc NHNN
do thủ tướng chính phủ đề nghị quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm. Thống đốc của
NHNNVN hiện nay là: Nguyễn Văn Bình. Từ khi thành lập đến nay thì
NHNNVN đã trải qua 13 đời thống đốc: Nguyễn Lương Bằng (1951 – 1952), Lê
Viết Lượng (1952 – 1963), Tạ Hoàng Cơ (1963 – 1974), Đặng Việt Châu (1974
– 1976), Hoàng Anh (1976 – 1977), Trần Dương (1977 – 1981), Nguyễn Duy
Gia (1981 – 1986), Lữ Minh Châu (1986 – 1989), Cao Sỹ Liêm (1989 – 1997),
Đỗ Quế Lượng (1997 – 1998), Nguyễn Tấn Dũng (1998 – 1999), Lê Đức
Thúy(1999 – 2007), Nguyễn Văn Giàu (2007 – 2011), Nguyễn Văn Bình (2011
đến nay).
- FED: Điều hành FED là Ủy ban Thống đốc gồm bảy thành viên do Tổng thống
Mỹ bổ nhiệm và Thượng viện Mỹ phê chuẩn, nhiệm kỳ kéo dài đến 14 năm để
khỏi chịu tác động chính trị. Riêng chủ tịch và phó chủ tịch có nhiệm kỳ bốn
năm. Chủ tịch FED do Tổng thống bổ nhiệm, 2 thành viên khác của FED đại
diện cho Chính phủ là Bộ Tài chính và Kho bạc Mỹ, còn lại là các ông chủ ngân
hàng tư nhân. Trong đó, Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 1
thành viên trong vòng 2 năm. Như vậy, 1 nhiệm kỳ Tổng thống 4 năm thì Tổng
thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng
Thống đốc FED. Nếu nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 8 năm (2 nhiệm kỳ) thì
quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm chỉ được tối đa 4 người, và 4 người này phải
được Thượng viện thông qua. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của FED hiện nay là
Giáo Sư Ben Bernanke. Từ khi thành lập
- đến nay FED đã có 14 đời chủ tịch: Charles S. Hamlin (1914 - 1916), William P.
G. Harding (1916 – 1922), Daniel R. Crissinger (1923 – 1927), Roy A. Young
(1927 – 1930), Eugene Meyer ( 1930 – 1933), Eugene R. Black (1933 – 1934),
Marriner S. Eccles (1934 – 1948), Thomas B. McCabe (1948 - 1951), William
McChesney Martin, Jr (1951 – 1970), Arthur F. Burns (1970 – 1978), G.
William Miller (1978 – 1979), Paul A. Volcker (1979 – 1987), Alan Greenspan
(1987 – 2006), Ben BernanKe 2006 – nay)
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 8
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
1.5. Tính độc lập: bao gồm độc lập về việc lựa chọn công cụ và độc lập về lựa chọn
mục tiêu khi thực hiện chính sách tiền tệ)
- NHNNVN: thấp do trực thuộc và phải nhận chỉ thị từ chính phủ( các chính sách
cũng phải có chính phủ quyết định), ngân sách hoạt động cũng do chính phủ xét
duyệt.
- FED: Cao do độc lập với chính phủ ( để thay đổi quy chế của FED Quốc hội
thậm chí còn phải sửa đổi cả hiến pháp), các lãnh đạo có nhiệm kỳ và không
được tái cử, ngân sách hoạt động độc lập.
1.6. Các ngân hàng thành viên
- NHNNVN: NHNNVN và các chi nhánh ở tỉnh, thành phố.
- FED: FED gồm 12 ngân hàng địa phương và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ nên
chính thức mà nói, đây là hệ thống ngân hàng trung ương chứ không phải là một
ngân hàng trung ương riêng lẻ. 12 ngân hàng của FED gồm: Boston, New York,
philadelphia, Cleveland, Richmon, Atlanta, Chicago, St. Luois, Minneapolis,
Kansas City, Dallas, San Francisco, 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực được
thành lập bởi Quốc hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có
tổ chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng dự trữ liên
bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu. Việc sở hữu cổ phần này
khác với sở hữu cổ phần công ty thông thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang
khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều
kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế
chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài sản, ngân hàng Fed New
York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi hoạt động là quận 2 tiểu bang New
York, thành phố New York, Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 9
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
1.7. Đồng tiền phát hành
- NHNNVN: Việt Nam đồng “đ” do NHNNVN phát hành
- FED: đô la Mỹ (USD). Do các NHDT khu vực phát hành Mỗi ngân hàng khu
vực của FED được ký hiệu bằng chữ cái. Những cái này in trên giấy bạc mà
chúng phát hành. Boston (A), New York (B), philadelphia (C), Cleveland (D),
Richmon (E), Atlanta (F), Chicago (G) , St. Luois (H) , Minneapolis (I) , Kansas
City (J), Dallas (K), San Francisco (L)
1.8. Ngân sách hoạt động
- NHNNVN: Được sử dụng các khoản thu để trang trải chi phí hoạt động của
mình, chênh lệch thu chi sau khi trích quỹ được nộp vào ngân sách nhà nước
- FED: độc lập về tài chính, doanh thu đến từ tiền lãi của các tài sản nắm giữ
1.9. Nhiệm vụ
- NHNNVN: Phát hành tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý tiền tệ tham
mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính Phủ Việt Nam
•Phát hành tiền tệ: Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như
phương tiện trao đổi, NHTW trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý
mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp NHTW điều tiết mức cung
ứng tiền tổng hợp.Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều
chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể
tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm
của nền kinh tế.
