Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh Công ty cổ phần công trình giao thông Sông Đà khi Việt Nam là thành viên của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.53 KB, 80 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nếu như trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khái niệm
cạnh tranh còn khá mơ hồ và gần như không tồn tại, thì khi đất nước chuyển
sang nền kinh tế thị trường, "cạnh tranh" lại là mục tiêu sống còn của các doanh
nghiệp. Và trong thời điểm hiện tại khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, thì các doanh nghiệp
trong nước không chỉ phải cạnh tranh trên thị trường nội địa mà còn phải thử sức
với các đối thủ nước ngoài nặng ký hơn rất nhiều. Đây vừa là thách thức vừa là
cơ hội cho mọi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại trên sân chơi chung này. Mỗi
ngành nghề, mỗi lĩnh vực lại có mức độ cạnh tranh khác nhau. Với đặc tính
riêng của ngành xây dựng (sản phẩm là các công trình, cơ sở hạ tầng, nhà cửa...)
có lẽ nhiều người cho rằng tính cạnh tranh là không cao, xong kỳ thực đó lại là
thị trường vừa sôi động lại vừa quyết liệt. Các công ty không chỉ cạnh tranh
nhau về thị trường, về chất lượng sản phẩm, về giá cả, về công nghệ, nguyên vật
liệu... mà còn phải cạnh tranh nhau về thời gian, về kiểu cách thiết kế, về tiến độ
hoàn thành công trình sản phẩm. Trong khi xét về tổng thể, các đối thủ nước
ngoài lại có tiềm lực mạnh hơn về mọi mặt, do vậy cuộc chạy đua này còn khó
khăn hơn nhiều so với các ngành nghề khác.
Là một công ty xây dựng mới thành lập chưa lâu, song Công ty cổ phần
công trình giao thông Sông Đà đã tạo được hình ảnh tốt trên thương trường. Tuy
nhiên, công ty vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề khó khăn trăn trở như: vấn đề vốn,
công nghệ, nhân lực và đặc biệt là sức cạnh tranh còn khá khiêm tốn và đây
cũng là mối quan tâm hàng đầu của công ty. Sau khi nghiên cứu tìm hiểu các
lĩnh vực hoạt động cũng như những mặt mạnh, yếu của công ty, kết hợp với
những kiến thức đã được trang bị trên ghế nhà trường em đã chọn đề tài: "Giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh Công ty cổ phần công trình giao thông
Sông Đà khi Việt Nam là thành viên của WTO" làm hướng nghiên cứu chính
cho kỳ thực tập chuyên ngành. Đề tài bao gồm ba phần chính như sau:
1
Chương I: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh khi Việt Nam là thành


viên của WTO
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần
công trình giao thông Sông Đà.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công
ty cổ phần công trình giao thông Sông Đà khi Việt Nam là thành viên của
WTO.
Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và năng lực nên bài viết không tránh
khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy hướng
dẫn TS. Tạ Văn Lợi cũng như các cô chú, anh chị trong công ty Cổ phần công
trình giao thông Sông Đà để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Trần Thị Dung

2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
1.1 Cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh
sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó chính là quy luật tồn tại của muôn loài.
Có rất nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhắc đến khái niệm cạnh tranh như:
Adam Smith, David Ricardo, Engels, Karl Marx...
Theo kinh tế học định nghĩa: Cạnh tranh là sự giành giật thị trường để
tiêu thụ hàng hoá giữa các doanh nghiệp. Ở đây, định nghĩa mới chỉ đề cập đến
cạnh tranh trong khâu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá.
Theo C.Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu

thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch". Ở đây, Mác đã đề cập đến vấn
đề cạnh tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa trên phương diện nó là một môi
trường hoạt động của doanh nghiệp, với bản chất của cạnh tranh là sự tranh
giành chèn ép lẫn nhau về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Tuy nhiên, ngày nay hầu hết các nước đều thừa nhận và coi cạnh tranh
không chỉ là môi trường mà nó còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Do vậy khái niệm cạnh tranh nói chung là: " sự phấn đấu vươn lên, không ngừng
để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm
mới, taọ ra năng suất và hiệu quả cao nhất " (Theo "Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu", TS.Trần Sửu, Nxb Lao động, 2003)

1.1.2 Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh là một tất yếu, bất kỳ doanh nghiệp, cá nhân nào khi tham
gia thị trường cũng đều phải chấp nhận nó như một quy luật sinh tồn vì nó đóng
3
góp vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt trong nền
kinh tế thị trường đầy năng động này thì vai trò của nó càng được thể hiện rõ nét
không chỉ cho doanh nghiệp, người tiêu dùng mà cho toàn xã hội
Trước hết là đối với doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp, trong nền kinh tế mở này xuất hiện nhiều ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh và theo đó tính cạnh tranh cũng ngày càng gay go,
quyết liệt hơn mà thực chất là một cuộc chạy đua không có đích. Sở dĩ như vậy
là vì, trên mặt trận kinh tế các doanh nghiệp luôn phải vạch cho mình nhiều
hướng đi, nhiều ngã rẽ miễn sao sẽ thu được lợi nhuận cao và tránh được sự tấn
công từ phía sau của đối thủ. Và nó khó khăn hơn rất nhiều là vì doanh nghiệp
phải cạnh tranh đồng thời trên cả hai trận chiến đó là cạnh tranh giữa người mua
và người bán và cạnh tranh giữa những người bán với nhau. Và chính sự thôi
thúc của cuộc chạy đua này buộc doanh nghiệp phải tìm mọi cách để nâng cao
năng lực của mình, nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh như: đổi mới công

nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để tạo ra được sản phẩm
có chất lượng cao hơn và giá thành thấp hơn, sử dụng nguồn tài nguyên đang
khan hiếm một cách tối ưu, không ngừng tìm tòi sáng tạo những lĩnh vực mới để
mở rộng thị trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Thứ hai là đối với người tiêu dùng, cạnh tranh làm cho sản xuất gắn liền
với tiêu dùng. Quả thực do có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc
tranh giành thị trường khách hàng nên buộc các doanh nghiệp phải tìm hiểu,
nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đáp ứng một cách nhanh nhất, hiệu quả
và kịp thời nhất. Điều này đã tạo ra thị trường mới với số lượng hàng hoá, dịch
vụ ngày càng phong phú, chất lượng hàng hoá ngày càng cao, giá cả lại phù hợp
cho mọi tầng lớp tiêu dùng. Như vậy cạnh tranh giúp khách hàng có quyền lựa
chọn những sản phẩm tối ưu nhất với giá cả hợp lý, điều này rất có lợi cho người
tiêu dùng.
Thứ ba đối với xã hội, có thể nói cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa lợi ích của doanh nghiệp-
4
người tiêu dùng- và xã hội. Theo quy luật đào thải trong cạnh tranh thì những
doanh nghiệp kém năng lực sẽ bị loại khỏi thị trường, còn những doanh nghiệp
làm ăn hiệu quả, chi phí thấp thì sẽ có môi trường thuận lợi để phát triển. Tuy
nhiên điều này cũng tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp này không ngừng phải
phấn đấu vươn lên, tối đa hoá đầu vào, giảm thiểu chi phí, tìm mọi biện pháp để
tăng năng lực cạnh tranh. Và theo đó hệ quả tất yếu của cạnh tranh sẽ làm cho
nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững.
Như vậy, cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng
sản xuất, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đẩy manh liên doanh liên kết, tạo sức
bật cho nền kinh tế năng động. Nhưng cái gì cũng có mặt trái của nó, trong cạnh
tranh thường dẫn tới tình trạng "cá lớn nuốt cá bé" sẽ tạo cản trở cho hoạt động
của các doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp mớí thành lập, kinh nghiệm
thương trường còn yếu. Một đặc trưng nữa trong cơ chế thị trường cạnh tranh
càng gay gắt thì cũng càng dễ dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh,

độc quyền trên thị trường. Do vậy Nhà nước cần kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ
thông qua hệ thống Luật như: luật cạnh tranh, luật chống độc quyền...Bên cạnh
đó thì cạnh tranh cũng kéo theo một loạt các tiêu cực khác trong xã hội như: thất
nghiệp, ô nhiễm môi trường, tiền công rẻ mạt... bởi vì hành động của mọi doanh
nghiệp trước tiên là vì quyền lợi của cá nhân, do vậy họ không từ một cơ hội
khai thác nào miễn sao có lợi cho bản thân mình. Đây chính là nguy cơ đe doạ
tới sự phát triển bền vững của nhân loại.
1.1.3 Phân loại cạnh tranh
1.1.3.1 Căn cứ vào chủ thể tham gia
• Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh nào cũng đều muốn bán sản phẩm của
mình với giá cao nhất có thể, nhưng người mua thì ngược lại đều muốn mua
được sản phẩm chất lượng với giá thấp nhất có thể. Kết qủa của cuộc cạnh tranh
này dẫn tới sự "thương lượng" cân bằng giữa cung và cầu để đạt được mức giá
hợp lý mà tại đó người bán chấp nhận bán và người mua chấp nhận mua (tức là
5
đem lại lợi ích cho cả người bán và người mua). Đây là quy luật tất yếu "mua rẻ
bán đắt" của thương trường
• Cạnh tranh giữa những người bán
Đây là cuộc cạnh tranh chủ đạo trên thị trường, nó diễn ra một cách
quyết liệt với nhiều hình thức khác nhau. Mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển được thì ngoài việc không ngừng phải tự đổi mới, phát huy thế mạnh
của mình thì còn phải tìm hiểu các thông tin về đối thủ cạnh tranh cả hiện tại lẫn
tiềm ẩn. Từ đó tìm ra được điểm mạnh cũng như điểm yếu của đối thủ để có
cách ứng phó kịp thời nhằm giành được thị phần cao hơn đối thủ. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này chính là quy luật "cá lớn nuốt cá bé", những doanh nghiệp
kém năng lực sẽ bị loại khỏi thương trường hoặc bị các doanh nghiệp lớn thôn
tính.
• Cạnh tranh giữa những người mua
Trường hợp cạnh tranh này xảy ra khi lượng cung của một loại hàng

hóa nào đó trở nên khan hiếm hơn so với lượng cầu. Người tiêu dùng sẽ phải
cạnh tranh nhau để có thể có được lượng hàng hoá mình cần và thường là cạnh
tranh nhau bằng giá tức là họ sẵn sàng trả mức giá cao hơn người khác để có
được sản phẩm đó. Và kết quả là mức giá sẽ đựơc đẩy lên cao, nhà sản xuất sẽ
được lợi. Đây chính là quy luật "cung cầu" của thị trường và cao trào này sẽ chỉ
xảy ra trong một thời gian ngắn sau đó thị trường sẽ tự điều tiết lại.
1.1.3.2 Căn cứ vào phạm vi cạnh tranh
• Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Đây là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng
sản xuất ra cùng một loại hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có
lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Cuộc cạnh tranh này khó khăn hơn rất nhiều
bởi các doanh nghiệp cùng trên một chiến tuyến với mục tiêu sản phẩm, thị
trường, khách hàng như nhau do vậy doanh nghiệp nào tìm được lợi thế hơn đối
thủ dù chỉ chút xíu cũng có thể giành được thị phần cao hơn. Kết quả là những
doanh nghiệp thắng cuộc sẽ ngày càng mở rộng phạm vi của mình trên thị
6
trường, còn những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh thậm chí
phá sản. Do vậy để giành được phần thắng trong cuộc cạnh tranh quyết liệt này
doanh nghiệp cần phải không ngừng tìm tòi sáng tạo, cải tiến công nghệ để tăng
năng suất lao động tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, không ngừng thu
thập thông tin về đối thủ, phân tích và so sánh với bản thân doanh nghiệp để
thấy được những điểm mạnh và những bất lợi của mình so với đối thủ đề xây
dựng chiến lược đúng đắn.
• Cạnh tranh giữa các ngành nganhgành
Đây là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác
nhau nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất để thu được lợi nhuận và tỉ suất lợi
nhuận cao hơn so với số vốn đã bỏ ra. Trong quá trình cạnh tranh doanh nghiệp
chuyển vốn đầu tư từ ngành có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao hơn.
Sự điều chỉnh này sau một thời gian nhất định sẽ hình thành lên sự phân phối
hợp lý giữa các ngành sản xuất và hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa

các ngành
1.1.3.3 Căn cứ vào mức độ, tính chất cạnh tranh trên thị trường
• Cạnh tranh hoàn hảo
Đây là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán và
người mua độc lập với nhau, không có người nào có ưu thế để có thể ảnh hưởng
tơí giá cả. Các sản phẩm làm ra được người mua xem là đồng nhất, tức là ít có
sự khác biệt về quy cách phẩm chất mẫu mã. Tất cả người mua, người bán đều
có những thông tin đầy đủ về việc trao đổi. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi
hỏi tất cả người mua, người bán phải có liên hệ với người trao đổi tiềm năng,
biết các đặc trưng của mặt hàng trao đổi, biết về giá...Mọi người có thể tự do
tham gia hoặc rút khỏi thị trường mà không chịu một sự ràng buộc nào. Người
bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá cả trên thị trường, họ
tìm mọi biện pháp nhằm làm giảm chi phí và sản xuất sản phẩm tới mức giới
hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên
• Cạnh tranh không hoàn hảo
7
Đây là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm là
không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau
mang theo nhiều hình ảnh và uy tín khác nhau mặc dù khác biệt giữa các sản
phẩm là không đáng kể. Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo mức độ
cạnh tranh rất gay gắt và diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng. Đối với các
doanh nghiệp lớn có uy tín thì họ thường lợi dụng hình ảnh của mình để
khuyếch trương sản phẩm của mình, tạo các dịch vụ sau bán hàng như: khuyến
mại, bảo hành, lắp đặt miễn phí...nhằm đáp ứng tối ưu nhu cầu của khách hàng,
tranh thủ được sự tín nhiệm của người tiêu dùng. Kết quả là doanh nghiệp sẽ
ngày càng mở rộng được thị trường tiêu thụ so với đối thủ và sẽ dẫn tới cuộc
cạnh tranh về giá giữa những người bán với nhau.
• Cạnh tranh độc quyền
Đây là trạng thái cạnh tranh mà ở đó chỉ có một hoặc một số ít người
bán cung cấp một loại sản phẩm đồng nhất hoặc chỉ có ít người mua một loại

sản phẩm đó. Số ít người này có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản
phẩm bán ra hay mua vào trên thị trường. Thị trường có sự pha trộn giữa cạnh
tranh và độc quyền được gọi là thị trường cạnh trạnh độc quyền. Điều kiện để ra
nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều cản trở do vốn đầu
tư hay do độc quyền về bí quyết công nghệ. Trong thị trường này không có cạnh
tranh về giá cả như thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, mà nhà độc quyền có
toàn quyền quyết định về giá cả. Việc định giá này nhằm tối đa hoá lợi nhuận
cho các nhà độc quyền.
1.2 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cạnh tranh sẽ nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh,
người có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh
tranh hay sức cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh là một khái niệm quan trọng để
chỉ khả năng tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hay doanh nghiệp trên thị
trường trong nước và quốc tế. Ngày nay, khái niệm về năng lực cạnh tranh vẫn
8
là cuộc tranh luận sôi nổi và gay gắt và có nhiều quan điểm khác nhau như:
OECD đưa ra định nghĩa: " Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập
tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các
doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển
bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế". Còn trong từ điển thuật ngữ chính
sách thương mại cho rằng: "Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc
một ngành, một quốc gia là không bị doanh nghiệp khác, ngành khác đánh bại
về năng lực kinh tế" (Dictionary of trade policy,University of Adelaide)
Hiện nay có các khái niệm: năng lực cạnh tranh của sản phẩm, năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của quốc gia. Ba khái
niệm này có quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Một nước sẽ không thể có năng
lực cạnh tranh mạnh nếu như tất cả các doanh nghiệp trong nước lại có sức cạnh
tranh yếu và ngược lại sức cạnh tranh quốc gia lại quyết định đến sức cạnh
tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ hàng hoá của doanh nghiệp đó.

Nói chung năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là: " khả
năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất
và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo thu nhập
cao và phát triển bền vững" (Theo "Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
trong điều kiện toàn cầu", TS.Trần Sửu, Nxb Lao động, 2003)

1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tế bào kinh tế - xã hội và chịu sự tác động của
hàng loạt các yếu tố của môi trường hoạt động. Doanh nghiệp cần thấy rõ được
sự ảnh hưởng của các yếu tố này để có biện pháp nhằm phát huy điểm mạnh và
giảm thiểu những tiêu cực nhằm tạo dựng năng lực cạnh tranh của mình ngày
càng cao hơn. Có thể chia thành hai nhóm nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp là:
1.2.2.1 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
• Người cung ứng các đầu vào
Nói đến đầu vào là nói đến việc cung cấp các yếu tố cần thiết để doanh
9
nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,
vốn, nhân lực...Trong thời đại của sự phân công lao động, của chuyên môn hoá
thì mọi doanh nghiệp không nên tiến hành sản xuất theo kiểu "tự cung, tự cấp"
tức là tự lo cho mình từ khâu đầu vào đến khâu đầu ra. Điều này sẽ giảm hiệu
quả sản xuất vì không tận dụng và phát huy được lợi thế so sánh giữa các ngành,
các quốc gia. Các doanh nghiệp nên tìm đến những nhà cung ứng đầu vào bên
ngoài có uy tín vì đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho tiến trình sản xuất
kinh doanh được thuận lợi, đảm bảo cho đầu ra của các quá trình đó có năng
suất và chất lượng cao. Nếu nhà cung cấp không giao hàng đúng hẹn, đúng
chủng loại và đảm bảo chất lượng thì doanh nghiệp cũng sẽ sai hẹn với khách
hàng của mình và ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
• Khách hàng
Suy cho cùng tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều

nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào càng đáp ứng
tốt nhu cầu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh thì họ càng nhận được
sự ủng hộ và sự trung thành từ phía khách hàng. Trong điều kiện có sự cạnh gay
gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và ưu tiên hơn. Tuy
nhiên thực tế là người mua luôn muốn trả giá thấp vì vậy sẽ thực hiện việc ép
giá, gây áp lực đòi chất lượng cao hơn hoặc đòi được phục vụ nhiều hơn đối với
doanh nghiệp khi có điều kiện do vậy, sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp
và doanh nghiệp không thể thoả mãn được tất cả các nhu cầu của các loại khách
hàng. Cho nên các doanh nghiệp cần phải phân loại khách hàng thành các nhóm
khác nhau, trên cơ sở đó tiến hành phân tích và đưa ra các chính sách thích hợp
để thu hút ngày càng nhiều khách hàng về phía mình.
• Đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngànhG
Các đối thủ cạnh tranh trong ngành quyết định tính chất và mức độ
tranh đua giành giật lợi thế trong ngành, mà mục đích cuối cùng là giữ vững và
phát triển thị phần hiện có, đảm bảo thu được lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh trở
lên khốc liệt khi ngành ở giai đoạn bão hoà hoặc suy thoái hoặc có đông đối thủ
10
cạnh tranh cùng năng lực. Đây là đối tượng ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp,
là động lực kích thích mỗi doanh nghiệp không ngừng phải nâng cao năng lực
của mình. Vì chỉ cần doanh nghiệp có những bước đi sai lầm thì chính họ sẽ là
mối đe doạ lớn của công ty trong việc tranh giành thị trường. Do vậy doanh
nghiệp cần phải tìm hiểu mọi thông tin về đối thủ như: mục đích tương lai, các
nhận định, các tiềm năng, chiến lược hiện tại, những điểm mạnh, điểm yếu, khả
năng thích nghi với môi trường...của đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở đó hoàn
thiện những mặt còn yếu kém, phát huy những thế mạnh của doanh nghiệp từng
bước nâng cao năng lực cạnh tranh hơn đối thủ.
• Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Khi một ngành có sự gia tăng thêm đối thủ cạnh tranh mới thì hệ quả
là tỷ suất lợi nhuận giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh. Các đối thủ cạnh
tranh mới tham gia vào thị trường sau nên họ có lợi thế trong ứng dụng những

