Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nghiên cứu thực trạng việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên trường CDDSPTW

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.08 KB, 64 trang )

ứng dụng chuẩn ISO/IEC 9126 vào đánh giá chất lượng các hệ thống
thương mại điện tử
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC HÌNH...............................................................................2
DANH MỤC CÁC BẢNG..............................................................................2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................4
TÓM TẮT NỘI DUNG LUẬN VĂN.............................................................5
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................6
Chương I TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ...................8
1.1 Khái niệm thương mại điện tử......................................................................8
1.2 Các loại hình thương mại điện tử.................................................................8
1.2.1 Mô hình giao dịch doanh nghiệp – người tiêu dùng (B2C) .........................9
1.2.2. Mô hình giao dịch doanh nghiệp - doanh nghiệp (B2B)............................10
1.1.3. Customer to Customer (C2C)....................................................................11
1.3. Tình hình phát triển TMĐT trên thế giới.................................................12
1.4. Tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam..............................13
Chương II CHẤT LƯỢNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC HỆ
THỐNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ............................................................18
2.1. Tổng quan về ISO/IEC 9126 ....................................................................18
2.2. Những đặc điểm của hệ thống thương mại điện tử cần đánh giá............23
2.2.1 Sơ đồ site (Site map)...................................................................................23
2.2.2 Túi hàng (Shopping cart)............................................................................23
2.2.3 Search Engine.............................................................................................23
2.2.4 Thời gian upload (Uploading time).............................................................24
2.2.5 Màu sắc.......................................................................................................24
2.2.6 Biểu diễn sản phẩm (Product’s presentation).............................................24
2.2.7 Các phương thức thanh toán.......................................................................24
2.2.8 Duyệt trang chủ từ bất kỳ vị trí nào (Browsing to the main page)..............25
2.2.9 Hỗ trợ đa ngôn ngữ (Multilingualism)........................................................25
2.2.10 Chức năng giảm giá và chiết khấu khi mua hàng (Purchasing offers and
discounts).............................................................................................................25


2.2.11 Chuyển hàng (Product’s shipment)...........................................................25
2.2.12 Hồ sơ công ty (Business profile )............................................................25
2.3. Áp dụng ISO 9126 vào trong đánh giá các hệ thống thương mại điện tử
.............................................................................................................................26
2.3.1.Giới thiệu....................................................................................................26
2.3.2 Chất lượng trong hệ thống thương mại điện tử..........................................27
2.3.2.1 Tính hoạt động.....................................................................................27
2.3.2.2 Tính tin cậy..........................................................................................28
1
2.3.2.3 Tính khả dụng......................................................................................28
2.3.2.4 Tính hiệu quả.......................................................................................29
Chương 3 ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG HỆ
THỐNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ............................................................30
3.1. Tiêu chí áp dụng..........................................................................................30
3.2.Mô hình chất lượng đề xuất........................................................................31
Chương IV XÂY DỰNG CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ DỰA TRÊN MÔ HÌNH
ĐỀ XUẤT VÀ ÁP DỤNG ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ WEBSITE TMĐT......40
4.1 Môi trường xây dựng công cụ đánh giá......................................................40
4.4.1 Nền tảng xây dựng công cụ........................................................................40
4.4.2. Cấu trúc mạng BBNs .............................................................................42
4.4.3 Công cụ MSBNx của Microsoft.................................................................45
4.2 Xây dựng công cụ đánh giá dựa trên mô hình đề xuất..............................46
4.2.1Tạo các nút và các điều kiện phụ thuộc.......................................................46
Từ cách tính như trên thì ta có thể tính giá trị xác suất cho tất cả các nút còn lại
trong mô hình và bảng giá trị xác suất các nút này sẽ được đưa vào phần phụ lục
của luận văn.........................................................................................................49
4.3 Áp dụng đánh giá chất lượng một số website TMĐT................................49
KẾT LUẬN....................................................................................................60
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 Các mô hình giao dịch điện tử của các tổ chức.......................9