•Quản lý tham mưu chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính Phủ Việt Nam:
Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động
của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả
của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô. Với lý do trên NHTW phải tham
gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này
NHTW gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các
hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết
kinh tế vĩ mô
•Thực hiện chính sách tiền tệ:
Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực
hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ. Qua đó điều tiết
lượng tiền cung ứng.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 10
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Đặc điểm: do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là
một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của chính sách tiền tệ vì khối
lượng chứng khoán mua (bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần
điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì thực
hiện thống qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác
tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có
sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
Dự trữ bắt buộc
Là số tiền dự trữ bắt buộc mà các Ngân hàng phải giữ lại do NHTW quy
định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay
và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của
khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân
hàng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại
tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ
phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về
tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa các ngân hàng cũng được quan tâm. Theo quy định
tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND)
và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ
lệ dự trữ bắt buộc được quy định như sau:
Bảng 1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam
từ tháng01/2008 – 01/2011
Tỷ lệ dự trữ bắt bụôc
(VND)
Văn bản
11%
1
- 5%
2
187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008
10%
1
- 4%
2
2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008
8%
1
- 2%
2
2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
6%
1
- 2%
2
2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
5%
1
- 1%
2
3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 11
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
3%
1
- 1%
2
379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009
(
1
): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng
(
2
): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
Nguồn:
Bảng 2: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79
Loại hình tổ chức tín dụng
379/QĐ-NHNN 79QĐ-NHNN
Tiền gửi
VND không
kỳ hạn và
dưới 12
tháng
Tiền gửi
VND từ 12-
24 tháng
Tiền gửi
ngoại tệ
không kỳ hạn
và dưới 12
tháng
Tiền gửi
ngoại tệ từ
12-24 tháng
1. NHTM nhà nước, NHTMCP
đô thị, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, công ty cho thuê tài
chính.
3% 1% 4% 2%
2. Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam
1% 1% 3% 1%
3. NHTMCP nông thôn, ngân
hàng hợp tác, quỹ tín dụng
nhân dân.
1% 1% 3% 1%
4. Tổ chức tín dụng khác. 0% 0% 0% 0%
Nguồn:
Lãi suất chiết khấu:
Ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách tiền
tệ, nó là yếu tố sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng
sang cơ chế tự hoạch toán kinh doanh
- FED: Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia , giám sát và quản lý các tổ chức tín
dụng, duy trì sự ổn định của nền kinh tế , cung cấp các dịch vụ tài chính cho các
tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính
phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 12
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
•Kiểm soát cung ứng tiền tệ: FED kiểm soát quy mô nguồn cung ứng tiền tệ
bằng các hoạt động thị trường mà qua đó FED mua hoặc cho mượn các loại trái
phiếu, giấy tờ có giá. Những tổ chức tham gia mua bán với FED gọi là người
giao dịch ưu tiên (primary dealers). Tất cả hoạt động thị trường của FED ở Hoa
Kỳ đều tiến hành tại bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang
khu vực New York với mục đích là đạt được tỷ lệ lãi suất trái phiếu liên bang
gần với tỷ lệ mục tiêu, gồm:
Thỏa thuận mua lại: Thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có
thế chấp. Để đảm bảo những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc
tạm thời, bàn giao dịch thị trường của NHDT liên bang New York tham gia
các thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiền. Các mua bán chủ
yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo của FED. Trong ngày giao
dịch, FED sẽ đặt tiền vào tài khoản của người giao dịch và nhận thế chấp
(là các giấy tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v ). Khi hết
hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại FED hoàn lại chứng khoán và
nhận lại tiền cùng lãi. Thời hạn giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay
qua đêm) tới 65 ngày, phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14 ngày.