thanh tựu mới của khoa học, công nghệ. Không phải lúc nào cũng gặp phải đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn, nhưng khi đối thủ mới xuất hiện thì vị thế cạnh tranh
của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy doanh nghiệp cần phải tạo cho mình một
hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của các đối thủ mới. Những hàng rào này là lợi
thế sản xuất theo quy mô, đa dạng hoá sản phẩm, sự đòi hỏi có nguồn tài chính
lớn, chi phí chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế xâm nhập các kênh tiêu
thụ.
• Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
- Môi trường chính trị: Đây là yếu tố có tác động lớn tới mọi doanh
nghiệp. Nếu quốc gia nào có môi trường chính trị ổn định, ít biến động, một thể
chế minh bạch rõ ràng thì thu hút được rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài và tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh vì tài sản của họ
được đảm bảo, rủi ro cũng ít hơn. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài thì họ
có thể xác định đầu tư làm ăn lâu dài tại quốc gia đó, còn với doanh nghiệp
trong nước thì có điều kiện phát huy năng lực cạnh tranh của mình
11
- Môi trường pháp lý: yếu tố này được mọi doanh nghiệp quan tâm vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cũng như nghĩa vụ của doanh nghiệp. Trước
khi bắt tay vào kinh doanh một lĩnh vực gì đó thì doanh nghiệp cũng phải xem
xét tới hệ thống văn bản pháp lý của quốc gia có cho phép kinh doanh mặt hàng
đó hay không? các thủ tục cần thiết là gì? những quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp ra sao?...Do vậy, nếu một quốc gia có hệ thống luật pháp cồng kềnh,
phức tạp, chồng chéo, thủ tục hành chính rườm rà, nhiều tiêu cực, quá nhiều
cửa, và đặc biệt hay thay đổi chính sách hoặc chính sách đưa ra còn chưa phù
hợp với thực tế thì đây quả thực là rào cản vô cùng lớn cho doanh nghiệp, làm
hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
- Môi trường kinh tế: Bao gồm các chính sách phát triển kinh tế, chính
sách thương mại, chính sách cạnh tranh, chính sách đầu tư...Các chính sách và
biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích hay hạn chế, ưu tiên hay kìm hãm sự phát
triển của từng ngành cụ thể, do đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của từng

doanh nghiệp trong các ngành đó. Do đó, các chính sách kinh tế, các quy định
và thủ tục hành chính phải đơn giản, minh bạch, không phân biệt đối xử giữa các
loại hình doanh nghiệp sẽ có tác động mạnh tới kết quả, hiệu quả và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp
- Môi trường khí hậu tự nhiên: Cũng tuỳ vào từng doanh nghiệp khác
nhau mà sự ảnh hưởng của yếu tố này cũng khác nhau. Nếu quốc gia có vị trí địa
lý thuận lợi cho thông thương quốc tế thì là điều kiện tốt để doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu nâng cao được năng lực của mình. Ví như các doanh
nghiệp ở Lào chẳng hạn do vị trí địa lý không mấy thuận lợi (không có đường
biển) thì việc thực hiện xuất nhập khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn. Hay đối với
ngành xây dựng sản phẩm là các công trình do vậy điều kiện khí hậu cũng ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm và tiến độ thi công của doanh nghiệp
• Bối cảnh quốc tế và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
Ngày này thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ, thời đại của hội nhập
kinh tế quốc tế, của toàn cầu hoá, của công nghệ tự động hoá. Đó quả thực là vũ
12
đài kinh tế lớn, là sân chơi chung cho mọi quốc gia, nó sẽ là cơ hội cho doanh
nghiệp nào biết tận dụng. Đồng thời nó cũng tạo điều kiện tốt cho doanh nghiệp
nâng cao được năng lực của mình bằng việc chuyển giao công nghệ, vốn, nhân
lực có trình độ tay nghề vào trong sản xuất
1.2.2.2 Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
• Các chính sách chiến lược của công ty
Chính sách và chiến lược của doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng,
giúp hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Nó vạch ra phương hướng và
mục tiêu hoạt động cho doanh nghiệp trong trung hạn và dài hạn, giúp doanh
nghiệp hạn chế rủi ro, vượt qua khó khăn thử thách để đi đến thành công. Chính
sách và chiến lược bao gồm nhiều loại như: chính sách nhân sự, chính sách sản
phẩm, chính sách thị trường...Vạch chính sách và chiến lược đúng là điều cơ bản
để mọi doanh nghiệp giành được thành công trên thương trường. Làm được điều
này phụ thuộc rất nhiều vào tài, đức và nghệ thuật quản lý của lãnh đạo doanh

