Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Biện pháp quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.58 KB, 116 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi
lời cảm ơn tới:
- Phòng Quản lý Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Phòng
Đào tạo và các Phòng ban liên quan của Học viện Quản lý giáo dục cùng
toàn thể các thầy cô giáo đồng thời là các nhà khoa học giàu kinh nghiệm sư
phạm đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn và góp ý kiến cho tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
- Lãnh đạo, Ban chấp hành Công đoàn và các chuyên viên Cục Đào tạo
với nước ngoài – Bộ Giáo dục và Đào tạo đã động viên, giúp đỡ tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
- Gia đình và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên, ủng hộ về
vật chất và tinh thần trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Phúc
Châu đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài nghiên cứu khoa
học này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do thời gian có hạn và bản thân còn
những hạn chế nhất định trong kinh nghiệm quản lý giáo dục nên luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được những ý kiến
chỉ bảo của thầy cô giáo và góp ý của đồng nghiệp để các công trình khoa
học tiếp theo của mình có chất lượng hơn.
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Tâm
1
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
CNH: công nghiệp hóa
CNXH: chủ nghĩa xã hội
ĐH: đại học
ĐSQ: đại sứ quán
ĐTVNN: Đào tạo với nước ngoài


GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
GTT: giấy triệu tập
HĐH: hiện đại hóa
KH,KT: khoa học, kỹ thuật
KT-XH kinh tế - xã hội
NN: nước ngoài
NSNN: ngân sách Nhà nước
NXB: Nhà xuất bản
LHS: lưu học sinh
LB Nga: Liên bang Nga
QLGD: quản lý giáo dục
TS: tiến sĩ
ThS: thạc sĩ
XHCN: xã hội chủ nghĩa
2
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 6
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý sinh viên Việt Nam du học tại
nước ngoài
12
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 12
1.2. Một số khái niệm 15
1.3. Quan điểm lãnh đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước về
công tác đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao ở nước ngoài
22
1.4. Mục tiêu, ý nghĩa, đối tượng, hình thức, nội dung và quy trình đào
tạo cán bộ khoa học kỹ thuật tại cơ sở nước ngoài bằng NSNN
28
1.5. Các yếu tố tác động đến công tác quản lý sinh viên Việt Nam du

học tại nước ngoài
35
Tiểu kết chương 1 39
Chương 2: Thực trạng quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước
ngoài bằng ngân sách Nhà nước của Cục Đào tạo với nước ngoài –
Bộ Giáo dục và Đào tạo
40
2.1. Khái quát chung về công tác quản lý sinh viên du học tại nước
ngoài của Việt Nam
40
2.2. Kinh nghiệm quản lý sinh viên du học của một số nước trong khu
vực
47
2.3. Thực trạng quản lý quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước
ngoài của Cục Đào tạo với nước ngoài bằng NSNN
50
2.4. Nhận định chung về thực trạng quản lý sinh viên Việt Nam du học
tại nước ngoài bằng NSNN
62
Tiểu kết chương 2 70
3
Chương 3: Biện pháp quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước
ngoài bằng ngân sách Nhà nước trong giai đoạn hiện nay 72
3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp 72
3.2. Các biện pháp quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài
bằng ngân sách Nhà nước trong giai đoạn hiện nay
75
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp 90
3.4. Khảo nghiệm mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 91
Tiểu kết chương 3 97

Kết luận và khuyến nghị 99
Tài liệu tham khảo 105
Phụ lục 109
4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 2.1 Bảng tổng hợp số lượng sinh viên đã đi học tại các
nước (từ năm 2000 đến 31/12/2009)
57
Bảng 2.2 Đánh giá mức độ hiệu quả công tác sử dụng kinh phí 58
Bảng 2.3 Đánh giá thời gian xử lý các bước trong quy trình ra
quyết định cử đi học
61
Bảng 3.1 Kết quả khảo nghiệm mức độ cần thiết của các biện
pháp
93
Bảng 3.2 Kết quả khảo nghiệm mức độ khả thi của các biện pháp 94
Biểu đồ 3.1 Mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp 96
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
5
Thế giới đang chuyển đổi từ nền văn minh vật chất sang nền văn minh
tinh thần, từ nền kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Sự phát
triển như vũ bão của khoa học công nghệ, toàn cầu hóa kinh tế tri thức và
kinh tế thị trường là đặc trưng và xu thế rõ nét trong trong thời đại hiện nay.
Con người của Thế kỷ 21 không những cần được giáo dục, được đào tạo công
phu để trở thành những công dân tự chủ, có nhân cách, có năng lực nghề
nghiệp, am hiểu về đất nước và thế giới, tận tâm với công việc, làm chủ được
khoa học kỹ thuật mà còn có đủ khả năng để hoạch định các chính sách, chiến
lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH)cho đất nước. Việt Nam