Hình 1.2 Mô hình thương mại điện tử B2C................................................10
Hình 2.1 Mô hình đánh giá chất lượng chung............................................19
Hình 2.2 Các đặc tính chất lượng................................................................20
Hình 3.2 Cấu trúc đơn giản của mạng BBNs trong xây dựng...................43
Hình 3.3 Cấu trúc mạng BBNs tổng quát...................................................43
Hình 3.4 Cấu trúc đơn giản của BBNs trong tự nhiên...............................44
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Các đặc tính mức cao của hệ thống thương mại điện tử............32
Bảng 3.2 Các đặc tính mức giữa của hệ thống thương mại điện tử..........33
Bảng 3.4 CPT của các biến “Road Conditions” của mạng BBNs ...........44
2
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TMĐT: Thương mại điện tử
EDI: Electronic Data Interchange
VAN: Value-Added Networks
SCM: Supply Chain Management
B2B: Bussiness To Bussiness
B2C: Bussiness To Customer
C2C: Customer To Customer
G2G: Goverment To Government
G2C: Government To Customer
B2G: Bussiness To Government
G2B: Goverment To Bussiness
ISO/IEC: Internation Organnization for Sandardization/International
Electrotechical Commission
HCI: Human Computer Interface
BBNs: Bayesian Belief Networks
TLS: Transport Layer Security
MSBN: Microsoft Belief Network

4
TÓM TẮT NỘI DUNG LUẬN VĂN
Thương mại điện tử hiện đang phát triển rất mạnh mẽ tại Việt Nam. Các loại
hình thương mại điện tử phổ biến có thể kể đến đó là B2C- Doanh nghiệp với khách
hàng, C2C-khách hàng với khách hàng, B2B- Doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Vấn đề đánh giá giá chất lượng hệ thống thương mại điện tử là một vấn đề
mới, không chỉ đối với lĩnh vực CNTT ở Việt Nam mà còn đối với thế giới. Việc
đánh chất lượng các hệ thống thương mại điện tử cũng phải dựa trên các chuẩn đánh
giá giống như đánh giá chất lượng phần mềm đó là chuẩn ISO/IEC 9126. Chuẩn này
được dùng để đánh giá chất lượng phần mềm và có các đặc tính tính năng
(Functionality), độ ổn định hoặc khả năng tin cậy ( Reliability), tính khả dụng
(Usability), tính hiệu quả (Efficiency), Khả năng duy trì (Maintainability), Tính khả
chuyển (Protability). Đối với việc đánh giá chất lượng của hệ thống thương mại điện
tử ta chỉ dùng bốn đặc tính chất lượng đó là tính năng (Functionality), độ ổn định
hoặc khả năng tin cậy ( Reliability), tính khả dụng (Usability), tính hiệu quả
(Efficiency).
Mô hình đánh giá sẽ dựa trên các đặc tính yêu cầu được đưa ra trong tiêu
chuẩn trên, và mô hình được xây dựng trên nền mạng BN(Baysian Network) với cơ
sở lý thuyết xác suất Bayes đế tính các giá trị xác suất của các thuộc tính chất lượng.
Các giá trị xác suất này sẽ cho chúng ta biết được chất lượng các chức năng của hệ
thống cũng như chất lượng tổng thể của toàn bộ hệ thống thương mại điện tử.
Mô hình đánh giá đưa ra trong luận văn là mô hình đánh giá dành cho các hệ
thống thương mại điện tử loại B2C, mô hình đã đưa vào đánh giá một số website
thương mại và có báo cáo phân tích cụ thể chất lượng của từng hệ thống, sau đây là
toàn bộ nội dung của luận văn.
5
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay tại các nước phát triển, thương mại điện tử là một loại hình thương
mại đã rất phổ biến. Người dùng Internet tại các nước phát triển có thể mua, bán, trao
đổi hầu như mọi thứ qua mạng. Việc thanh toán cũng qua mạng và thực hiện rất dễ