nghiệp
• Sự sẵn sàng của các nhân tố đầu vào
Các nhân tố đầu vào bao gồm: nhân lực, nguyên liệu, phụ liệu, bán
thành phẩm, nhiên liệu, công nghệ, thông tin. Các nhân tố này phải sẵn sàng,
nghĩa là phải dự trữ đủ số lượng, chủng loại và chất lượng, để kịp thời cung cấp
cho các bộ phận sản xuất kinh doanh khi cần, nếu không sẽ làm gián đoạn quá
trình sản xuất, làm giảm năng suất và chất lượng, hậu quả là làm giảm năng lực
cạnh tranh. Đặc biệt trong thời đại ngày nay việc cung cấp thông tin về đối thủ
và thị trường đúng và kịp thời cho các bộ phận là cực kỳ quan trọng để doanh
nghiệp có thể chiến thắng trong cạnh tranh
• Nhận thức chung của người lao động trong doanh nghiệp
Trước hết là nhận thức của người lao động về cạnh tranh: Quy luật của
cạnh tranh là sẽ đào thải những cái yếu, cái không đủ năng lực. Do vậy nếu
người lao động trong công ty chưa nhận thức được quy luật và không chịu rèn
luyện, phấn đấu, học tập nâng cao trình độ, chưa nhận thức được vai trò và địa
13
vị của mình trong dây chuyền sản xuất sẽ làm cho sản phẩm không đảm bảo chất
lượng và như vậy sẽ gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh cũng như sự tồn tại của
doanh nghiệp
Thứ hai là sự hiểu biết của người lao động về chính sách luật pháp của
Nhà nước. Điều này rất quan trọng vì nếu kiến thức này của người lao động
chưa được trang bị đầy đủ thì rất có thể gây ra những hành vi sai lầm xâm hại tới
lợi ích của tập thể, của quốc gia, làm giảm uy tín của doanh nghiệp như: họ có
thể tham gia biểu tình, đình công mà pháp luật không cho phép.
Thứ ba là quan điểm về lao động: Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mọi
người cần nhận thức rõ rằng là mình làm cho ai? và để làm gì? chứ không chỉ
đơn thuần là làm thuê kiếm sống. Từ đó mới có ý thức lao động tốt, chủ động và
sáng tạo nhằm xây dựng và phát triển công ty. Nếu quan điểm lao động không
đúng sẽ dẫn tới kỷ luật lao động chấp hành không tốt, người lao động làm với
tinh thần nghĩa vụ, hoàn thành công việc với chất lượng không cao, sản phẩm

không có tính cạnh tranh và điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới sức cạnh tranh của
doanh nghiệp
• Về trình độ tổ chức, quản trị doanh nghiệp
Thứ nhất là về cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Nếu một doanh
nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng
thì mọi hoạt động sẽ trôi chảy, có năng suất. Ngược lại một cơ cấu chồng chéo,
quyền lực không được phân chia thì hiệu quả hoạt động sẽ kém. Trong đó thì cơ
cấu Ban lãnh đạo có phẩm chất và tài năng có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh
hưởng tới sự thành công của doanh nghiệp. Một nhà lãnh đạo giỏi không chỉ biết
làm cho bộ máy công ty vận hành đúng quy luật và còn phải làm cho nó hoạt
động một cách linh hoạt, uyển chuyển cho phù hợp với sự thay đổi của môi
trường trong và ngoài doanh nghiệp
Thứ hai là công tác đào tạo: Quản trị doanh nghiệp trước hết là phải
làm tốt công tác giáo dục đào tạo trong công ty. Lãnh đạo doanh nghiệp phải
tiến hành thường xuyên việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa cho
14
mọi thành viên.Từ đó giúp họ nhận thức tốt về pháp luật, về đường lối chính
sách của Đảng, Nhà nước, khuyến khích mọi người tiết kiệm, chống lãng phí,
tham nhũng, giảm thiểu những chi phí vô ích, ngoài ra còn tạo môi trường văn
hoá lành mạnh trong công ty giúp mọi người đoàn kết, gắn bó, tạo dựng được
tập thể vững mạnh cùng phấn đấu cho mục tiêu " nâng cao năng lực cạnh tranh"
của doanh nghiệp
Thứ ba là việc áp dụng các phương pháp quản trị mới: Nếu biết áp
dụng các phương pháp và biện pháp quản trị mới sẽ mang lại hiệu quả và năng
suất cao, giảm được nhiều chi phí, tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh.
Nếu ta sử dụng một lối mòn trong quản trị sẽ dẫn đến sự trì trệ, bảo thủ, không
phù hợp với những thay đổi của cơ chế thị trường và đặc biệt sẽ bị đối thủ " bắt
bài" tìm kẽ hở để chiếm mất thị phần của công ty
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.3.1.Nhóm chỉ tiêu định lượng

• Chỉ tiêu thị phần doanh nghiệp trên thị trường
Thị phần phản ánh thế mạnh của doanh nghiệp trong ngành, là chỉ tiêu
được doanh nghiệp hay dùng để đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của
mình so với đối thủ cạnh tranh. Thị phần lớn sẽ tạo lợi thế cho doanh nghiệp chi
phối và hạ thấp chi phí sản xuất do lợi thế về quy mô. Thị phần của doanh
nghiệp trong một thời kỳ là tỷ lệ phần trăm thị trường mà doanh nghiệp đã
chiếm lĩnh được trong thời kỳ đó. Có các loại thị phần sau:
- Thị phần của công ty so với toàn bộ thị trường (thị phần tuyệt đối):
Là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp so với doanh số toàn bộ
ngành trong một thời kỳ nhất định. Công thức tính:
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần tuyệt đối = * 100%
Tổng doanh thu trên thị trường
Riêng đối với ngành xây dựng có thể tính thị phần tuyệt đối theo công thức sau:
15
Giá trị tổng SLXL do doanh nghiệp hoàn thành
Thị phần tuyệt đối = * 100%
Tổng giá trị SLXL hoàn thành trên thị trường
- Thị phần tương đối: Là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so với
đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của công ty trong cạnh tranh
trên thị trường như thế nào. Công thức tính:

Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần tương đối = * 100%
Doanh thu của đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất
Chỉ tiêu này đơn giản dễ tính, song kết quả tính toán chưa thật chính
xác do khó lựa chọn được đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, đặc biệt khi doanh
nghiệp kinh doanh trên nhiều lĩnh vực
• Chỉ tiêu lợi nhuận đạt được

