Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Mô hình thí điểm xây dựng về phát triển bền vững tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.52 KB, 20 trang )

SỞ KẾ HOẠCH & ĐẦU TƯ TỈNH SƠN LA
BAN ĐIỀU HÀNH CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 21 TỈNH SƠN LA
--------------------
Tham gia viết chuyên đề sách
" phát triển bền vững vùng dân
tộc thiểu số và miền núi Việt Nam"
CHUYÊN ĐỀ
Mô hình thí điểm xây dựng về phát triển bền vững
tỉnh Sơn La

S n La, tháng 11 n m 2006ơ ă


CHUYÊN ĐỀ
Mô hình xây dựng thí điểm về phát triển bền vững
(chương trình nghị sự 21) tỉnh Sơn La.
I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH:
1. Sự cần thiết của việc lựa chọn xây dựng mô hình phát triển bền
vững:
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến
trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế
giới đồng thuận xây dựng thành chương trình Nghị sự cho từng thời kỳ phát
triển của lịch sử. Năm 1992 tại Hội nghị thượng đỉnh trái đất về môi trường
và phát triển tổ chức ở Rio de Janerio (Braxin) đã thông qua tuyên bố Rio de
Janerio về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và chương
trình Nghị sự 21 về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới
trong thế kỷ 21. Từ năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng
và thực hiện chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và
6.416 chương trình nghị sự 21 cấp địa phương.
Phát triển bền vững đã trở thành đường lối quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta. Ngay từ năm 1991 Chính phủ đã ban hành " kế hoạch quốc gia về


môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000" tạo tiền đề cho quá
trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được
khẳng định trong Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, trong đó nhấn mạnh: " bảo vệ môi trường là một nội dung cơ
bản không thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành là cơ sở quan trọng bảo đảm phát
triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước". Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các
văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt
Nam và trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là: "phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và " phát triển kinh tế - xã hội gắn
chặt bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữ môi trường nhân
tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững như Nghị quyết của đại hội
Đảng toàn quốc đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế về phát triển bền vững,
ngày 17/8/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg
phê duyệt “Định hướng Chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam”
2
(Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung, bao
gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương,
các tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm bảo
đảm phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ 21. Định hướng chiến lược
phát triển bền vững cũng nêu lên những thách thức mà Việt Nam đang phải
đối mặt, đề xuất những chủ trương, chính sách, công cụ pháp lý và những lĩnh
vực hoạt động ưu tiên để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Định hướng
chiến lược này không thay thế các chiến lược, kế hoạch mà là căn cứ để cụ
thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, Chiến lược Bảo vệ
môi trường đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, xây dựng kế hoạch 5

năm 2006-2010, cũng như xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển của các
ngành, địa phương, nhằm kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền
vững đất nước.
Để triển khai thực hiện, ngày 09 tháng 03 năm 2005 Bộ KH&ĐT ban
hành thông tư số: 01 / 2005 /TT-BKH: Triển khai thực hiện Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở
Việt Nam. Trong đó, nêu rõ yêu cầu, hướng dẫn nội dung xây dựng chương
trình phát triển bền vững cấp địa phương (LA21) của 64 tỉnh, thành phố trong
cả nước.
Nhìn lại, trong chặng đường phát triển kinh tế - xã hội vừa qua của tỉnh
Sơn La vẫn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên là chủ yếu như khai thác
tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên nước, song với trình độ công nghệ
sản xuất còn thấp còn lạc hậu, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không
bền vững, năng suất lao động thấp, cộng với tỷ lệ tăng dân số cao, dẫn đến tỷ
lệ hộ đói nghèo cao, các dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế hiện còn bất cập, các
loại tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để, cơ sở hạ tầng còn thấp kém
đang là những vấn đề nổi cộm bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên
như đất, rừng, nước bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả.
Trong các quy hoạch tổng thể của tỉnh, ngành và các huyện thị, cũng như các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm trong thời gian qua 3
mặt của sự phát triển, gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường chưa thực sự được kết hợp, lồng ghép
chặt chẽ với nhau.
Vì vậy, việc xây dựng chiến lược phát triển bền vững - chương trình
nghị sự 21 của tỉnh là rất cần thiết, nhằm định hướng phát triển bền vững cho
tỉnh trên cả 3 lĩnh vực: kinh tế - xã hội - bảo vệ môi trường sinh thái trong
một thời gian tương đối dài - đến năm 2020 và vạch ra những việc cần thực
hiện của những năm trước mắt cũng như lâu dài, phù hợp với tiến trình chung
của cả nước, tiến trình xây dựng Nhà máy thuỷ điện Sơn La, đem lại hiệu quả