Giao dịch mua đứt: Một công cụ khác của bàn giao dịch thị trường là mua
đứt. Trong giao dịch này, FED mua lại trái phiếu chính phủ và cung cấp
giấy bạc mới vào tài khoản của người giao dịch đặt tại FED. Bởi hoạt động
này là mua đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn
khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 12-18 tháng. Từ những năm 1980,
FED cũng bán quyền mua trái phiếu chính phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán
quyền mua này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà giao dịch ưu tiên sẽ bị
khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại FED, do đó mà quá trình tạo ra tiền
lưu thông bị hạn chế. Bởi các giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng
trong thời gian ngắn, chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của hoạt
động này là tạm thời bởi các giao dịch sẽ đáo hạn, tác động dài hạn là dự
trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất của giao dịch (lãi suất một ngày của tỷ lệ
4,5%/năm là 0,0121%). FED tiến hành giao dịch này hàng ngày trong
2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành nhằm tạm thời
giảm nguồn cung tiền tệ.Trong giao dịch thỏa thuận bán lại (reverse repo),
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 13
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
FED sẽ vay tiền từ các người giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các
chứng khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn, FED sẽ hoàn trả tiền và các
khoản lãi.
•Thực hiện chính sách tiền tệ:
Mua và bán trái phiếu Chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (FED) mua trái
phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong
lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng.
Khi FED bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút
bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ
ngân hàng khó khăn hơn.
Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn
lượng tiền mà nó quản lý. Nếu FED yêu cầu các ngân hàng này phải dự trữ
một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó
hơn và lãi suất tăng lên.
Thay đổi lãi suất của khoản vay từ FED: Các ngân hàng thành viên của
FED vay tiền từ FED để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà FED
ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có
ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ được vay.
Bảng 3 : tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ tháng 12/2010
Yêu cầu dự trữ
Loại trách nhiệm
Yêu cầu
% Của các
khoản nợ
Ngày có hiệu
lực
Tài khoản giao dịch thuần
$ 0 đến $ 10.700.000 0 30/12/2010
Nhiều hơn $ 10.700.000 đến 58.800.000 $ 3 30/12/2010
Nhiều hơn $ 58.800.000 10 30/12/2010
Nonpersonal tiền gửi thời gian 0 27/12/1990
Eurocurrency nợ 0 27/12/2010
Nguồn:
•Tỷ lệ chiết khấu:
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 14
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
FED thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách định hướng "lãi suất quỹ
vốn tại Fed". Đây là tỷ lệ các ngân hàng ấn định với nhau cho khoản vay qua
đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỷ lệ này do thị trường quyết định
chứ Fed không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở con số phù
hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ
thông qua hoạt động của nó trên thị trường
FED còn ấn định tỷ lệ chiết khấu – lãi suất mà các NHTM phải trả khi vay
tiền từ FED. Tuy nhiên, các ngân hàng thường lựa chọn cách vay quỹ đặt cọc tại
FED từ một ngân hàng khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của
FED. Lý do của cách lựa chọn này là việc vay tiền từ FED mang tính công khai
rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức
độ tin cậy của ngân hàng đang đi vay.
Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ thường cao hơn 3% so với "lãi
suất quỹ vốn tại Fed". Lãi suất ưu đãi là tỷ lệ mà các ngân hàng tính lãi đối với
khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất.
Ở mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay
thấp, do đó mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp tăng cường mua bán.
Ngược lại, lãi suất cao đưa đến kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn.
Cục dự trữ liên bang thường điều chỉnh “lãi suất quỹ vốn tại Fed” mỗi lần ở
mức 0,25% hoặc 0,5%. Từ năm 2001 đến giữa năm 2003, Fed hạ lãi suất 13 lần,
từ 6,25% xuống 1% nhằm chống lại xu hướng suy thoái kinh tế. Tháng 11 năm
2002, lãi suất do FED điều chỉnh chỉ còn 1,75% và nhiều mức thấp hơn cả tỷ lệ
lạm phát. Ngày 25/03/2003, "lãi suất quỹ vốn tại FED" tụt xuống mức 1%, con
số thấp nhất kể từ tháng 07 năm 1958 – 0,68%. Bắt đầu từ giữa tháng 06/2004,
Cục dự trữ liên bang bắt đầu nâng lãi suất định hướng 17 lần liên tục lên 5,25%
ngày 08/08/2006.
Có thể FED cũng đã nỗ lực các hoạt động mua bán trên thị trường nhằm thay
đổi tỷ lệ cho vay dài hạn. Tuy nhiên năng lực của nó yếu hơn rất nhiều các định
chế tài chính tư nhân.