dàng bằng cách chuyển khoản hoặc sử dụng thẻ tín dụng. Còn đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam thì thương mại điện tử đi qua giai đoạn đầu của quá trình
phát triển.
Theo báo cáo tình hình ứng dụng thương mại điện tử năm 2007 của Bộ Công
Thương thì cho đến cuối năm 2007 Thương mại điện tử Việt Nam đã có nhiều thay
đổi đáng kể. Việc ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp đang tăng lên
nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực du lịch, chứng khoán và bán lẻ. Các loại hình
thương mại được phát triển phổ biến đó là B2C- doanh nghiệp với người tiêu dùng,
C2C- Người tiêu dùng với người tiêu dùng và B2B- Doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Việc thanh toán điện tử đã có nhiều cải thiện, đã có các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ thanh toán điện tử tiêu biển là PayNet và VnPay. Các ngân hàng cũng chú ý đến
việc thanh toán điện tử hơn, nhiều ngân hàng đã có các dịch vụ ngân hàng trực tuyến
như Techcombank và Đông á. Ngoài ra các cổng thanh toán điện tử cũng đang hoàn
thiện dần tiêu biểu là SmartLink và Banknetvn. Đây là các yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến sự phát triển của thương mại điện tử Việt Nam.
Bên cạnh các vấn đề nói trên một yếu tố quan trọng nữa ảnh hưởng đến sự
phát triển của thương mại điện tử Việt Nam đó là vấn đề xây dựng các hệ thống
thương mại điện tử của các doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử. Chất lượng
của các hệ thống thương mại điện tử của các doanh nghiệp là nhân tố chính ảnh
hưởng đến sự thành công về mặt ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp đó.
Đối với các nước phát triển thì các hệ thống thương mại điện tử khi đưa vào
sử dụng đều được đánh giá chất lượng để tìm ra những điểm hạn chế và khắc phục
chúng. Và để làm được điều này thì đã có nhiều giải pháp được đưa ra như đánh giá
chất lượng theo hướng công nghệ của (Zwass, 1996; Elfriede & Rashka, 2001), đánh
giá dựa trên phản hồi từ người dùng cuối, nhưng tập trung chính vào tính khả dụng
(usability) của hệ thống, đánh giá dựa vào đặc tính cụ thể như các vấn đề như đặc
tính thể hiện sự giao dịch thành công (Bidgoli, 2002), hoặc đảm bảo tính tin cậy của
hệ thống (Elfriede & Rashka, 2001) vv…Mặc dù tất cả các nhân tố trên ảnh hưởng
đến chất lượng của hệ thống thương mại điện tử và là điều kiện tiên quyết cho sự
thành công của hệ thống, nhưng chúng không phải là những nhân tố duy nhất. Để

6
đánh giá được chất lượng hệ thống thương mại điện tử thì phương pháp tổng thể là
kết hợp tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của hệ thống.
Chính vì vậy chuẩn ISO/IEC 9126 ra đời nhằm đáp ứng vấn đề đánh giá chất
lượng các hệ thống thương mại điện tử. Chuẩn này được áp dụng cả cho đánh giá
phần mềm và cả hệ thống thương mại điện tử.
Ở Việt Nam chưa có một báo cáo nào về đánh giá chất lượng các hệ thống
thương mại điện tử dựa trên chuẩn ISO/IEC 9126, do vậy luận văn này là một trong
những báo cáo tìm hiểu đầu tiên về việc ứng dụng chuẩn ISO/IEC 9126 vào đánh giá
chất lượng các hệ thống thương mại điện tử. Hy vọng rằng luận văn này sẽ đóng góp
một phần vào sự phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam.
7
Chương I TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1 Khái niệm thương mại điện tử
Thương mại điện tử là việc mua và bán các sản phẩm và dịch vụ thông qua hệ
thống điện tử như Internet và các mạng máy tính khác
1
. TMĐT không chỉ bắt đầu từ
khi có Web, ngay từ những năm 70 TMĐT đã có thể coi như đã tồn tại khi có nhiều
mua bán giữa các doanh nghiệp được thực hiện bằng giao thức EDI (Electronic Data
Interchange) thông qua các mạng VAN (Value-Added Networks). Tuy nhiên thương
mại điện tử thực sự phát triển kể từ khi có mạng Internet. Rất nhiều hình thức thương
mại điện tử sử dụng internet như chuyển tiền điện tử (electronic funds transfer), quản
lý dây chuyền cung ứng (SCM), Maketing qua mạng internet, xử lý giao dịch trực
tuyến trao đổi dữ liệu số, mua bán qua mạng vv…
1.2 Các loại hình thương mại điện tử
Các giao dịch của thương mại điện tử diễn ra bên trong và giữa ba nhóm tổ
chức chủ yếu là: doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước (Chính phủ) và người tiêu
dùng. Dựa vào các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử người ta phân
thành các loại mô hình giao dịch thương mại điện tử, bao gồm doanh nghiệp với

doanh nghiệp (business to business - B2B; doanh nghiệp với cơ quan nhà nước
(business to government -B2G); doanh nghiệp với người tiêu dùng (business to
consumer - B2C); cơ quan nhà nước với cơ quan nhà nước (Government to
Government G2G); cơ quan nhà nước với người tiêu dùng ( Government to consumer
G2C); người tiêu dùng với người tiêu dùng (consumer to comsumer - C2C). Trong
chương này chỉ nêu những mô hình có tính chất phổ biến đối với các doanh nghiệp và
có thể áp dụng tại Việt Nam.
1
Theo wikipedia
8