kinh tế - xã hội - bảo vệ môi trường bền vững cho Sơn La và cho cả nước.
3
2. Đặc điểm tình hình chung của tỉnh Sơn La:
Sơn La là một tỉnh ở vùng núi phía Tây Bắc, có diện tích tự nhiên:
1.412.500 ha, chiếm 4,27% tổng diện tích cả nước đứng thứ 3 trong số 64
tỉnh, thành phố trong cả nước. Phía Bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Lào Cai; phía
Đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía Tây giáp tỉnh Lai Châu; phía
Nam giáp tỉnh Thanh Hoá và nước CHDCND Lào. Có chung đường biên giới
Việt - Lào dài 250 km. Tỉnh Sơn La nằm trên trục quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La
- Điện Biên, cách Hà Nội 320 km. Có chiều dài giáp ranh với các tỉnh bạn là
628 km. Độ cao trung bình 600 - 700 m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu
và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã. Có hai cao
nguyên Mộc Châu và Nà Sản địa hình tương đối bằng phẳng.
Sơn La là một tỉnh vừa nằm sâu trong nội địa, vừa là tỉnh có đường
biên giới quốc gia với nước bạn Lào, nằm án ngữ phía Tây bắc của Thủ đô Hà
Nội, vì vậy vừa có ý nghĩa về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Cùng với
các tỉnh Hoà Bình và Lai Châu, Sơn La là mái nhà xanh của đồng bằng Bắc
Bộ, với diện tích gần một triệu ha đất rừng đã và đang có vai trò to lớn về môi
sinh, phòng hộ đầu nguồn sông Đà, điều tiết nguồn nước cho công trình thuỷ
điện Hoà Bình (hiện tại) và cho công trình thuỷ điện Sơn La (trong tương lai).
Tỉnh Sơn La gồm 1 thị xã và 10 huyện, với 201 xã, phường, thị trấn,
Thị xã Sơn La là trung tâm tỉnh lỵ. Dân số trung bình toàn Tỉnh Sơn La năm
2005 có: 992.700 người, mật độ bình quân 70 người/km
2
, trong đó nam là
499.800 người (chiếm 50,18%), nữ 492.900 người (chiếm 49,82%). Dân số
khu vực thành thị chiếm 12%; dân số khu vực nông thôn chiếm 88% tổng số
dân toàn tỉnh. Tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2005 thực hiện là 1,69%. Tốc
độ tăng dân số bình quân giai đoạn 2000 – 2005 ở mức 1,85%.
3. Tài nguyên đất đai:

Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.412.500 ha, trong đó đất đang
được sử dụng 784.304 ha (năm 2004) chiếm 55,8% đất tự nhiên của tỉnh, so
với cả nước tỉ lệ này là 97%. Diện tích đất sử dụng sẽ có thay đổi khi thủy
điện Sơn La hoàn thành vào năm 2012. Theo tính toán Sơn La có 3 huyện bị
ngập, tổng diện tích bị ngập khoảng 13.730 ha, trong đó có 6.321 ha đất nông
nghiệp (bình quân mỗi hộ mất khoảng 0,65 ha đất nông nghiệp, trong đó
ruộng nước 0,13 ha), đất rừng 2.451 ha, đất chưa sử dụng 7.214 ha… Bên
cạnh đó, sẽ xuất hiện các vùng bán ngập với diện tích hàng trăm ha, có thể tận
dụng diện tích này để trồng trọt vào mùa chưa bị ngập.
Là một tỉnh vùng cao, quỹ đất nông nghiệp hạn chế, đặc biệt ruộng
nước bình quân đầu người chỉ có 0,017 ha/người (cả nước là 0,05 ha/người).
Quỹ đất có mặt nước để nuôi trồng thủy sản của Sơn La 1.670 ha, đã
đưa vào sử dụng 1.476 ha, chưa kể hồ thuỷ điện Hoà Bình. Nếu công trình
thủy điện Sơn La hoàn thành, sẽ có thêm 13.700 ha mặt nước hồ. Khi đó toàn
tỉnh sẽ có khoảng 25.000 ha ao, hồ và hồ sông Đà là tiền đề để Sơn La phát
triển mạnh nuôi trồng và khai thác thủy sản.
4. Tài nguyên nước:
4
Sơn La có hệ thống sông suối khá dầy nhưng phần lớn mặt nước thấp
hơn mặt đất canh tác. Sông suối ở Sơn La có độ dốc lớn, trắc diện hẹp nên
tiềm năng thuỷ điện khá lớn. Hầu hết mọi nơi trong tỉnh đều có điều kiện làm
thuỷ điện cực nhỏ, ngoài 96 điểm xây dựng được thuỷ điện vừa và nhỏ với
tổng công suất 134 MW còn có công trình thuỷ điện Suối Sập 11,8 MW, thuỷ
điện Nậm Chiến công suất 210 MW, thuỷ điện Huổi Quảng công suất 540
MW và đặc biệt là công trình thuỷ điện Sơn La với công suất 2.400 MW đang
được khởi công xây dựng.
5. Tài nguyên rừng:
Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích rừng và đất có khả năng
phát triển lâm nghiệp khá lớn (chiếm 73% diện tích tự nhiên), đến năm 2005
diện tích rừng của Sơn La chỉ còn 590.310 ha, trong đó rừng tự nhiên 461.000

ha, rừng trồng 129.310 ha. Độ che phủ của rừng đạt 42% (so với toàn quốc là
40%)
Sơn La có 4 khu rừng đặc dụng bảo tồn thiên nhiên: Xuân Nha (Mộc
Châu) 27.084 ha; Sốp Cộp 18.709 ha; Copi A (Thuận Châu) 19.354 ha; Tà
Xùa (Bắc Yên) 17.650 ha.
Khi có thuỷ điện Sơn La sẽ có 1 phần rừng và đất rừng bị ngập, theo
tính toán có khoảng 2.451 ha rừng sẽ bị ngập, trong đó chủ yếu là rừng phòng
hộ.
6. Tài nguyên khoáng sản:
Sơn La có nhiều loại khoáng sản khác nhau: than, đá vôi và đá sét, ni
ken - đồng, vàng, bột tan (gần 150 điểm), song chủ yếu là mỏ nhỏ, phân bố rải
rác trên khắp địa bàn tỉnh, trữ lượng không lớn và điều kiện khai thác không
thuận lợi.
7. Tiềm năng về du lịch:
Sơn La có điều kiện phát triển du lịch thuận lợi do có nhiều danh lam
thắng cảnh, hang động kỳ thú, các mỏ suối nước khoáng nóng, vùng hồ Sông
Đà, các di tích lịch sử cách mạng như Nhà tù Sơn La, cây đa bản Hẹo, Văn
bia Quế lâm ngự chế... Có thể kết hợp với các tỉnh bạn để phát triển du lịch
sinh thái, du lịch lịch sử, du lịch văn hoá… Sắp tới trên địa bàn tỉnh Sơn La
có hồ thuỷ điện Sơn La, cùng với 4 vườn quốc gia (Khu bảo tồn thiên nhiên
Xuân Nha-Mộc Châu, Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp, Khu bảo tồn thiên
nhiên Co Mạ-Thuận Châu, Tà Xùa - Bắc Yên), còn có 4 hang động được xếp
hạng, 4 mỏ nước nóng, có nhiều bản làng văn hoá dân tộc, có các lễ hội dân
tộc như: lễ hội mùa xuân dân tộc Mông huyện Mộc Châu; Hội Then dân tộc
Thái huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Yên Châu; Lễ hội cầu mùa dân tộc
Khơ Mú huyện Yên Châu; Lễ Mởi dân tộc Mường huyện Phù Yên…đều có
thể khai thác để phục vụ du lịch.
8. Cảnh quan môi trường:
Tỉnh Sơn La có cảnh quan môi trường đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên trong những thập niên trở lại đây cảnh quan môi trường cục bộ từng nơi