2. Các định chế tài chính
2.1. Ngân hàng thương mại
2.1.1. Về khái niệm
Ở Việt Nam: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận ký gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 15
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán.
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
2.1.2. Các nghiệp vụ của NHTM
Huy động vốn: nhận tiền gửi, các loại tiền bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người
gửi mà không phải tôn trọng một kỳ hạn ký thác nào khác. Có nhiều loại tiền
gửi không kỳ hạn:
• Tiền gửi dùng séc: là loại tiền gửi dùng để chi trả các Séc và hối phiếu
• Tiền gửi tiết kiệm: là tiền gửi vào tài khoản tiết kiệm còn gọi là tài khoản
dùng sổ. Đó là những khoản tiền gửi nhỏ, ổn định tương đối lâu ở tài
khoản, được hưởng lãi, tương đối cao hơn lãi của tiền gửi thông dụng
Luật Mỹ cho phép ngân hàng có thể buộc người gửi tiết kiệm phải báo 30
ngày trước khi rút nhưng các ngân hàng không sử dụng quyền này, không
đòi hỏi phải báo trước vì nó có thể bị giới hạn về ngạch số tiền gửi tối đa
(100.000 USD)
• Tiền gửi có thấu chi: ở Mỹ, có sự phối hợp gửi tiền vào tài khoản tiết kiệm
và tài khoản dùng séc bằng cách gửi tiền vào tài khoản ATS (automatic
Transfer Service Account). Từ ngày 1/11/1978, NHTM được phép trả lãi
cho TK dùng séc bằng cách gửi tiền vào TK dùng séc để rút tiền bằng séc
- Các loại tiền gửi đặc biệt của Hoa Kỳ: ngoài các loại tiền gửi thông dụng như
của Việt Nam thì Hoa Kỳ còn có những loại tiền gửi vào những tài khoản đặc
biệt được áp dụng từ thập niên 1970 và 1980. Đó là tiền gửi phối hợp giữa
tiền gửi dùng Séc và tiền gửi tiết kiệm vào những tài khoản giao dịch bao gồm
lệnh rút tiền giao dịch và dịch vụ chuyển ngân tự động.
Nghiệp vụ đầu tư vốn:
- Đầu tư chứng khoán: các định chế tài chính là các nhà đầu tư trên thị trường
tài chính. Đây là nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay. Thông thường
chứng khoán mà họ đầu tư bao gồm những chứng khoán an toàn nhất như:
trái phiếu kho bạc đến những khoản đầu tư tương đối an toàn. Nếu tính về
thời hạn, có những chứng khoán rất ngắn hạn chỉ có 24h ở Mỹ có thỏa ước
mua lại (RPs) do NHTM phát hành để vay trong 24h, có khi gọi là thỏa ước
qua đêm.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 16
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- Cho vay: là hình thức thông dụng nhất của các định chế tài chính nói chung
và của ngân hàng nói riêng trên khắp thế giới. Việt Nam hay Mỹ cũng vậy.
Tại Hoa Kỳ, cho vay chiếm gần 60% tổng tích tài sản của NHTM.
2.2. Các tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ
chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác
Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp luật
nước ngoài
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác
Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân
hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động
ngân hàng nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh
doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng
nhân dân và các hình thức khác.
Các loại hình tổ chức tín dụng (theo sở hữu): Tổ chức tín dụng được thành lập
theo pháp luật Việt Nam bao gồm tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ
phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng
100% vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân
hàng nước ngoài tại Việt nam
2.2.1. Ngân hàng tiết kiệm
NHTK được thành lập với mục đích huy động các khoản tiền tiết kiệm của
các cá nhân trong xã hội. Chủ nhân của các ngân hàng tiết kiệm cũng chính là
những người gửi tiền tiết kiệm.
Phương thức hoạt động của NHTK mang tính tương trợ là chủ yếu, chứ không
như ngân hàng thương mại là nhằm mục đích kinh doanh là chính.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 17
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Vốn hoạt động chủ yếu của NHTK là từ tiền gửi tiết kiệm của dân chúng hoặc
là vốn đóng góp của các nhà hảo tâm với tính chất hỗ trợ người nghèo là chính
hơn là đóng góp để kiếm lời. Loại ngân hàng này không phát hành các công cụ
nợ để vay vốn của công chúng và cũng hầu như không vay của các tổ chức nước
ngoài hay NHTW, trừ trường hợp đặc biệt thiếu tiền mặt.
Do tính chất đặc biệt của vốn huy động, các NHTK cho vay rất thận trọng.