Hình 1.1 Các mô hình giao dịch điện tử của các tổ chức
1.2.1 Mô hình giao dịch doanh nghiệp – người tiêu dùng (B2C)
Do đối tượng tham gia mô hình giao dịch này gồm doanh nghiệp và người tiêu
dùng nên thương mại điện tử dạng B2C có sức lan tỏa mạnh và thường được xã hội
chú ý. Đây cũng là phương thức thường được doanh nghiệp lựa chọn khi bước đầu
triển khai ứng dụng thương mại điện tử, đặc biệt với những doanh nghiệp vừa và nhỏ
hướng tới phục vụ đối tượng người tiêu dùng.
Ta có thể rút ra một số nhận định sau:
- Điểm mấu chốt quyết định thành công của một website thương mại điện tử
B2C là khả năng thu hút và duy trì sự quan tâm của người tiêu dùng.
Mô hình kinh doanh thương mại điện tử theo phương thức B2C phù hợp hơn với các
doanh nghiệp thương mại dịch vụ.
- Thành công của các công ty theo mô hình B2C là nhờ vào những thuận lợi
trong việc mua hàng mà họ có thể cung cấp cho khách hàng. Quá trình này có phần
tương tự với dịch vụ khách hàng kiểu cũ. Các công ty như Amazon.com vv.. đã thu
hút được đông đảo khách hàng trực tuyến chủ yếu là nhờ vào việc đáp ứng một cách
hoàn hảo nhu cầu của họ.
9
Hình 1.2 Mô hình thương mại điện tử B2C

1.2.2. Mô hình giao dịch doanh nghiệp - doanh nghiệp (B2B)
Giữa các doanh nghiệp, TMĐT được sử dụng để trao đổi dữ liệu, mua bán và
thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Về mặt công nghệ trong khi B2C chủ yếu sử dụng
cửa hàng ảo trên mạng, mô hình B2B chủ yếu sử dụng trao đổi dữ liệu điện tử (EDI).
Về thanh toán, trong mô hình dạng B2B việc thanh toán được tiến hành trên
cơ sở quyết toán bù trừ vào cuối kỳ và có thể thực hiện theo phương thức truyền
thống mà vẫn không làm giảm ý nghĩa của nó. Trong khi đó ở mô hình B2C, việc
thanh toán được quan tâm đặc biệt vì mua hàng lần nào thanh toán lần đó. Đấy là chỗ
khác nhau căn bản giữa hai loại mô hình B2B và B2C. Các mô hình của thương mại
điện tử B2B:
Có nhiều kiểu mô hình B2B cho các kiểu kinh doanh khác nhau, trong đó đặc
trưng nhất là các mô hình sau:
- Mô hình bán hàng thông qua hệ thống các đại lý
- Mô hình mua hàng thông qua tập hợp các nhà cung cấp
- Mô hình hỗn hợp mở rộng extended site (ES)
- Mô hình bán đấu giá
- Mô hình gọi thầu
10
Hình 1.3 Mô hình thương mại điện tử B2B
1.1.3. Customer to Customer (C2C)
Hình 1.4 Mô hình thương mại điện tử C2C
Phương thức giao dịch thương mại điện tử C2C diễn ra giữa các cá nhân
người tiêu dùng với nhau, cá nhân người tiêu dùng đưa thông tin về sẩn phẩm trên
mạng người mua xem thông tin và đặt mua các phiên giao dịch diễn gia trực tiếp.
Mô hình C2C phụ thuộc rất nhiều vào trình độ thương mại điện tử, đòi hỏi
từng cá nhân tham gia giao dịch kiến thức và hiểu biết rất rõ về thương mại điện tử.
khác hẳn so với thương mại điện tử B2C hoặc B2B là những mô hình kinh doanh
dựa trên doanh nghiệp và do doanh nghiệp làm động lực. Hiện nay tốc độ phát triển
khá nhanh về số lượng trang web cũng như lượng thông tin đăng trên từng trang. Đây
là những website thông tin về các loại hàng hóa và dịch vụ cần bán, cần mua, đi cùng