Chỉ tiêu này được thể hiện qua một số yếu tố sau như: giá trị tổng sản
lượng sản xuất, lợi nhuận ròng, tỷ suất lợi nhuận/ tổng sản lượng sản xuất.
Đây là một trong các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất của doanh
nghiệp. Nếu các chỉ tiêu này càng cao phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh
càng cao và do đó tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
• Năng suất lao động
Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của nhiều yếu tố như: con
người, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức phối hợp...Do vậy nó là tiêu
chí rất quan trọng để đánh giá năng lực cạnh trnh của doanh nghiệp. Năng suất
lao động được đo bằng sản lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng trên một đơn vị
sản lao động. Công thức tính:
Lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng
Năng suất lao động =
16
Số lượng lao động làm ra sản phẩm đó
Năng suất lao động của doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực cạnh
tranh càng cao bấy nhiêu so với các doanh nghiệp cùng loại
1.2.3.2 Nhóm chỉ tiêu định tính
• Uy tín, danh tiếng
Đây là chỉ tiêu có tính chất rất khái quát, nó bao gồm rất nhiều yếu tố
như: chất lượng sản phẩm, các hoạt động dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp,
hoạt động Marketing, quan hệ của doanh nghiệp với các tổ chức tài chính, mức
độ ảnh hưởng của doanh nghiệp với chính quyền...Đó là tài sản vô hình vô giá
mà doanh nghiệp nào cũng coi trọng, nếu mât uy tín thì chắc chắn doanh nghiệp
không có khả năng cạnh trạnh trên thương trường. Có uy tín doanh nghiệp có
thể huy động được rất nhiều nguồn lực như: vốn, nguyên vật liệu, và đặc biệt là
sự an tâm, gắn bó của người lao động với doanh nghiệp.
• Kinh nghiệm của doanh nghiệp
Một công ty có bề dày kinh nghiệm trên thương trường thì cũng được
đánh giá rất cao về năng lực cạnh tranh. Kinh nghiệm lâu năm sẽ giúp công nâng

cao chất lượng sản phẩm, có thể nắm bắt và sử lý nhiều tình huống phức tạp với
chi phí và thời gian thấp nhất. Đây cũng chính là một lợi thế của doanh nghiệp
trong cuộc chạy đua với các đối thủ khác
1.2.4 Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh doanh nghiệp
1.2.4.1 Về sản phẩm
• Chất lượng sản phẩm
Là yếu tố đặt nên hàng đầu của đại bộ phận người tiêu dùng khi chọn
lựa sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp nào đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng
một cách tối đa thì sẽ giành được thị phần cao hơn. Chất lượng sản phẩm là tổng
hợp các đặc tính cần có của sản phẩm bao gồm cả tính kỹ thuật, tính mỹ thuật,
tính kinh tế, độ tin cậy và độ an toàn. Đây là công cụ cạnh tranh hữu hiệu của
mọi doanh nghiệp và vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là tất yếu khách quan
17
cho bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường vì ngoài đạt được
mục tiêu lợi nhuận nó còn giúp doanh nghiệp đạt được nhiều mục tiêu khác nữa
• Giá cả
Quy luật giá trị đã chỉ ra rằng: Với cùng một sản phẩm có chất lượng
như nhau nếu sản phẩm nào có giá thấp hơn sẽ thắng trong cạnh tranh và ngược
lại thì sẽ bị thị trường đào thải. Do vậy ngoài việc nâng cao chất lượng thì
doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp để giảm thiểu chi phí, hạ giá thành sản
phẩm nhằm thu hút sự quan tâm của khách hàng so với đối thủ
• Tiến độ hoàn thành sản phẩm
Bước sang thời đại của công nghệ thông tin do vậy thời gian được quý
như vàng, đó là tiêu chí để đánh giá năng lực doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
có thể tạo ra sản phẩm với chất lượng cao và giá cả hợp lý xong tiến độ hoàn
thành lại quá chậm không đảm bảo giao hàng đúng hợp đồng thì uy tín của
doanh nghiệp cũng sẽ giảm và quy mô kinh doanh cũng bị hạn chế. Nếu rút
ngắn được tiến độ thì sẽ giảm được nhiều chi phí và tăng khả năng cạnh trạnh
cho doanh nghiệp. Để làm được điều này doanh nghiệp cần phải đổi mới, cải
tiến công nghệ, phân công lao động hợp lý, tạo dây chuyền lao động khoa học,

hiệu quả
• Hệ thống kênh phân phối
Doanh nghiệp cần xây dựng và kiến tạo được mạng lưới kênh phân
phối rộng khắp, chuyên nghiệp. Đó không chỉ là cách đưa sản phẩm đến tay
người tiêu dùng mà đó còn là cách quảng bá hình ảnh của công ty. Các kênh
phân phối này cần phải liên kết trao đổi thông tin với nhau và đưa thông tin
phản hồi chính xác từ phía khách tới công ty và ngược lại.
1.2.4.2 Về quản trị doanh nghiệp
• Hiện đại hoá hệ thống tổ chức, quản lý của doanh nghiệp
Doanh nghiệp nên thực hiện tổ chức phân cấp, không nên tập trung
quyền lực vào một hoặc một ít người. Phải phân công rõ ràng, hợp lý giữa các
phòng ban, giữa các bộ phận nhằm phát huy được năng lực của các cá nhân,
18
tránh chồng chéo, rườm rà gây lãng phí nguồn lực. Quán triệt và thực hiện tốt
công tác tự quản, tự kiểm tra của cán bộ công nhân viên. Áp dụng các phương
pháp quản lý hiện đại, nhằm gắn kết được mọi bộ phận trong doanh nghiệp, có
thể phản ứng nhanh với thay đổi của thị trường, tạo năng lực cạnh tranh mạnh
hơn đối thủ
• Xây dựng văn hoá doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là cách ứng xử của mọi thành viên trong doanh
nghiệp với nhau, với người tiêu dùng và với cộng đồng xã hội được hình thành
trên nền tảng đạo đức. Chính vì vậy doanh nghiệp cần xây dựng cho mình đặc
trưng văn hoá riêng, lãnh đạo doanh nghiệp phải giáo dục nhân viên về văn hóa
doanh nghiệp mình làm cho hình ảnh văn hoá, biểu tượng doanh nghiệp in sâu
vào trong tâm trí của mọi thành viên làm cho họ yêu mến doanh nghiệp biến nó
thành hành động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, thiết kế, chế tạo sản phẩm
mang đặc trưng chất lượng riêng của doanh nghiệp tăng sự đoàn kết giữa các
thành viên. Điều này sẽ tạo cho doanh nghiệp một năng lực cạnh tranh mạnh
hơn đối thủ.
1.2.4.3 Phát triển các nguồn lực doanh nghiệp