Tiêu chuẩn hàng đầu trong vấn đề cho vay là sự an toàn. Đối tượng cho vay chủ
yếu là các khoản vay cầm cố, thế chấp bằng nhà cửa, tài sản hoặc chứng khoán.
Tiếp đó là đầu tư vào chứng khoán hoặc cho các ngân hàng thương mại khác
vay. Nhìn chung những người được vay tiền tại các ngân hàng này cũng chính là
những người đã gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Lãi suất cho vay thường rất
thấp vì nó mang tính chất tương trợ nhiều hơn là kinh doanh.
Ở Mỹ, NHTK tồn tại dưới hình thức các ngân hàng tiết kiệm tương trợ
(Mutual savings banks). Các NHTK tương trợ này thu hút tiền vốn bằng cách
nhận tiền gửi và dùng chúng trước hết để cho vay thế chấp. Những người gửi
tiền đồng thời là người chủ sở hữu các ngân hàng này. Trước năm 1980, các
ngân hàng này bị hạn chế ở các khoản cho vay bất động sản, nhưng ngày nay họ
đã được phép phát hành các tài khoản tiền gửi có thể phát séc dưới dạng các tài
khoản NOW hay Super NOW và thực hiện các khoản cho vay khác ngoài cho
vay bất động sản như vay tiêu dùng, vay cho sản xuất nông nghiệp, cũng như
cung cấp các dịch vụ như tín thác, phát hành thẻ tín dụng.
Ở Việt Nam không có NHTK riêng biệt, hầu như tất cả các ngân hàng thương
mại đều có bộ phận quỹ tiết kiệm để huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư nhằm
hình thành nguồn vốn chung của ngân hàng thương mại.
2.2.2. Quỹ tín dụng
Quỹ tín dụng được thành lập theo hình thức góp vốn cổ phần và hoạt động
theo nguyên tắc tập thể, tự nguyện, hợp tác và bình đẳng. Các thành viên của
quỹ góp tiền vào quỹ dưới hình thức mua các thẻ thành viên (tương tự như cổ
phiếu) có mệnh giá bằng nhau. Sau đó, họ cùng nhau bầu ra người quản lý. Các
thành viên của quỹ sẽ được hưởng quyền vay tiền của quỹ khi cần. Khi cần thêm
vốn, quỹ lại phát hành thêm thẻ thành viên và tiếp nhận thêm những thành viên
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 18
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
mới. Thông thường quỹ không cho người ngoài vay tiền. Ngoài cho các thành
viên vay, quỹ cũng có thể đầu tư vào chứng khoán.
Ở Việt Nam, quỹ tín dụng tồn tại dưới dạng các tổ chức tín dụng hợp tác. Đây
là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân
và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng theo Luật Các tổ
chức tín dụng và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát
triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng
hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng và các hình thức khác . Theo
Điều 64 Luật Các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng hợp tác được huy động
vốn của các thành viên và của các tổ chức cá nhân để cho các thành viên vay.
Việc cho các đối tượng không phải là thành viên vay phải được Đại hội thành
viên hoặc Đại hội đại biểu chấp thuận và không được vượt quá tỷ lệ tối đa do
Ngân hàng Nhà nước quy định”.
Ở Mỹ, các liên hiệp tín dụng (Credit Unions) cũng có mô hình tương tự như
quỹ tín dụng. Đây là các tổ chức cho vay có quy mô nhỏ, có tính chất hợp tác xã,
được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt (ví dụ các nhân viên của một
công ty). Mục đích của các liên hiệp này là cho các thành viên vay với mức lãi
suất thấp nhất có thể. Họ thu nhận vốn bằng cách bán cổ phần cho các thành viên
và các thành viên ngoài việc được quyền vay ưu đãi còn được hưởng cả lãi từ cổ
phần mà họ mua. Các khoản vay từ quỹ chủ yếu phục vụ nhu cầu mua hàng hoá
tiêu dùng hơn là mua nhà. Từ sau năm 1980, các liên hiệp tín dụng này cũng
được phép phát hành các tài khoản tiền gửi thanh toán và có thể thực hiện các
khoản cho vay bất động sản ngoài các khoản cho vay tiêu dùng.
2.3. Thị trường chứng khoán
2.3.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam
Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam:
- Ngày 28/7/2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
chính thức đi vào hoạt động và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên đánh đấu sự
ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2
doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng
và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 19
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
- Đầu năm 2006 được coi là mốc thời gian mang tính chất phát triển “đột phá”,
tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với
hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh,
Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới
60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành
"điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới. Và sự bừng dậy của thị
trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài
nước.
- Trong giai đoạn 2007, luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp
phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị
trường tài chính quốc tế.