với một số tiện ích như tìm kiếm, tư vấn tiêu dùng, v.v...
Đặc điểm của mô hình này:
11
Mô hình này bao gồm giao dịch giữa những khách hàng. Ở đây, khách hàng
thực hiện việc mua bán trực tiếp với khách hàng khác.
và là trường hợp điển hình mà thông
qua đó, người bán có thể quảng cáo và bán sản phẩm của mình tới người mua khác.
Nhưng để thực hiện các giao dịch này thì người bán và người mua phải đăng ký với
nhà cung cấp dịch vụ trên các site thương mại điện tử mà mình muốn thực hiện mua
và bán.
Đồng thời người bán phải trả một khoảng phí cố định cho nhà cung cấp dịch
vụ (ở đây là các site thương mại điện tử), người mua có thể trả giá cho sản phẩm
mình mua mà không cần trả bất kỳ một khoản phí nào..
Ví dụ: ebay.com, Chodientu.vn, Half.com
Hình 1.5 Mô hình thương mại điện tử C2B
Trong mô hình này đối tượng chủ yếu là khách hàng và doanh nghiệp đặc
điểm của mô hình này cũng tương tự như mô hình B2C, như ở đây khách hàng (cá
nhân) là người bán, còn doanh nghiệp là người mua.
Trong mô hình này thì người khách hàng là người bán trực tiếp đưa ra các
thông tin về sản phẩm nhận đặt hàng xử lý và gửi sản phẩm doanh nghiệp là người
mua (xem thông tin sản phẩm và đặt mua sản phẩm)
1.3. Tình hình phát triển TMĐT trên thế giới
Theo báo cáo thương mại điện tử 2005 của UNCTAD, tốc độ tăng trưởng về
số lượng người sử dụng Internet toàn cầu là 15,1%, thấp hơn so với 2 năm trước đó
(26%). Tuy số người sử dụng Internet ngày càng tăng nhanh ở Châu Phi (56%), Đông
Nam Á và SNG (74%) nhưng nhìn chung khoảng cách giữa các nước phát triển và
đang phát triển vẫn rất lớn (chỉ 1,1% người dân Châu Phi truy cập được Internet năm
2003 so với 55,7% của dân cư Bắc Mỹ). Nhằm tận dụng triệt để tính năng của
12
Internet, người sử dụng không chỉ cần có kết nối mà họ còn cần kết nối nhanh với

chất lượng tốt. Trong một số ứng dụng kinh doanh điện tử, băng thông rộng đã trở
thành một điều kiện không thể thiếu. Nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước
đang phát triển không thể truy cập Internet băng rộng, họ khó có thể triển khai các
chiến lược ICT nhằm cải thiện năng suất lao động trong những mảng tìm kiếm và
duy trì khách hàng, kho vận và quản lý hàng tồn. Hiện nay, Mỹ chiếm hơn 80% tỷ lệ
TMĐT toàn cầu, và tuy dung lượng này sẽ giảm dần, song Mỹ vẫn có khả năng lớn
cho việc chiếm tới trên 70% tỷ lệ TMĐT toàn cầu trong 10-15 năm tới. Mặc dù một
số nước châu Á như Singapore và Hong Kong (Trung Quốc) đã phát triển rất nhanh
và rất hiệu quả, thương mại điện tử tử các nước khác ở châu lục này đều còn phát
triển chậm.
Thương mại điện tử không chỉ giải quyết những yêu cầu thiết yếu, cấp bách
trên các lĩnh vực như hệ thống giao dịch hàng hoá, điện tử hoá tiền tệ và phương án
an toàn thông tin..., mà hoạt động thực tế của nó còn tạo ra những hiệu quả và lợi ích
mà mô hình phát triển của thương mại truyền thống không thể sánh kịp (ví dụ, trường
hợp hiệu sách Amazon, trang web đấu giá eBay). Chính vì tiềm lực hết sức to lớn của
thương mại điện tử nên chính phủ các nước đều hết sức chú trọng vấn đề này. Nhiều
nước đang có chính sách và kế hoạch hành động để đẩy mạnh sự phát triển của
thương mại điện tử ở nước mình, nhằm nắm bắt cơ hội của tiến bộ công nghệ thông
tin nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước,
giành lấy vị trí thuận lợi trong xã hội thông tin tương lai.
Khoảng cách ứng dụng thương mại điện tử giữa các nước phát triển và đang
phát triển vẫn còn rất lớn. Các nước phát triển chiếm hơn 90% tổng giá trị giao dịch
thương mại điện tử toàn cầu, trong đó riêng phần của Bắc Mỹ và châu âu đã lên tới
trên 80%. Phương thức kinh doanh B2B đang và sẽ chiếm ưu thế nổi trội so với B2C
trong các giao dịch thương mại điện tử toàn cầu. Trong phương thức B2C, loại hình
bán lẻ tổng hợp (siêu thị thương mại điện tử) dù chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số
cửa hàng bán lẻ trực tuyến nhưng lại nắm giữ phần lớn giá trị giao dịch B2C trên thị
trường ảo. Việc kết hợp cửa hàng bán lẻ trực tuyến với các kênh phân phối truyền
thống hiện vẫn là phương thức được nhiều nhà kinh doanh lựa chọn.
1.4. Tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