cũng không nằm ngoài xu thế chuyển đổi đó, đang phát triển KT-XH trong
bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.
Một trong những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế đã
được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Cộng sản Việt Nam “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức”. Để đạt được mục
tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã xác định điều kiện tiên quyết là chúng ta
phải có nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá
(CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước.
Hiện nay, nhân lực của nước ta vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng đầy đủ và có
hiệu quả các yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) và chủ động trong hội nhập quốc tế, thực thi cam kết với
WTO, chúng ta phải chấp nhận cơ chế thị trường trong một số lĩnh vực như
giáo dục đại học (ĐH), giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên, trong
đó, có vấn đề liên kết hợp tác, thu hút đầu tư nước ngoài (NN), nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nhân lực cho đất nước.
6
Trong thời kỳ trước năm 1990, việc gửi sinh viên và cán bộ đi học ở
nước ngoài chủ yếu dựa trên nguồn ngân sách do Liên Xô (cũ) các nước
XHCN viện trợ. Sau năm 1990, khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu
sụp đổ, việc gửi sinh viên và cán bộ ra NN học tập gặp nhiều khó khăn, số
lượng sinh viên Việt Nam đi học NN bị giảm đột ngột.
Thời kỳ những năm 1990 – 2000, nhờ mở rộng quan hệ hợp tác với
nhiều nước, số lượng sinh viên và cán bộ được cử đi đào tạo tại NN đã tăng
dần, nhưng còn quá ít. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở NN còn bị động,
phụ thuộc vào nguồn tài trợ của các nước, các quỹ học bổng, các tổ chức
Chính phủ, phi Chính phủ và các dự án hợp tác song phương. Số lượng và cơ
cấu ngành nghề chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước.

Từ năm 2000 đến nay, Đảng và Nhà nước đã chủ động sử dụng kinh phí
Nhà nước để đào tạo sinh viên và cán bộ Việt Nam ở NN thông qua Đề án
“Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách
Nhà nước” được Chính phủ phê duyệt bằng Quyết định số 322/QĐ-TTg ngày
19 tháng 04 năm 2000 (gọi tắt là Đề án 322) và Quyết định số 356/QĐ-TTg
ngày 28 tháng 04 năm 2005 về việc điều chỉnh, gia hạn và đổi tên Đề án
thành “Đề án đào tạo cán bộ tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách Nhà
nước” và thực hiện đến hết năm 2014; đồng thời Nhà nước còn cho phép sử
dụng nguồn kinh phí xử lý nợ của Việt Nam với Liên bang Nga để đào tạo
cán bộ, sinh viên tại Liên bang Nga và một số nước khác (gọi tắt là Đề án Xử
lý nợ). Các Đề án trên được Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) giao cho Ban
Điều hành các đề án đào tạo ở nước ngoài triển khai, thực hiện. Từ năm 2008,
do Cục Đào tạo với nước ngoài của Bộ GD&ĐT trực tiếp quản lý.
Kể từ khi các Đề án trên đi vào hoạt động, số lượng người Việt Nam học
tập ở NN bằng nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) ngày càng tăng. Đa số lưu
học sinh (LHS) du học ở nước ngoài có ý thức chính trị, học tập tốt, đoàn kết
7
và giúp đỡ nhau trong học tập, được các cơ sở đào tạo nước ngoài đánh giá
cao. Bên cạnh những mặt tích cực, còn có một số sinh viên học tập kém do
trình độ ngoại ngữ không đáp ứng với yêu cầu của trường bạn, một số sinh
viên vi phạm quy chế quản lý công dân Việt Nam ở nước ngoài, gây dư luận
xấu ở một số nơi, một số LHS phải về nước trước thời hạn, một số LHS học
xong không về nước Một trong những nguyên nhân cơ bản của các điểm
yếu kém này là do công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài
còn nhiều bất cập: thiếu sự chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành
chức năng; cơ quan Việt Nam quản lý LHS học tập tại nước ngoài chưa được
tổ chức phù hợp; các văn bản chế tài chưa có hoặc chưa đầy đủ.
Là một chuyên viên công tác tại Cục Đào tạo với nước ngoài của Bộ
GD&ĐT, có nhiều công việc đang đảm nhận liên quan trực tiếp đến việc cử
các đối tượng đi học tại nước ngoài bằng NSNN và quản lý việc LHS được cử