• Nguồn vốn
Là yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng đối với mọi doanh nghiệp nó
thể hiện tiềm lực cạnh tranh mạnh hay yếu của doanh nghiệp trên thương
trường. Do vậy doanh nghiệp tìm mọi biện pháp nhằm thu hút và huy động
nguồn vốn đầu tư từ các cổ đông và trên thị trường tài chính. Đặc biệt trong thời
kỳ hậu WTO thì cơ hội cho các doanh nghiệp tìm kiếm các nhà đầu tư nước
ngoài là rất lớn. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước
ngoài, tham gia thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
• Nguồn nhân lực
Đây là yếu tố đầu vào cần thiết cho sự phát triển của doanh nghiệp, là
nguồn tài nguyên không bị cạn kiệt. Tuy nhiên, không phải cứ có nguồn nhân
lực dồi dào thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó cao, mà nó phải được
19
thể hiện ở chất lượng lao động đó như thế nào. Vì vậy, doanh nghiệp cần nâng
cao công tác đào tạo nhân lực nhằm tạo ra được đội ngũ cán bộ nhân viên có
nghiệp vụ và trình độ chuyên môn, đội ngũ công nhân, thợ lành nghề, kinh
nghiệm. Lãnh đạo doanh nghiệp cần học cách quản lý tốt nguồn nhân lực, sử
dụng nó một cách hiệu quả và phải xây dựng được mối quan hệ tốt giữa lãnh
đạo và cấp dưới nhằm tạo ra một tập thể vững mạnh và đoàn kết
• Trình độ công nghệ
Doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến và áp dụng những công nghệ
mới vào trong sản xuất nhằm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, tạo lợi thế
cạnh tranh trên thương trường. Là thời đại của khoa học công nghệ nên doanh
nghiệp nào có trình độ công nghệ cao sẽ chiếm được ưu thế cao hơn. Tăng
cường công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng máy móc thiết bị từ khâu thu mua
nhằm tránh việc nhập khẩu những công nghệ cũ, lạc hậu từ các nước gây lãng
phí và ô nhiễm môi trường
1.2.4.4 Hoạt động nghiên cứu phát triển
So với hoạt động đào tạo thì hoạt động khoa học - công nghệ (nghiên
cứu - triển khai) cũng không kém phần quan trọng đối với doanh nghiệp. Nếu

doanh nghiệp còn ở trình độ thấp thì phải nghiên cứu để nhập khẩu máy móc,
công nghệ mới, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ kỹ sư có đủ trình độ để đánh
giá chúng, nếu không rất dễ mua phải công nghệ lạc hậu, giảm năng suất, chất
lượng. Còn đối với doanh nghiệp có trình độ cao thì có thể mua một vài công
đoạn khó để mổ sẻ nghiên cứu, sau đó cải tiến, chế tạo ra công nghệ thích hợp
với điều kiện ở Việt Nam, tạo năng suất cao hơn, giá rẻ hơn.
1.3 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi
Việt Nam là thành viên của WTO
 Ngày 11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây chính là bước ngoặt đánh dấu
sự chuyển biến quan trọng của đất nước ta trong tiến trình hội nhập và toàn cầu
hoá. Chúng ta tham gia vào thị trường chung thế giới tức là phải chấp nhận luật
20
chơi chung và chịu sức ép cạnh tranh lớn từ các công ty và tập đoàn nước ngoài
đã, đang và sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Vào WTO tức là chúng ta
phải thực hiện những cam kết đã ký trong đàm phán như: cắt giảm thuế quan,
giảm và tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế quan, giảm bớt các trở ngại và hạn chế
đối với dịch vụ, đầu tư quốc tế, điều chỉnh các chính sách thương mại khác...
Điều này đồng nghĩa với việc xoá bỏ hàng rào bảo hộ, tạo một sân chơi lớn,
công bằng, bình đẳng cho mọi doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các đối thủ
nước ngoài thì có tiềm lực rất mạnh về mọi mặt, trong khi đó khó khăn của các
doanh nghiệp Việt Nam là năng lực còn hạn chế, quy mô sản xuất, tài chính còn
khiêm tốn, năng lực quản lý và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, mối liên kết giữa
các doanh nghiệp còn yếu mang tính hình thức. Do vậy nếu mỗi doanh nghiệp
trong nước không tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì trong trận đấu
vốn không cân sức với đối thủ nước ngoài sẽ rất dễ bị loại khỏi cuộc đua. WTO
sẽ là cơ hội tốt cho doanh nghiệp nào biết tận dụng nó một cách hợp lý song
cũng chính là rào cản lớn cho doanh nghiệp nếu không tự nâng cao được năng
lực cạnh tranh cần thiết cho mình.
 Nâng cao năng lực cạnh tranh chính là đáp ứng yêu cầu tất yếu

khách quan, phù hợp với quy luật cạnh tranh của thương trường và cũng là phục
vụ lợi ích của chính doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong nền
kinh tế thị trường đều phải đối mặt với cạnh tranh, với quy luât "mạnh được yếu
thua", nếu né tránh thì sớm muộn gì doanh nghiệp cũng bị cạnh tranh đào thải.
Do vậy để có thể tồn tại, đứng vững trên thương trường và thắng được đối thủ
thì tất yếu doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng
cách không ngừng nâng cao chất lượng hạ giá thành, áp dụng thành tựu công
nghệ tiên tiến vào trong sản xuất, sử dụng kiến thức quản lý hiện đại vào hoạt
động quản trị một cách khoa học, sáng tạo.
 Mặt khác nâng cao năng lực cạnh tranh cũng chính là nhằm đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tế. Sở dĩ như vậy là vì:
21
- Do yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ
không chỉ về mặt chất lượng, giá cả, kiểu cách thiết kế, tính mỹ thuật sản phẩm,
các dịch vụ sau bán mà sự ưa chuộng của khách hàng còn được thể hiện qua uy
tín, kinh nghiệm, thương hiệu của chính doanh nghiệp. Vì thế đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp phải có những cải tiến đổi mới nhất định để nâng cao năng lực của mình
mới có khả năng đáp ứng những yêu cầu này của khách hàng.
- Do cuộc bùng nổ cách mạng công nghệ toàn cầu, với những tiến bộ
của khoa học đã tạo ra những dây truyền máy móc thiết bị vô cùng hiện đại, tự
động hoá, làm giảm rất nhiều chi phí cho sản xuất, tăng tiến độ hoàn thành sản
phẩm, và giúp doanh nghiệp có thể thực hiện được những dự án có quy mô lớn
và tính phức tạp cao về kỹ thuật. Trong cuộc chạy đua này nếu doanh nghiệp
nào tận dụng được sức mạnh kỹ thuật thì chắc chắn sẽ về đích nhanh hơn. Mà để
tiếp cận được với những công nghệ cao này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự
tích luỹ, nâng cao năng lực của mình.
 Và cuối cùng nâng cao năng lực cạnh tranh là cần thiết cho sự phát
triển kinh tế, xã hội. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, do vậy
mỗi tế bào "khoẻ" thì cả nền kinh tế đó cũng có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Ngược lại khi nền kinh tế đó "khoẻ" thì nó lại tạo điều kiện môi trường thuận