Mặc dù chưa phải là thước đo trình độ triển khai ứng dụng thương mại điện tử
của doanh nghiệp, nhưng số lượng và chất lượng các website kinh doanh cũng là một
tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển thương mại điện tử, đặc biệt trong
bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối bỡ ngỡ với các phương thức tiến
13
hành thương mại điện tử của thế giới. Khi việc kết nối hệ thống giữa các đối tác
chiến lược để tiến hành trao đổi dữ liệu điện tử trực tiếp ở Việt Nam hiện còn chưa
phát triển, thì các website là kênh phổ biến nhất để doanh nghiệp quảng bá sản phẩm,
xúc tiến dịch vụ và tiến hành giao dịch thương mại điện tử cả theo hình thức B2B lẫn
B2C. Do vậy, nếu một doanh nghiệp xây dựng và duy trì được một website hiệu quả
để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, điều này đã nói lên một
trình độ nhất định về triển khai ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp đó.
Hàng năm, Vụ Thương mại điện tử – Bộ Thương mại đều tiến hành các hoạt
động điều tra, đánh giá hiện trạng hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam, đặc biệt
là tình hình ứng dụng thương mại điện tử ở của các doanh nghiệp. Theo Báo cáo
thương mại điện tử năm 2005, trong tổng số 504 doanh nghiệp được khảo
sát thì có 46,2% doanh nghiệp đã thiết lập website. Tuy nhiên hầu hết các doanh
nghiệp được khảo sát đều tập trung ở những thành phố hoặc khu công nghiệp trọng
điểm của các tỉnh, nơi hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông tương đối tốt.
Chiếm phần lớn (68,7%) trong những doanh nghiệp đã thiết lập website là các doanh
nghiệp kinh doanh thương mại - dịch vụ. Số website của doanh nghiệp sản xuất mặc
dù còn chiếm một tỷ lệ khiêm tốn nhưng cũng đã nói lên sự quan tâm nhất định của
những doanh nghiệp này đối với việc ứng dụng thương mại điện tử để tiếp thị cho
sản phẩm của mình. Tính gộp cả khối doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp thương
mại - dịch vụ, số lượng sản phẩm được giới thiệu trên các website cũng rất đa dạng.
Nhìn vào cơ cấu hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu trên các website doanh
nghiệp, có thể thấy nhóm hàng hóa phổ biến nhất hiện nay vẫn là thiết bị điện tử -
viễn thông và hàng tiêu dùng. Do đặc thù của mặt hàng điện tử - viễn thông và đồ
điện gia dụng là mức độ tiêu chuẩn hóa cao, với những thông số kỹ thuật cho phép
người mua đánh giá và so sánh các sản phẩm mà không cần phải giám định trực

quan, nhóm hàng này sẽ tiếp tục chiếm ưu thế khi thâm nhập các kênh tiếp thị trực
tuyến trong vòng vài năm tới. Về lĩnh vực dịch vụ, dẫn đầu về mức độ ứng dụng
thương mại điện tử hiện nay là các công ty du lịch, điều này cũng phù hợp với tính
chất hội nhập cao và phạm vi thị trường mang tính quốc tế của dịch vụ này. So với
năm 2004, năm 2005 có một loại hình dịch vụ mới nổi lên như lĩnh vực ứng dụng
mạnh thương mại điện tử là dịch vụ vận tải giao nhận, với rất nhiều website công phu
và có nhiều tính năng tương tác với khách hàng.
Có tới 87,6% số doanh nghiệp có website cho biết đối tượng họ hướng tới khi
thiết lập website là các tổ chức và doanh nghiệp khác, trong khi 65,7% doanh nghiệp
chú trọng tới đối tượng người tiêu dùng. Như vậy, phương thức giao dịch B2B sẽ là
14
lựa chọn chiếm ưu thế đối với doanh nghiệp khi triển khai ứng dụng thương mại điện
tử một cách chuyên nghiệp hơn trong tương lai.
Một trong những tiêu chí giúp đánh giá chất lượng và tính chuyên nghiệp của
một website là tần suất cập nhật thông tin trên đó, nói cách khác là sự đầu tư công
sức và thời gian của doanh nghiệp để nuôi sống website. Hơn một nửa số doanh
nghiệp được khảo sát cho biết họ chỉ cập nhật thông tin trên website một tháng một
lần hoặc ít hơn. Chưa đến 30% doanh nghiệp coi việc rà soát website là công việc
hàng ngày. Sự bê trễ này cũng là điều dễ hiểu khi nhìn vào thực trạng chỉ khoảng
30% số website có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử. Kết hợp lại, các
thống kê trên cho thấy doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhìn nhận đúng mức về vai
trò của trang web như một kênh giao tiếp và tương tác thường xuyên với khách hàng,
do đó chưa có sự đầu tư đúng mức về nguồn lực cũng như thời gian để xây dựng, duy
trì và khai thác website một cách thật hiệu quả.
Phân tích sâu hơn mô hình quản lý website của các doanh nghiệp còn cho thấy
56,2% số doanh nghiệp tự quản trị website của mình và 43,8% ký hợp đồng với một
nhà cung cấp dịch vụ web để làm việc này. Đây cũng là một trong những lý do giải
thích cho việc thông tin và tính năng giao tiếp của các trang web còn nghèo nàn. Bởi
lẽ, để có thể cập nhật thông tin và duy trì quan hệ giao tiếp với khách hàng một cách
thường xuyên, doanh nghiệp cần phải là người chủ động nắm quyền quản trị website.