đi học ở nước ngoài. Hiện nay, tôi đang học cao học chuyên ngành quản lý
giáo dục, với mong muốn của bản thân là được góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác quản lý LHS Việt
Nam đang học tập tại NN. Chính vì thế, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Biện
pháp quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài bằng ngân sách
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của công tác quản lý sinh viên Việt
Nam du học tại nước ngoài bằng NSNN; đồng thời đề xuất các biện pháp
quản lý của Cục Đào tạo với nước ngoài thuộc Bộ GD&ĐT nhằm nâng cao
hiệu quả công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học tại NN bằng NSNN
trong giai đoạn hiện nay.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
8
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài bằng NSNN
của Cục Đào tạo với nước ngoài - Bộ GD&ĐT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý của Cục Đào tạo với nước ngoài (ĐTVNN) - Bộ
GD&ĐT đối với sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài bằng NSNN .
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Trong thời gian vừa qua công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học tại
nước ngoài của Cục ĐTVNN đã đạt được một số thành tựu nhất định; tuy
nhiên, công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học bằng NSNN còn có những
hạn chế do thiếu sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành chức
năng, các cơ quan quản lý sinh viên Việt Nam học tập tại nước ngoài chưa
hoàn thiện và hệ thống văn bản, chế tài xử lý chưa đầy đủ.
Nếu đề xuất và thực hiện được các biện pháp quản lý phù hợp với lý luận
và thực tiễn quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài bằng NSNN
thì hiệu quả của việc gửi sinh viên đi học ở NN sẽ được nâng cao.

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Hệ thống hoá lý luận về quản lý công tác quản lý sinh viên Việt
Nam du học tại nước ngoài bằng NSNN.
5.2. Đánh giá thực trạng công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học tại
nước ngoài bằng NSNN của Cục ĐTVNN - Bộ GD&ĐT.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý của Cục ĐTVNN - Bộ GD&ĐT đối
với sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài bằng NSNN nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác này trong giai đoạn hiện nay.
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do những hạn chế về năng lực của bản thân và thời gian đề tài chỉ tập
trung vào:
- Nghiên cứu về quản lý sinh viên du học ở NN bằng NSNN.
9
- Nghiên cứu các biện pháp quản lý của Cục đào tạo với nước ngoài - Bộ
GD&ĐT.
- Phân tích thực trạng công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học tại
nước ngoài bằng NSNN từ năm 2000 đến 12/2009.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Bằng việc nghiên cứu, phân tích các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, Chính phủ, tài liệu khoa học của các tác giả trong và ngoài nước, về
công tác quản lý giáo dục, công tác đào tạo nhân lực phục vụ phát triển KT-
XH, công tác quản lý LHS nói chung và công tác quản lý sinh viên Việt Nam
du học nói riêng, khái quát được những điểm chủ yếu nhất về cơ sở lý luận về
du học tại nước ngoài và những kinh nghiệm quốc tế về quản lý sinh viên du
học ở nước ngoài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Bằng việc sử dụng các phương pháp quan sát, điều tra xã hội học, tổng
kết kinh nghiệm, chuyên gia, nhằm thu thập và phân tích các số liệu để
đánh giá được thực trạng công tác quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước

ngoài bằng NSNN của Cục ĐTVNN - Bộ GD&ĐT; đồng thời nhằm nhận biết
mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lý.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn này có bố cục gồm các phần và mục sau:
- Mở đầu: 06 trang, từ trang 6 đến trang 11
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý sinh viên Việt Nam du học tại
nước ngoài: 28 trang, từ trang 12 đến trang 39
- Chương 2: Thực trạng quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước
ngoài bằng NSNN của Cục Đào tạo với nước ngoài – Bộ Giáo dục và Đào
tạo: 32 trang từ trang 40 đến trang 71
10
- Chương 3: Biện pháp quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước
ngoài bằng ngân sách Nhà nước trong giai đoạn hiện nay: 27 trang từ trang 72
đến trang 98
- Kết luận và khuyến nghị: 6 trang, từ trang 99 đến trang 104
- Tài liệu tham khảo: 4 trang, từ trang 105 đến trang 108
- Phụ lục: 6 trang, từ trang 109 đến trang 114
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ SINH VIÊN VIỆT NAM
DU HỌC TẠI NƯỚC NGOÀI
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sự phát triển như
vũ bão của công nghệ thông tin trong vài thập niên vừa qua đã đưa loài người
chuyển từ nền văn minh hậu công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ. Xu
hướng đó ngày càng được thể hiện rõ nét trong những năm đầu của Thế kỷ
XXI, biến Thế kỷ XXI trở thành thế kỷ của “xã hội học tập”, trong đó đặc
trưng nổi bật nhất là nền kinh tế tri thức gắn liền với quá trình toàn cầu hóa.
Mỗi đất nước, mỗi khu vực đều có sự khác nhau về nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nguồn nhân lực, tài lực và vật lực vì thế họ phải tìm con đường trao đổi