- Giai đoạn 2008: cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, thị trường chứng
khoán Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
- Giai đoạn 2009 đến nay: thị trường chứng khoán Việt Nam hồi phục chậm sau
khủng hoảng.
Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
- Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
- Các công ty chứng khoán
- Các tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm chính phủ, chính quyền địa
phương, các công ty cổ phần …
2.3.2. Thị trường chứng khoán Mỹ
Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất
trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng
to lớn của nó đối với các thị trường chứng khoán khác.
Thị trường chứng khoán Mỹ được thành lập vào năm 1792 và được hình
thành hoàn chỉnh từ năm 1934 cho đến nay. Xét theo tính chất tổ chức thị
trường, thị thường chứng khoán Mỹ được chia thành thị trường chứng khoán tập
trung và thị trường chứng khoán phi tập trung.
- Các thị trường chứng khoán tập trung bao gồm 14 sở giao dịch chứng khoán
trên khắp nước Mỹ. Sở giao dịch chứng khoán Newyork (NYSE) là sở giao
dịch chứng khoán lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ, đây hiện là trung tâm giao
dịch chứng khoán lớn nhất thế giới, quản lý tới hơn 80% các giao dịch chứng
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 20
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành thị trường chứng khoán quốc
gia. Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock Exchange - AMEX) là thị
trường chứng khoán tập trung lớn thứ 2 ở Mỹ.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung của Mỹ cũng rất phát triển, đó là Nasdaq.
Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm 1971 là thị
trường có số lượng chứng khoán giao dịch lớn nhất ở Mỹ với 15000 chứng
khoán. Chứng khoán của các công ty thuộc ngành Công nghệ thông tin, các
công ty vừa và nhỏ chiếm đa số trên thị trường này.
Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán Mỹ:
- Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Mỹ (SEC)
- Các sở giao dịch chứng khoán
- Các công ty chứng khoán
- Các tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm chính phủ, chính quyền địa
phương, các công ty cổ phần …
2.3.3. Nhận xét:
Ta có thể nhận thấy rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ mới ra đời
cách đây 12 năm và còn rất non trẻ so với thị trường chứng khoán Mỹ. So sánh
thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam với một thị trường lâu đời như Mỹ
là khập khiễng, nhưng thị trường Mỹ có một số điểm đáng để chúng ta học tập.
- Thị trường chứng khoán Mỹ hoạt động liên tục từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều,
nhưng luôn có rất nhiều người tham gia giao dịch với khối lượng cả tỷ cổ phiếu
mỗi ngày. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán Mỹ đưa ra những quy định
ngặt nghèo từ niêm yết đến báo cáo, từ môi giới đến tự doanh, từ phương thức
giao dịch đến sử dụng tiền vay… Tất cả đều quy định thành luật rõ ràng và các
công ty chứng khoán hay ngân hàng đầu tư có trách nhiệm thông báo những
quy định đó cho khách hàng của họ.
- Do thị trường chứng khoán tiềm ẩn rủi ro mất vốn rất cao, nên đa số nhà đầu tư
cá nhân đều ủy thác tài sản của họ cho những tổ chức chuyên nghiệp kinh
doanh và quản lý hộ, chứ không tự đi kinh doanh như ở Việt Nam. Do đó, số
lượng nhà đầu tư cá nhân rất ít. Trong khi đó, các tổ chức môi giới hay tư vấn
đầu tư thường có uy tín, có đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản, có kinh
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 21
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
nghiệm thực tế và phong cách chuyên nghiệp, không bao giờ trả lời cho khách
hàng những vấn đề mà họ không thông thạo.
Ngoài ra, các công ty chứng khoán bị ràng buộc với quy định: đảm bảo an
toàn tài sản và khả năng sinh tồn cho nhà đầu tư trong trường hợp mất vốn. Có
nghĩa là, nếu thu nhập của bạn thấp, mà bạn dùng hết tiền của bạn đi đầu tư vào
những dạng đầu tư mang tính rủi cao sẽ không được chấp thuận. Đây là điều mà
các công ty chứng khoán Việt Nam không có trong chính sách của họ, mà ngược
lại, có công ty còn khuyến khích khách hàng vay tiền để đầu tư, khi thị trường
chứng khoán tuột dốc thì chỉ việc giải chấp và thu hồi cả vốn lẫn lãi. Thậm chí,
có công ty còn tư vấn khách hàng mua cổ phiếu, trong khi khối tự doanh của họ
muốn bán ra cổ phiếu đó
2.3.4. Mối tương quan giữa thị trường chứng khoán Việt Nam và Mỹ hiện nay
Thị trường chứng khoán Việt Nam và Mỹ hiện nay chưa có liên hệ chặt chẽ. Tuy
nhiên, chúng cũng có sự biến động tương đối giống nhau vì nhìn chung thị trường
chứng khoán chịu ảnh hưởng rất lớn của sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh
tế phát triển kéo theo sự phát triển của thị trường chứng khoán và ngược lại khi nền
kinh tế khủng hoảng ảnh hưởng nhiều tới thị trường chứng khoán ….Vậy sự biến
động của thị trường Việt Nam và thị trường Mỹ tương đối giống nhau là một điều
hiển nhiên.