Khi giao phần việc này vào tay một công ty dịch vụ bên ngoài, doanh nghiệp đã vô
hình chung bỏ đi chức năng tương tác với khách hàng của website và biến nó thành
một công cụ quảng cáo thuần túy. Với những doanh nghiệp tự đảm nhận công tác
quản trị website thì để làm việc này một cách thật sự chuyên nghiệp cũng là thách
thức lớn trong bối cảnh hiện vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp bố trí được cán bộ
chuyên trách về công nghệ thông tin.
Mặc dù tỷ lệ doanh nghiệp có website năm 2005 đã cao hơn năm trước, nhưng
tính năng thương mại điện tử của các website thì vẫn chưa được cải thiện. Phần lớn
website vẫn chỉ dừng ở mức giới thiệu những thông tin chung nhất về công ty và sản
phẩm, dịch vụ, với giao diện đơn giản và các tính năng kỹ thuật còn rất sơ khai. Kết
quả điều tra những doanh nghiệp đã lập website cho thấy 99,6% số website có cung
cấp thông tin giới thiệu doanh nghiệp, 93,1% đưa thông tin giới thiệu sản phẩm, trong
khi chỉ 32,8% bước đầu có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử như cho
phép hỏi hàng hoặc gửi yêu cầu, một số ít cho phép đặt hàng trực tuyến. Trong số
những website có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử này, 82% thuộc về
các công ty kinh doanh dịch vụ, trên các lĩnh vực du lịch, vận tải giao nhận, quảng
cáo, thương mại, v.v...
15
Về mức độ đầu tư, kết quả khảo sát những doanh nghiệp đã thiết lập website
cho thấy đầu tư về ứng dụng thương mại điện tử chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong
tổng chi phí hoạt động thường niên. Trên 80% doanh nghiệp cho biết họ dành không
đến 5% chi phí hoạt động cho việc triển khai thương mại điện tử, bao gồm cả việc
mua các phần mềm thương mại điện tử, duy trì bảo dưỡng website và phân bổ nguồn
nhân lực cho những hoạt động này. Chỉ có khoảng 14% doanh nghiệp chọn mức đầu
tư 5-15% và một tỷ lệ rất nhỏ (3,6%) đầu tư thật sự quy mô cho thương mại điện tử,
ở mức trên 15%.
Trong tương quan với tỷ lệ đầu tư, mức đóng góp của thương mại điện tử cho
việc tạo doanh thu mặc dù chưa thực sự nổi bật nhưng cũng rất đáng khả quan. Gần
30% doanh nghiệp được hỏi đánh giá mức đóng góp này ở vào khoảng từ 5% - 15%,
và 7,5% còn tỏ ra lạc quan hơn nữa khi cho rằng ứng dụng thương mại điện tử đã