đa dạng, phong phú để bổ khuyết cho nhau. Trong cùng điều kiện khách quan
giống nhau, có nước phát triển nhanh, có nước phát triển chậm chính là do
yếu tố năng lực con người, con người đóng vai trò quan trọng. Một quốc gia
không có đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ mạnh thì sẽ không thể có
những ngành công nghiệp hiện đại đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Vì
vậy hợp tác quốc tế với các nước phát triển để đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao là yêu cầu khách quan đối với nền kinh tế tri thức. Chính vì vậy,
nhiều nước trên thế giới (kể cả các nước đứng trong hoặc ngoài WTO) luôn
luôn chú trọng đến công tác đào tạo theo hình thức du học. Ví dụ:
Nhật Bản đã cử rất nhiều sinh viên, cán bộ đi đào tạo tại Hoa Kỳ và
Vương quốc Anh. Nhà nước đặc biệt quan tâm và giúp đỡ LHS đang học tập
tại nước ngoài bằng các chính sách hỗ trợ về kinh phí và tinh thần để LHS
luôn yên tâm trong học tập, không lo lắng về tương lai sau khi tốt nghiệp. Biết
đầu tư vào chiến lược con người, tinh thần nhạy bén và ý chí ham học hỏi đã
giúp Nhật Bản trở thành một cường quốc về kinh tế như ngày nay.
12
Trung Quốc đã chú trọng đến chính sách đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ cao ở các lĩnh vực then chốt như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vệ tinh – vũ trụ ….Trung Quốc có cơ chế tuyển chọn và quản
lý LHS rất phù hợp. Người đi du học bằng NSNN phải ký hợp đồng và phải
có hai người bảo lãnh, nếu học xong không về nước thì người bảo lãnh phải
đứng ra bồi hoàn chi trả chi phí đào tạo.
Hàn Quốc đã mở rộng và khuyến khích đưa sinh viên đi du học nước
ngoài đặc biệt là gửi đi học ở các nước có nền kinh tế phát triển mạnh như:
Mỹ, Anh, Đức…. Để thu hút chất xám và tránh nạn chảy máu chất xám, nhiều
nhà khoa học và kỹ sư được đào tạo và làm việc tại các nước tiên tiến đã được
kêu gọi về nước với các điều kiện làm việc hấp dẫn.
Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc có thể thấy
chiến lược phát triển giáo dục của những nước này đều là củng cố, đẩy mạnh
các trường ĐH lớn của mình, nhằm giữ vị trí trụ cột trong hệ thống giáo dục.

Những trường này, sau khi có vị thế vững mạnh, tiến hành liên kết, hợp tác
với các trường ĐH danh tiếng trên thế giới để thành lập các cơ sở nghiên cứu
và đào tạo nhằm nhân rộng các chương trình chất lượng cao của mình.
Đối với Việt Nam, thực hiện chiến lược phát triển KT -XH 2001-2010,
Đảng ta đã phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc,
tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh, bền vững và coi trọng việc “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam” là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá
(CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước. Để nhanh chóng xây dựng đội ngũ trí
thức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH cùng với việc mở rộng quy
mô và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ trong nước phải chú trọng đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ cao, cán bộ quản lý kinh doanh giỏi và công nhân
kỹ thuật lành nghề ở các nước có nền công nghiệp tiên tiến và giáo dục hiện
đại. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã chỉ rõ “Nhà nước dành một khoản
13
ngân sách thích đáng để cử người có đức có tài đi đào tạo những ngành nghề
thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ tiên tiến, khuyến khích và tạo điều kiện
cho cán bộ khoa học kỹ thuật, nhất là cán bộ trẻ được đi bồi dưỡng và trao đổi
khoa học ở nước ngoài”
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao ở Việt Nam trong điều kiện
NSNN còn nhiều khó khăn đòi hỏi phải có biện pháp quản lý hiệu quả nguồn
vốn ngân sách đầu tư cho giáo dục, đặc biệt trong việc gửi cán bộ đi đào tạo ở
nước ngoài.
Tính cho đến thời điểm hiện tại, đã có một số công trình nghiên cứu về
quản lý đào tạo ở các trường ĐH, đơn vị sự nghiệp hoặc quản lý hợp tác đầu
tư. Một số đề tài nghiên cứu về vấn đề hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào
tạo, quản lý LHS ở nước ngoài, quản lý và đào tạo nguồn nhân lực trình độ
cao tại nước ngoài như:
Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ “Biện pháp quản lý tài chính
của Ban điều hành các Đề án đào tạo tại nước ngoài (nay là Cục Đào tạo với