lợi cho các doanh nghiệp phát huy được lợi thế của mình.
22
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG SÔNG ĐÀ
2.1 Tổng quan về công ty Cổ phần công trình giao thông Sông Đà
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Trước hết ta giới thiệu sơ lược về Tổng công ty Sông Đà. Tổng công ty
Sông Đà là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ xây dựng được thành lập vào
ngày 1/6/1961 với tên gọi ban đầu là Ban chỉ huy công trường thuỷ điện Thác
Bà. Đến ngày 11/3/2002 theo quyết định số 285/QĐ-BXD của Bộ Xây dựng đã
chính thức đổi tên thành Tổng công ty Sông Đà. Sau hơn 40 năm hoạt động,
Tổng công ty Sông Đà đã có một bề dày lịch sử phát triển vẻ vang và luôn gắn
liền với các công trình thuỷ điện, công nghiệp, giao thông trọng điểm của đất
nước. Hiện nay, Tổng công ty: có trên 30 công ty con của công ty mẹ có vốn chủ
sở hữu trong đó có Sông Đà 2, có 5 công ty do công ty mẹ đầu tư và thành lập,
có 20 công ty cổ phần do công ty con của công ty mẹ trực tiếp quản lý có vốn
chủ sở hữu Nhà nước (trong đó có công ty cổ phần công trình giao thông Sông
Đà). Điều đó chứng tỏ tầm vóc phát triển vững trãi của một công ty xây dựng
đầu ngành .
Như vậy công ty Sông Đà 2 là công ty con của Tổng công ty Sông Đà,
được thành lập theo Quyết định số 131A/BXD-TCLĐ ngày 26 tháng 03 năm
1993 của Bộ Xây dựng với tên gọi là Công ty Xây dựng Sông Đà 2. Đầu năm
2002 Công ty được đổi tên thành Công ty Sông Đà 2. Công ty Sông Đà 2 đã
được cấp chứng chỉ ISO 9001: 2000 số NO QUAL/2003/20148a do AFAQ cấp
ngày 28/5/2003. Qua quá trình hoạt động và phát triển, Công ty đã được Đảng
và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Với phạm vi hoạt động
rộng khắp cả nước, hiện nay Công ty có 03 Xí nghiệp trực thuộc và 02 Công ty
Cổ phần đóng trên địa bàn các tỉnh Hà Nội, Hà Tây, Hòa Bình, Tuyên Quang,
Sơn La, Nghệ An, đó là :

23
• Xí nghiệp Sông Đà 2.02
• Xí nghiệp Sông Đà 2.07
• Xí nghiệp Sông Đà 2.08
• Công ty Cổ phần Công trình Giao thông Sông Đà
• Công ty Cổ phần Đầu tư & xây lắp Sông Đà
Để thực hiện chủ trương của Nhà nước và của Tổng công ty Sông Đà
về chuyển đổi hình thức sở hữu từ doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ
phần. Xí nghiệp Sông Đà 2.01 thuộc Công ty Sông Đà 2 đã chuyển đổi thành
Công ty cổ phần công trình giao thông Sông Đà theo quyết định số
1731/QĐ/BXD ngày 25 tháng 12 năm 2003 của Bộ Xây dựng.
Trụ sở giao dịch của công ty:
+ Địa điểm: Km 10 đường Nguyễn Trãi, phường Văn Mỗ, thị xã Hà
Đông, tỉnh Hà Tây
+ Số điện thoại: 034.821.038
+ Fax : 034.821.038
Công ty cổ phần công trình giao thông Sông Đà là do công ty con
(Sông Đà 2) thuộc công ty mẹ (Tổng công ty Sông Đà) trực tiếp quản lý có vốn
chủ sở hữu Nhà nước.
Công ty cổ phần công trình giao thông Sông Đà đăng ký kinh doanh từ
tháng 04 năm 2004, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng trong
và ngoài nước, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, tự chủ về tài chính,
hạch toán kinh tế độc lập do công ty cổ phần Sông Đà 2 nắm giữ cổ phần chi
phối.
2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy công ty
2.1.2.1 Chức năng, nhiêm vụ của công ty
Công ty cổ phần công trình giao thông Sông Đà xây dựng phương án
sản xuất kinh doanh trên cơ sở sản xuất kinh doanh do công ty Sông Đà 2 giao,
được bổ xung và điều chỉnh cho phù hợp với hình thức sở hữu mới và sự phát
triển của thị trường sản xuất kinh doanh những năm tiếp theo.

24
Nhiệm vụ của công ty là:
- Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tháng, quý, năm trên cơ sở nguồn
lực của công ty. Chỉ đạo các phòng, ban, đội thực hiện kế hoạch tháng, quý, năm
mà công ty đã đề ra nhằm thực hiện có hiệu quả và đồng bộ kế hoạch sản xuất
kinh doanh của công ty.
- Bảo toàn và sử dụng vốn có hiệu quả, hoàn thành các nghĩa vụ tài
chính với ngân sách Nhà nước.
- Tổ chức tốt công tác cán bộ, lao động, tiền lương.
- Thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài sản môi trường
quốc phòng và an ninh quốc gia.
- Công khai báo cáo tài chính hàng năm, đánh giá đúng và khách quan
về hoạt động của công ty theo đúng quy định của Chính phủ.
- Đảm bảo thu nhập và phân phối cổ tức lợi nhuận cho các cổ đông khi
kết thúc năm tài chính.
2.1.2.2 Cơ cấu bộ máy công ty
Cơ cấu bộ máy quản trị của công ty được thực hiện theo nguyên tắc tổ
chức: Bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất trong quản lý điều hành cũng
như trong thực hiện các nhiệm vụ sản xuất ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của
công ty. Nhằm đạt được hiệu quả năng suất cao, hoàn thành mục tiêu chiến lược
sản xuất kinh doanh mà công ty đã đề ra.
Chỉ đạo sản xuất của công ty theo sơ đồ sau: (trang 26)
Công ty cổ phần công trình giao thông Sông Đà có quân số bình quân
là 250 người với cơ cấu tổ chức như sau:
 Đại hội đồng cổ đông
Là cơ quan có quyết định cao nhất, bao gồm:
• Đại hội đồng cổ đông thành lập: có nhiệm vụ thảo luận và thông
qua điều lệ, bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, thông qua phương án sản
xuất kinh doanh, quyết định cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty.
25

×