Khi Việt Nam hòa nhập hơn vào kinh tế khu vực và thế giới, thị trường chứng
khoán Việt Nam sẽ thiết lập một mối liên hệ dài hạn với những thị trường lớn như
Mỹ và các thị trường khác ngoài khu vực.
2.4. Thị trường bảo hiểm
2.4.1. Thị trường bảo hiểm Việt Nam
Các công ty bảo hiểm: Đến năm 2011 có khoảng 57 công ty bảo hiểm đang
hoạt động tại Việt Nam. Trong đó có 2 doanh nghiệp nhà nước, 24 công ty bảo
hiểm cổ phần, 4 công ty bảo hiểm liên doanh và 20 doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, Tổng công ty bảo hiểm Việt
Nam (Bảo Việt) chiếm thị phần chủ yếu. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ,
ba doanh nghiệp có thị phần lớn nhất là Bảo Việt, Prudential và AIA. Các công
ty bảo hiểm hoạt động theo Luật bảo hiểm và chịu sự quản lý của Bộ Tài chính.
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 22
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
Quy mô thị trường: Tổng số thu phí bảo hiểm năm 2011 gần 36.325 tỷ đồng,
tăng 18,4% so với năm trước trong đó bao hiểm phi nhân thọ tăng 20,4% và bảo
hiểm nhân thọ tăng 15%. Doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập
trung đầu tư vào trái phiếu và gửi tại các ngân hàng thương mại
2.4.2. Thị trường bảo hiểm Mỹ
Đến năm 2006 có khoảng 2.648 công ty bảo hiểm tài sản - thương vong và
1.257 công ty bảo hiểm nhân thọ - y tế tại Mỹ, trên thực tế, con số này có thể lớn
hơn. Tổng tài sản của công ty bảo hiểm tài sản - thương vong đạt 1.483tỷ $ trong
năm 2006. Tài sản tiền mặt và vốn đầu tư là $ 1.229 tỷ $, các công ty bảo hiểm
nhân thọ - y tế có tổng tài sản là 4.723 tỷ $. Tài sản tiền mặt và vốn đầu tư của
các công ty bảo hiểm lên tới 2874 tỷ $. Các công ty bảo hiểm tại Mỹ thường có
qui mô rất lớn, phát triển hệ thống trên khắp thế giới như AIA, Liberty Mutual,
ACE …
2.4.3. Nhận xét
Nếu so sánh, ta có thề thấy qui mô cũng như thi trường của các công ty bảo
hiểm Việt Nam trên toàn thế giới còn khoảng cách xa so với các công ty bảo
hiểm Mỹ. Đây là một thách thức không nhỏ cho các công ty bảo hiểm trong
nước khi thị trường bảo hiểm Việt Nam thật sự mở cửa hoàn toàn. Việc cấp giấy
phép hoạt động cho các công ty bảo hiểm của Mỹ được thực hiện theo Hiệp định
Thương mại song phương (BTA), do chính phủ Việt Nam và Mỹ phê chuẩn.
Theo BTA, có hiệu lực từ tháng 12/2001, các công ty bảo hiểm của Mỹ có thể
thành lập công ty liên doanh với các công ty Việt Nam từ tháng 12/2004 và công
ty 100% vốn nước ngoài từ tháng 12/2006.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, nhiều công ty bảo hiểm Mỹ đã dần
thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Tập đoàn bảo hiểm nhân thọ hàng đầu của
Mỹ New York Life (thành lập năm 1845t, với trên 200 tỷ USD giá trị tài sản,
doanh thu hàng năm trên 25 tỷ USD, hiện có thị trường rộng lớn tại châu Mỹ và
châu á) đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội vào 4/2000, Tháng 12/2001, New
York Life chính thức gửi hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
với 100% vốn nước ngoài lên Bộ Tài chính. Đồng thời, hai công ty bảo hiểm
khác của Mỹ là American International Group (AIG) và AON Inchibrok đã được
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 23
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Mới đây, Việt Nam cũng chính thức được
cấp phép hoạt động cho Tập đoàn ACE và Tập đoàn Marsh Inc., tập đoàn môi
giới bảo hiểm lớn nhất thế giới, với 100% vốn của Mỹ, với thời hạn hoạt động
50 năm…
Về triển vọng, quan hệ hợp tác kinh tế - bảo hiểm và những ngành khác như
ngân hàng, tài chính nói riêng và các quan hệ song phương toàn diện Việt Nam –
Hoa Kỳ nói chung chắc chắn sẽ có những phát triển mạnh mẽ hơn cả bề rộng,
lẫn bề sâu.