đã bị phá vỡ thế cân bằng, nhiều khu vực rừng bị tàn phá kiệt quệ, để đáp ứng
nhu cầu về cuộc sống của một số đồng bào vùng cao, vì vậy vấn đề môi
5
trường sinh thái bức súc nhất hiện nay của tỉnh là thảm thực vật che phủ còn
thấp, diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm khoảng 45 - 50% tổng diện tích tự
nhiên của toàn tỉnh, ngoài ra hiện tượng sói mòn, rửa trôi vẫn xảy ra trầm
trọng, đã phần nào làm giảm độ phì nhiêu của tài nguyên đất sản xuất, đồng
thời gây sạt lở, lũ lụt ở các vùng thấp.
9. Tài nguyên nhân văn:
Dân số trung bình toàn Tỉnh Sơn La năm 2005 có: 992.700 người, mật
độ bình quân 70 người/km
2
, trong đó nam là 499.800 người (chiếm 50,18%),
nữ 492.900 người (chiếm 49,82%). Dân số khu vực thành thị chiếm 12%; dân
số khu vực nông thôn chiếm 88% tổng số dân toàn tỉnh. Tốc độ tăng dân số tự
nhiên năm 2005 thực hiện là 1,69%. Tốc độ tăng dân số bình quân giai đoạn
2000 – 2005 ở mức 1,85%.
Toàn tỉnh có 12 Dân tộc anh em, trong đó dân tộc Thái chiếm có dân số
lớn nhất, chiếm gần 55% dân số toàn tỉnh. Các dân tộc có dân số đông tiếp theo
là dân tộc Kinh 18%, dân tộc Mông 12%, dân tộc Mường 8,4%, dân tộc Dao
1,82%, dân tộc Khơ mú 1,89%...
Một vấn đề quan trọng khác là phải di dân khỏi lòng hồ thuỷ điện. Quy
hoạch tổng thể di dân tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11
năm 2004. Theo Quy hoạch này thì số hộ trên địa bàn Sơn La cần phải di
chuyển cho xây dựng thủy điện Sơn La là 12.479 hộ. Bên cạnh đó, các thủy
điện Nậm Chiến, Huổi Quảng,... có công suất khá lớn đang trong quá trình
chuẩn bị đầu tư cũng đòi hỏi việc di dân, tái định cư. Đây thực sự là một công
việc đồ sộ đối với Tỉnh từ nay đến 2010.
10. Những thách thức về môi trường đặt ra với tỉnh trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội:
Hiện tại và tương lai có hàng loạt các vấn đề đặt ra đối với tỉnh trong
thời kỳ xây dựng CNH - HĐH đó là các vấn đề về điều kiện tự nhiên, về môi
trường sinh thái, cơ sở hạ tầng thấp kém và các vấn đề văn hoá, xã hội…
* Về điều kiện tự nhiên:
- Do địa hình đồi núi cao và chia cắt mạnh, gây trở ngại cho việc phát
triển kinh tế - xã hội.
- Diện tích đồi núi có độ dốc cao chiếm tỷ trọng lớn, vì vậy tỷ lệ sử
dụng đất vào mục đích nông nghiệp thấp.
- Khí hậu chia 2 mùa rõ rệt, mùa mưa phân dải không đều ở các vùng
cũng đã làm ảnh hưởng đến điều kiện cân bằng nguồn nước và dễ gây ra lũ
ống và gây xói mòn đất, mùa khô hanh kiệt dễ gây cháy rừng, thiếu nước sản
xuất và sinh hoạt …
* Về môi trường:
Rừng tự nhiên bị cạn kiệt, độ che phủ còn thấp, tài nguyên rừng của
Sơn La không phải là thế mạnh mà đây là một gánh nặng cho việc phục hồi
lại vốn rừng và các hệ sinh thái đã suy thoái. Qua các hoạt động của con
người tác động vào môi trường đã làm cho quá trình sa mạc hoá, xói mòn, hạn
hán, lũ lụt, ô nhiễm nước và không khí, thay đổi môi trường sống… ngày
6
càng diễn ra nhiều hơn. Bên cạnh đó quá trình đô thị hoá đang diễn ra với tốc
độ quá nhanh, đã và đang gây tổn hại đến môi trường sinh thái, dẫn đến phá
vỡ thế cân bằng nền sinh thái nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.
* Về cơ sở hạ tầng:
Các hạn chế về CSHT như: Giao thông, cơ sở y tế, thông tin liên lạc,
điện nước, trường học… Đây còn là khó khăn lớn, vì mức đầu tư cho CSHT ở
tỉnh Sơn La còn cao so với các nơi khác, số người được sử dụng ít, hiệu quả
không cao, mặt khác do thu nhập bình quân của người dân còn thấp nên việc
huy động nguồn vốn từ nhân dân cho các công trình phúc lợi còn nhiều hạn
chế.