nước ngoài)” mã số 60.14.05 của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Liên. Đề tài đã
nghiên cứu nhằm đưa ra các biện pháp để quản lý và sử dụng hiệu quả tối đa
nguồn kinh phí NSNN chi cho việc cử cán bộ đi học tập và nghiên cứu tại
nước ngoài.
Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ “Biện pháp quản lý Lưu học
sinh của Ban điều hành các Đề án đào tạo tại nước ngoài” mã số 60.14.05 của
tác giả Hoàng Thị Kim Oanh. Đề tài đã nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của
công tác quản lý LHS đi học theo các Đề án đào tạo tại nước ngoài bằng
NSNN, đánh giá những mặt được và chưa được. Trên cơ sở đó đề xuất biện
pháp quản lý LHS của Ban Điều hành các đề án đào tạo tại nước ngoài.
Đề tài “Đào tạo thanh niên Việt Nam ở nước ngoài - thực trạng và giải
pháp” thuộc Uỷ ban Quốc gia về Thanh niên Việt Nam đã đề cập đến tính cấp
14
thiết của việc quản lý thanh niên là LHS Việt Nam ở nước ngoài và đề xuất
các giải pháp quản lý LHS.
Liên quan đến công tác đào tạo nhân lực có trình độ cao ở nước ngoài có
Đề tài nghiên cứu “Các giải pháp quản lý công tác đào tạo nhân lực trình độ
cao ở nước ngoài” mã số 5.07.03 của tác giả Phạm Bá Uông.
Đề tài nghiên cứu khoa học “Biện pháp quản lý công tác tuyển sinh đào
tạo sau ĐH tại nước ngoài bằng NSNN giai đoạn 2008 - 2014” mã số
60.14.05 của tác giả Vũ Trần Kim Liên. Đề tài đã nghiên cứu và đánh giá
thực trạng công tác tuyển sinh đào tạo sau ĐH ở nước ngoài bằng NSNN để
đề xuất ra các biện pháp quản lý công tác này đáp ứng mục tiêu của Đề án
giai đoạn 2008 - 2014.
Từ những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên, cho thấy chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống và đầy đủ về các
biện pháp quản lý sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài. Luận văn là công
trình nghiên cứu mới về biện pháp quản lý sinh viên từ khâu chuẩn bị làm thủ
tục đăng ký dự tuyển để đi học ở NN cho đến khi hoàn thành khoá học trở về
Việt Nam. Đề tài đã mạnh dạn đưa ra các biện pháp để thu hút LHS nói chung

và sinh viên du học nói riêng sau khi kết thúc khoá học quay trở về Việt Nam
để phục vụ cho mục tiêu phát triển đất nước.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.2.1. Lưu học sinh
Lưu học sinh được hiểu là công dân Việt Nam đang sống và học tập ở
nước ngoài, đang được đào tạo ở nước ngoài, bao gồm học sinh, sinh viên,
học viên sau ĐH, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, tu nghiệp sinh và học viên
dự các khóa học bồi dưỡng ngắn hạn, không phân biệt nguồn kinh phí sử
dụng cho việc đào tạo ở nước ngoài.
15
1.2.2. Ngân sách Nhà nước
Theo Điều 1, Luật NSNN mà Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 9 đã xác
đinh: “NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã
được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”.
Xét về bản chất, NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và
Xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài
chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành
kinh tế – xã hội của mình. NSNN là nguồn tài chính tập trung quan trọng nhất
trong hệ thống tài chính quốc gia, là tiềm lực tài chính, sức mạnh tài chính
của Nhà nước. Quản lý và điều hành NSNN có tác dụng chi phối trực tiếp đến
các hoạt động tài chính khác trong nền kinh tế quốc dân.
1.2.3. Quản lý
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên xô 1977, quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật),
nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện
những chương trình, mục đích hoạt động.
Trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm quản lý được định nghĩa là “trông
coi và giữ gìn, là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu
nhất định [36, tr 540].

Các học giả thuộc các trường phái khác nhau đã đề cập khái niệm về
quản lý theo các cách tiếp cận khác nhau.
Harold Koontz cho rằng “quản lý là một yếu tố cần thiết để đảm bảo phối
hợp những nỗ lực cá nhân” [29, tr 21]. C. Mác cho rằng “quản lý là một chức
năng tất yếu của lao động xã hội, nó gắn chặt với sự phân công và phối hợp”
và “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều
hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh
16
từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những
khí quan độc lập của nó” [16, tr 195].
Theo thuyết quản lý khoa học, mà đại diện tiêu biểu là Frederics William
Taylor người Mỹ (1856 – 1915) cho rằng “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
chính xác cái gì cần phải làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp
tốt nhất, rẻ nhất”.
Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Lê cho rằng “Quản lý một hệ thống xã
hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống động mà chủ yếu là vào
những con người, lên từng thành tố trong hệ thống bằng những phương pháp
thích hợp, nhằm đạt các mục tiêu đề ra cho hệ thống và cho từng thành tố của
hệ thống” [31, tr 5].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của
nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu
của xã hội. Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy
động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân
lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối
ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. Quản lý một hệ
thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người – thành viên của hệ –
nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự kiến”[ 35, tr 15].
Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng “Quản lý là một quá trình định hướng, quá
trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là một quá trình tác động đến hệ

thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định”[33, tr 24].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo và các cộng sự trong cuốn “Khoa học tổ
chức và quản lý” cho rằng hoạt động quản lý nhằm làm cho hệ thống vận
động theo mục tiêu đặt ra, tiến đến trạng thái có chất lượng mới. Các tác giả
chia tách thuật ngữ “Quản lý” thành hai quá trình đó là quá trình ‘Quản” và
quá trình “Lý”. Quản: là giữ gìn, duy trì ổn định, là coi sóc; Lý: là sửa sang,
sắp xếp, là đổi mới – phát triển [1, tr 176].
17
Dưới góc độ điều khiển học: “Quản lý là sự sắp xếp tối ưu nhất các phần
tử trong tổ chức sao cho hệ thống ấy có trật tự tối ưu”. Dưới góc độ chính trị
xã hội: “Quản lý là tổ hợp những cách thức, những phương pháp tác động vào
đối tượng quản lý để phát huy hết tiềm năng của đối tượng nhằm đạt tới mục
tiêu mong muốn”.
Từ các định nghĩa trên, ta thấy quản lý là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định trong điều kiện của môi trường.
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích đến đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra thông qua các chức năng quản lý để
phối hợp nỗ lực của con người “mọi công việc hoạt động QL thực chất đều là
sự quản lý con người và cách QL con người có hiệu quả là tạo điều kiện thúc
đẩy họ phát huy hết khả năng của mình vì mục tiêu chung của tổ chức”.
Chức năng của quản lý là chức năng kế hoạch hóa nghĩa là phải xác định
mục tiêu, mục đích, các biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu đó.
Từ những phân tích trên có thể hiểu “Quản lý là một quá trình chủ thể
quản lý tác động vào khách thể quản lý với động cơ, mục đích, thao tác,
phương tiện, kỹ năng quản lý nhằm đạt tới mục tiêu và trạng thái đã định.”
1.2.4. Quản lý giáo dục
Tác giả M.I.Kônđacốp đã định nghĩa: “Quản lý giáo dục là tập hợp các
biện pháp (tổ chức, cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính ) nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục (GD),

đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng cũng như
chất lượng.”[32].
Ở Việt Nam khái niệm quản lý giáo dục cũng được nhiều học giả đề cập
tới trong quá trình nghiên cứu.
Theo tác giả Nguyễn Phúc Châu cho rằng quản lý giáo dục là những tác
động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật,
18
…) của chủ thể quản lý giáo dục đến tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả việc tổ chức, huy động, điều phối,
giám sát và điều chỉnh các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để
hệ thống giáo dục vận hành đạt được mục tiêu phát triển giáo dục [17, tr 14].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Quản lý nhà trường, quản lý
giáo dục là tổ chức hoạt động dạy và học Có tổ chức được hoạt động dạy
học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội
chủ nghĩa mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục
của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân
dân, của đất nước” [30].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành, phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. [2].
Như vậy, QLGD có thể xem là: sự tác động có ý thức nhằm điều khiển,
hướng dẫn các quá trình giáo dục, những hoạt động của cán bộ, giáo viên và
học sinh, sinh viên, huy động tối đa các nguồn lực khác nhau để đạt tới mục
đích của nhà quản lý giáo dục và phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lý giáo dục cũng như quản lý nói chung là hệ thống có mục đích,
có kế hoạch nhằm đạt mục tiêu giáo dục đề ra.
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản của quản lý nói chung, quản lý giáo
dục vẫn có những nét đặc thù riêng, đó là một hoạt động đặc biệt. Để thực
hiện tốt các chức năng của mình nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục, quản lý giáo
dục chịu sự tác động rất lớn của các yếu tố khách quan. Hiểu rõ đặc điểm này

sẽ là cơ sở lý luận cần thiết để đề ra những biện pháp cụ thể trong quản lý
giáo dục.
1.2.5. Phương pháp quản lý
Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý tới đối
tượng nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
19
Đối tượng quản lý chủ yếu là con người nên thực chất phương pháp quản
lý là những cách thức tác động đến người dưới quyền làm cho họ tích cực lao
động để đạt được kết quả mong muốn.
Vì phương pháp quản lý là một bộ phận của cơ chế quản lý nên mỗi cơ
chế quản lý sẽ định ra những phương pháp quản lý đặc thù. Các đặc điểm của
phương pháp quản lý: Phải dựa trên cơ sở là các quy luật, nguyên tắc quản lý
như quy luật kinh tế, tổ chức, tâm lý và các nguyên tắc quản lý; phải phụ
thuộc vào trình độ, khả năng của chủ thể quản lý và đặc điểm của đối tượng
quản lý; phải có sự linh hoạt dựa trên cơ sở hiểu đúng, đánh giá đúng con
người của các nhà quản lý.
1.2.6. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
Theo lý thuyết phát triển, khái niệm nguồn nhân lực có thể hiểu theo
nghĩa rộng là nguồn lực con người của một quốc gia có thể huy động, tổ chức
để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội [38, tr 36]. Nguồn nhân lực
là tổng thể các tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia, một
vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả
năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước hoặc một
vùng, một địa phương cụ thể [38, tr 11].
Theo các cách tiếp cận trên thì nguồn nhân lực là một trong các thành tố
của nguồn lực (gồm nguồn lực tài chính, vật chất, nguồn nhân lực) có thể
được huy động để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Theo nghĩa
hẹp, nguồn nhân lực là nguồn lao động. Ở nước ta, nguồn lao động là những
người trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm và cả những người
trong độ tuổi lao động nhưng chưa có việc làm, còn gọi chung là lực lượng