3. Một số loại hình tổ chức tài chính khác
3.1. Quỹ lương hưu.
Hiện Việt Nam chưa có quỹ lương hưu, nhưng có một quỹ rất lớn đó là bảo
hiểm xã hội Việt Nam. Phần thặng dư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ yếu
chuyển sang Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Một báo cáo gần đây cho biết, suy thoái kinh tế, khủng hoảng của thị trường tài
chính,chứng khoán thu hẹp tín dụng đã khiến quỹ lương hưu của các công ty hàng
đầu nước Mỹ bị thiệt hại tới 280 tỷ đôla. Theo thống kế của Merce, hãng chuyên
tư vấn nhân lực, kể từ cuộc khủng hoảng tín dụng vào mùa thu năm 2007, quỹ
lương hưu của 1.500 công ty hợp thành bộ chỉ số Standard & Poor 1.500 (là tổng
hợp của S&P 500, SP 600 và S&P 400), đã tổn thất 280 tỷ đôla.
3.2. Tiết kiệm bưu điện
Đây là tổ chức thực hiện các loại hình huy động tiết kiệm nhỏ lẻ dựa trên hệ
thống bưu cục rộng khắp của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Tổng số vốn Tiết kiệm bưu điện huy động được gần 30.000 tỷ đồng. Phần huy
động này chủ yếu chuyển giao sang cho Quỹ hỗ trợ Phát triển.
Năm 1911, hệ thống tiết kiệm Bưu điện Mỹ được thành lập mang tới cho người
dân Mỹ nơi gửi tiền tiết kiệm và chuyển tiền an toàn và hiệu quả. Tiền tiết kiệm
tại hệ thống lên tới 1,2 tỷ USD những năm 1930, tiếp tục tăng trong Thế chiến 2,
đạt đỉnh năm 1947 với gần 3,4 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 1967 hệ thống bị đóng
cửa vì bị coi là không cần thiết sau khi các ngân hàng tư nhân tăng lãi suất và
cung cấp dịch vụ bảo đảm như hệ thống tiết kiệm bưu điện. Ngày nay, đối mặt với
khủng hoảng tài chính, USPS có thể nhìn vào tấm gương của các ngân hàng bưu
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 24
SO SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ
chính kiểu mẫu như Kiwi Bank và Japan Post Bank để tìm ra đường sống chính từ
hệ thống mình từng loại bỏ.
3.3. Quỹ hỗ trợ và phát triển
Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức cấp tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (tín
dụng chỉ định) cho các dự án. Quỹ này trực thuộc Bộ tài chính. Các quỹ đầu tư
phát triển địa phương trực thuộc các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố. Các quỹ
này có nhiệm vụ cho vay các dự án theo định hướng phát triển của từng địa
phương. Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các địa phương
hoạt động không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng và không chịu sự
giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Tại Mỹ, các quỹ đầu tư chứng khoán đã có được một lịch sử hoạt động khá lâu
đời. Hình thức tín thác đầu tư (đơn vị tín thác đầu tư UITs) là hình thức ban đầu
của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Mỹ. Sau sự kiện TTCK sụp đổ vào năm 1929,
quỹ công ty xuất hiện và được biết đến với tên gọi là các công ty quản lý
(Management Company). Đây thực chất là một loại quỹ đầu tư chứng khoán được
tổ chức dưới dạng một công ty đầu tư dạng mở (quỹ tương hỗ) và công ty đầu tư
dạng đóng. Theo quy định của Mỹ, tất cả các quỹ đầu tư chứng khoán cho dù là
một công ty quản lý hay là một quỹ tín thác đều phải lập Hội đồng quản trị và ít
nhất 40% thành viên trong hội đồng phải là các thành viên độc lập không liên
quan tới công ty quản lý quỹ.
III. CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
1. Thị trường tiền tệ
1.1. Tín phiếu kho bạc
1.1.1. Tín phiếu kho bạc Việt Nam
Tín phiếu kho bạc: là loại giấy nợ do chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một
năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và là một công cụ
trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính sách
tiền tệ. (tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành). Tín phiếu
kho bạc thường có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hay 9 tháng với một hay
nhiều mức mệnh giá. Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro tín
dụng (rủi ro phá sản).
1.1.2. Tín phiếu kho bạc Mỹ
GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 25