* Về phát triển dân số:
Hiện tại về tốc độ tăng dân số tự nhiên vẫn còn cao nhất là các đồng
bào vùng cao và dân tộc thiểu số, đây cũng là vấn đề gây nên áp lực lớn cho
việc giải quyết đời sống, những vấn đề xã hội, việc bảo vệ tài nguyên môi
trường tự nhiên. Đặc biệt khi xây dựng công trình thuỷ điện Sơn la làm cho
dân số cơ học tăng lên việc sắp xếp dân tái định cư cũng gây biến đổi về phân
bố dân cư, tác động tổng thể này mang tính toàn diện đến các thành phần môi
trường trong vùng.
* Về văn hoá - giáo dục:
Sơn La có 12 dân tộc anh em trình độ dân trí còn thấp và không đồng
đều ở các dân tộc, sự đa dạng về dân tộc cũng đã dẫn tới sự đa dạng về văn
hoá, về tập quán dân tộc vì vậy cũng gây nên sự trở ngại cho việc nâng cao
nhận thức cộng đồng như ( tiếng nói, chữ viết, phát triển duy trì bản sắc văn
hoá dân tộc…) Nhiều phong tục tập quán ở một số dân tộc còn lạc hậu, đặc
biệt là phong tục sản xuất thuần nông du canh du cư chưa được xoá bỏ.
* Về dân trí:
Ngoài những trở ngại trên, trở ngại về dân trí thấp là một sức ỳ lớn đối
với sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Nó dẫn đến sự hiểu biết về điều kiện
tự nhiên, yếu tố môi trường… dẫn đến các hậu quả gây nên không lường trước
được.
* Nguồn lực:
Nguồn lực và kinh phí để thực hiện còn hạn chế, ảnh hưởng tới việc đáp
ứng các yêu cầu mà trong kế hoạch đã đề ra, các hoạt động ưu tiên, các mô hình
trình diễn khó thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra.
* Vấn đề tái định cư thuỷ điện Sơn La, cơ hội và thách thức:
Việc điều chỉnh quy hoạch tiếp nhận dân TĐC thuỷ điện Sơn La với
tỉnh Sơn La là một cơ hội nhưng đó cũng là một thách thức lớn với những tác
động về kinh tế - xã hội cũng như sự thay đổi và ảnh hưởng không nhỏ của
môi trường sinh thái. Có thể nêu ở đây một số các hoạt động và một số tác
động lên hệ thống tài nguyên của việc TĐC như sau:

Công tác tái định cư của thuỷ điện Sơn La là một nhiệm vụ hàng đầu của
tỉnh trong kế hoạch phát triển kinh tế- Xã hội giai đoạn 2006- 2010 và đó là cơ
hội để tỉnh quy hoạch sắp xếp lại dân cư, tổ chức lại cơ cấu sản xuất… tuy
nhiên ngoài những nhiệm vụ thiết yếu thì việc bố trí sử dụng các nguồn tài
7
nguyên đó là một vấn đề không nhỏ để có thể đáp ứng được những điều kiện
sống đảm bảo và tốt hơn nơi ở cũ. Nếu vấn đề bố trí nguồn tài nguyên không
hợp lý, hài hoà giữa dân TĐC và dân sở tại, đồng thời với việc nâng cao chất
lượng sống của nhân dân trong tỉnh sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào khai thác
nguồn tài nguyên sẵn có là điều tất yếu xảy ra dẫn tới việc các nguồn tài
nguyên, đất, nước và môi trường cảnh quan bị ảnh hưởng, diện tích đất bị thu
hẹp, xáo trộn các tổ chức xã hội…
II. CÁC HOẠT ĐỘNG VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
NGHỊ SỰ 21 TỈNH SƠN LA:
1. Công tác tổ chức, chuẩn bị nhân sự:
Thực hiện quyết định 153/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng
Chính phủ, thông tư hướng dẫn số : 01/TT-BKH ngày 9/3/2005 của Bộ Kế
hoạch & Đầu tư, Được sự quan tâm giúp đỡ của dự án VIE/01/021 - văn phòng
PTBV -Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã chọn tỉnh Sơn La là 1 trong 6 tỉnh làm dự án
thí điểm chương trình Nghị sự 21 địa phương. Sau khi có chủ trương tỉnh đã
triển khai thành lập Ban chỉ đạo chương trình Nghị sự 21 của tỉnh gồm 21
thành viên của các sở, ban ngành, đoàn thể và chủ tịch UBND của 11 huyện,
thị xã, đồng thời thành lập Ban điều hành dự án (văn phòng giúp việc cho Ban
chỉ đạo) thường trực là sở Kế hoạch & Đầu tư trực tiếp điều phối dự án do
đồng chí giám đốc sở trực tiếp làm trưởng Ban điều hành dự án (trong đó: bộ
máy giúp việc văn phòng gồm có 1 kế toán, 1 phó ban điều hành và 3 thành viên
giúp việc đều là kiêm nhiệm).
2. Kết quả thực hiện trong khuôn khổ dự án như sau:
2.1. Triển khai nhận thức:
Sự nghiệp phát triển bền vững bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn

dân. Chỉ có thể đạt được sự phát triển bền vững khi phát huy nội lực của toàn
dân thông qua phát huy quyền làm chủ, chủ động sáng tạo của mọi cấp, mọi
ngành, mọi tổ chức xã hội, các tầng lớp dân cư, cũng như sự tự giác và ý thức
của mọi người dân.
Về bản chất chương trình nghị sự của tỉnh là một kế hoạch hành động
do chính quyền, các ngành, các đoàn thể, nhân dân trong tỉnh cùng đồng
thuận xây dựng nhằm đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội - môi trường của
tỉnh một cách hài hoà và bền vững, tập trung giải quyết những vấn đề trọng
điểm trong chiến lược phát triển của tỉnh, đồng thời nhằm đạt được những
mục tiêu chương trình nghị sự 21 của quốc gia. Thông qua hội thảo và các
thông tin đại chúng về PTBV để nâng cao nhận thức cho các đối tượng khác
nhau: những nhà lãnh đạo, nhà quản lý, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp,
cộng đồng dân cư trong xã hội đều có thể tham gia xây dựng hành động để
thực hiện chiến lược PTBV của tỉnh.
8

×