lao động.
Nội lực của một quốc gia phụ thuộc không chỉ vào số lượng mà còn tuỳ
thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là khái
niệm tổng hợp về thể lực, trí lực, kỹ năng, văn hoá, tác phong làm việc của
20
họ. Khi sử dụng sức lao động vào sản xuất sẽ tạo ra sản phẩm thặng dư,
nhưng sức lao động đó lại cần bù đắp bằng tư liệu sinh hoạt để tái tạo ra sức
lao động mới. Quốc gia nào biết coi trọng chất lượng, sử dụng và phân bổ hợp
lý nguồn nhân lực thì quốc gia đó sẽ đạt được sự tăng trưởng bền vững, kinh
tế hưng thịnh.
Các học giả đưa ra nhiều cách phân loại nguồn nhân lực theo các cách
tiếp cận khác nhau, tuỳ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu của họ. Nhưng người
ta có xu hướng chia ra thành các lĩnh vực nhân lực cơ bản sau đây: Nhân lực
khoa học và công nghệ, nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp, nhân
lực trong lĩnh vực lao động sản xuất và nhân lực trong lĩnh vực quản lý hành
chính công.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và
chất lượng nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đòi hỏi
khách quan của mọi quốc gia, được thể hiện trong quá trình hình thành và
hoàn thiện thể lực, kiến thức, kỹ năng và thái độ nhân cách nghề nghiệp. Đó
là một “quá trình gia tăng về kiến thức, kỹ năng và cả năng lực của tất cả mọi
người trong xã hội” [38, tr 28].
1.2.7. Quản lý đào tạo và đào tạo nhân lực trình độ cao
Đào tạo là quá trình nâng cao năng lực của con người về mặt thể lực, trí
lực, tâm lực đồng thời phân bổ, sử dụng và phát huy có hiệu quả nhất năng
lực của nguồn nhân lực để phát triển đất nước. Đào tạo là quá trình học tập
làm cho người lao động có thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ có hiệu
quả hơn trong công tác của họ.
Quản lý công tác đào tạo nhân lực trình độ cao là quá trình chủ thể quản
lý thực hiện các chức năng quản lý với các phương pháp phù hợp để tác động

vào quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện đạo đức, nhân cách của
các học viên nhằm đạt mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ tri thức làm nòng cốt
trong tương lai cho các ngành kinh tế quốc dân.
21
Mục tiêu cơ bản của quản lý công tác đào tạo nhân lực trình độ cao của
nước ta nói chung được Hội nghị TW II Khoá VIII xác định là đào tạo những
con người có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, gìn giữ và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có
kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có
sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).
1.3. QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ CAO Ở NN.
1.3.1. Quan điểm chỉ đạo và chính sách của Nhà nước về đào tạo
nhân lực.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta dựa trên tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, danh nhân văn hoá thế giới đã tiếp thu tinh hoa phương Đông, phương
Tây, tinh hoa của chủ nghĩa Mác – Lênin và nhân loại, đã nói “Vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Ngay sau ngày tuyên ngôn độc
lập thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á được một
ngày, tại phiên họp Chính phủ đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo “nạn
dốt là một phương pháp độc ác của bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta, một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tôi đề nghị mở chiến dịch chống giặc dốt”.
Từ đó, sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng gắn
liền với những trang lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc ta.
Hội nghị Trung ương khoá 7, tháng 3/1955 đã đề ra nhiệm vụ củng cố giáo
dục phổ thông, đẩy mạnh thanh toán mù chữ, chấn chỉnh lại ngành ĐH chuyên
nghiệp, thống nhất hai hệ thống giáo dục, gửi học sinh đi học ở nước ngoài.
Tại Đại hội lần thứ III (năm 1960), Đảng ta đã xác định lấy việc phát huy
nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (05/1962) và lần thứ 10 (12/1964) của
Đại hội III đã nhấn mạnh vai trò của công tác đào tạo cán bộ trung học
22
chuyên nghiệp cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế và đẩy mạnh
xây dựng các trường trung học chuyên nghiệp địa phương. Sự nghiệp giáo
dục và đào tạo được Đảng và Nhà nước đặt ở vị trí là “quốc sách hàng đầu”,
đã thu được nhiều kết quả về quy mô và chất lượng ở các bậc học.
Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận định “nhiệm
vụ của chặng đường đầu là chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ bản hoàn thành
cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH và HĐH đất nước”. Toàn
Đảng và dân ta ra sức phấn đấu, đến năm 2020 đưa đất nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp.
Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục phát triển tư duy khoa học (KH) đúng
đắn của Đại hội trước và nêu nhận thức mới: “khoa học, giáo dục đáng vai trò
then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là một
động lực đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến
của thế giới, mục tiêu của giáo dục và đào tạo là nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để hình thành đội ngũ lao động có tri thức và
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức
cách mạng. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng chuyên môn sâu, có ý
thức, trách nhiệm và có khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế (KT) nhiều
thành phần” [ 25, tr 52].
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã chỉ rõ: “Nhà nước dành một
khoản ngân sách thích đáng để cử người có đức, có tài đi đào tạo những
ngành nghề thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên ở những nước có
nền khoa học và công nghệ tiên tiến", “khuyến khích và tạo điều kiện cho cán
bộ khoa học kỹ thuật, nhất là cán bộ trẻ được đi bồi dưỡng và trao đổi khoa
học ở nước ngoài”.
Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX xác định vai trò của nguồn nhân lực và
vị trí của giáo dục và đào tạo “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong

23
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững” [26, tr 108].
Muốn thực hiện được mục tiêu chiến lược 10 năm 2001 – 2010, Đảng đã
xác định rõ phải tăng cường nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ và nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta…
Khi xác định nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 –
2005, Đảng ta đã chủ trương “tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục là quốc
sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo
dục và đào tạo” [26, tr 292].
Tại khoản 2 Điều 108 của Luật Giáo dục 2005 “Nhà nước khuyến khích
và tạo điều kiện cho công dân Việt Nam ra nước ngoài giảng dạy, học tập,
nghiên cứu, trao đổi học thuật theo các hình thức tự túc hoặc bằng kinh phí do
tổ chức, cá nhân nước ngoài tài trợ”, khoản 3 Điều 108 “Nhà nước dành ngân
sách cử người có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, đạo đức trình độ đi học tập,
nghiên cứu ở nước ngoài về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt để phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và khoản 1 Điều 109 “Tổ
chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện để giảng dạy, học
tập, đầu tư, tài trợ, hợp tác, ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ về
giáo dục ở Việt Nam…” [ 8].
Từ các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đào tạo nhân lực ở trên, có
thể kết luận rằng do thừa kế và tiếp thu được tinh hoa thế giới và văn minh nhân
loại, Đảng và Nhà nước luôn nhận thức đúng đắn về vị trí nguồn nhân lực là một
trong những nguồn vốn quý nhất để phát triển KT-XH, từ đó có những chủ
trương sáng suốt và nhất quán để chăm lo phát triển nguồn lực này.
24
1.3.2. Định hướng chung về phát triển giáo dục và đào tạo trong giai
đoạn hiện nay

Những thập niên đầu tiên của Thế kỷ 21, sự nghiệp đào tạo phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao đứng trước những thách thức và thời cơ mới. Đặc
điểm của thời đại ngày nay là cuộc cách mạng KHKT phát triển như vũ bão
và công nghệ thông tin bùng nổ đưa loài người chuyển từ nền văn minh công
nghiệp sang nền văn minh tin học.
Thế kỷ 21 là thế kỷ của các “xã hội học tập” trong đó đặc trưng nổi bật
nhất là nền “kinh tế tri thức” gắn liền với quá trình toàn cầu hóa. Mục tiêu
chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Nhà nước thông qua năm 2002
đã xác định vị trí trung tâm của giáo dục cao đẳng, ĐH và sau ĐH để “đáp
ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với mục tiêu phát triển KT-
XH, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế”. Nguồn nhân lực trình độ cao phải có “năng lực thích
ứng với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho
người khác” [10, tr 13].
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, để nước ta có thể tiến ngang
tầm các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, hội nhập với sự phát
triển chung của cộng đồng quốc tế - nhất là qua sự kiện nước ta đã trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), việc gửi công
dân Việt Nam đi đào tạo ở nước ngoài là một hướng quan trọng để bồi dưỡng
nguồn nhân lực, đào tạo các nhà quản lý, kinh doanh, các chuyên gia công
nghệ giỏi và công nhân lành nghề nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa nhanh nền khoa học và công nghệ
đất nước vươn lên trình độ của thế giới. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú
trọng đào tạo nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đáp ứng
được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Một trong những thể hiện quan trọng nhất trong thực tế về mức độ quán
triệt quan điểm: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” chính là chính sách đầu tư
25

×