đem lại cho họ trên 15% nguồn doanh thu của năm. So với kết quả điều tra năm
2004, có thể thấy năm 2005 doanh nghiệp tỏ ra thận trọng hơn khi phân bổ vốn đầu
tư cho các ứng dụng triển khai thương mại điện tử, nhưng hiệu quả thực tế do đầu tư
này mang lại cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng và được doanh nghiệp nhìn nhận
tương đối khả quan. Một bằng chứng nữa cho nhận định này là việc 37,2% doanh
nghiệp được hỏi cho rằng doanh thu từ kênh tiếp thị thương mại điện tử sẽ tăng trong
những năm tới, 61,5% cho rằng không thay đổi, và chỉ 1,3% nghiêng về chiều hướng
giảm.
Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp cho doanh thu mới chỉ là một trong những tác dụng
mà việc triển khai thương mại điện tử có thể đem lại. Ngoài yếu tố định lượng này,
còn rất nhiều yếu tố định tính khác để đánh giá hiệu quả của ứng dụng thương mại
điện tử nói chung và website nói riêng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp. Khi được yêu cầu cho điểm một số tác dụng của website theo thang
điểm từ 0 đến 4, trong đó 4 là mức hiệu quả cao nhất, đa số doanh nghiệp cho điểm
rất cao tác dụng "Xây dựng hình ảnh công ty" và "Mở rộng kênh tiếp xúc với khách
hàng hiện có". Đánh giá này cho thấy doanh nghiệp đã nhận thức rõ vai trò của
website như một công cụ quảng bá và mở rộng thị trường. Nhưng mặt khác, việc hai
tác dụng "tăng doanh số" và "tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp" được xếp cuối bảng với điểm bình quân chưa đến 2 cũng cho thấy hiệu quả
bằng tiền mà ứng dụng thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp vẫn chưa thực
sự nổi bật.
Nhìn vào một số nguyên nhân lý giải cho việc triển khai ứng dụng thương
mại điện tử chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, trở ngại về nhận thức xã hội
được các doanh nghiệp xếp lên đầu bảng với số điểm bình quân đạt trên 3,3. Theo
16
khá sát là các trở ngại về hệ thống thanh toán (3,27), môi trường pháp lý và tập quán
kinh doanh (3,11). Trở ngại về hạ tầng công nghệ thông tin - viễn thông, mặc dù vẫn
có điểm số khá cao (2,8) nhưng đã tụt xuống cuối danh sách các vấn đề đáng quan
ngại đối với doanh nghiệp khi triển khai ứng dụng thương mại điện tử.
Tóm lại, thương mại điện tử được biết đến như một phương thức kinh doanh

có hiệu quả và phát triển đặc biệt nhanh từ khi Internet hình thành và phát triển.
Thương mại điện tử tạo ra một phong cách kinh doanh, làm việc mới phù hợp với
cuộc sống công nghiệp; là một công cụ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ khắc phục
những điểm kém lợi thế để cạnh tranh ngang bằng với các doanh nghiệp lớn. Đồng
thời, thương mại điện tử cũng tạo ra động lực cải cách mạnh mẽ cho các cơ quan
quản lý Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội.
17
Chương II CHẤT LƯỢNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC HỆ
THỐNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1. Tổng quan về ISO/IEC 9126
Về đánh giá chất lượng sản phẩm phần mềm tổ chức ISO-International
Organnization for Sandardization và IEC-International Electrotechical Commission
đã đưa ra chuẩn ISO/IEC ISO 9126. ISO 9126 là một chuẩn quốc tế giành cho việc
đánh giá sản phẩm phần mềm thương mại điện tử (hay chính là Website thương mại
điện tử), là một phương pháp phân loại và chia nhỏ những thuộc tính chất lượng,
nhằm tạo lên những đại lượng đo đếm được để kiểm định chất lượng của một sản
phẩm phần mềm. Nó được giám sát bới dự án ISO 25000:2005 và đi kèm theo nó là
định nghĩa một mô hình chất lượng sản phẩm phần mềm, những đặc trưng về chất
lượng và những quan hệ tính toán.
ISO/IEC 9126 có hai phần ta chỉ xét đến phần một. Phần một của mô hình là
ứng dụng của mô hình vào để đánh giá chất lượng bên ngoài và chất lượng bên trong
của sản phẩm phần mềm. Những phần khác là mô hình chất lượng được sử dụng để
đánh giá một sản phẩm phần mềm. Những mô hình này có thể là một mô hình mẫu
chất lượng của một sản phẩm phần mềm ở một giai đoạn nào đó của vòng đời sản
phẩm phần mềm. Chất lượng bên trong của sản phẩm phần mềm đánh giá được nhờ
xem xét những tài liệu chi tiết, việc kiểm thử mô hình hoặc nhờ vào sự phân tích mã
nguồn của sản phẩm. Chất lượng bên ngoài có được phải xét đến nhờ tham khảo
thuộc tính, tính năng của phần mềm, khả năng tương tác của nó với môi trường. Nói
một cách khác chất lượng sử dụng là chất lượng được đánh giá bởi người dùng cuối
cùng hay người sử dụng sản phẩm phần mềm trong một hoàn cảnh, môi trường đặc

biệt. Chất lượng của sản phẩm ở những giai đoạn khác nhau thì không hoàn toàn độc
lập chúng vẫn ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy lược đồ cấu trúc trong có
thể được dùng để dự đoán chất lượng của sản phẩm cuối cùng, thậm chí ở cả giai
đoạn phát triển ban đầu.
Mô hình ISO/IEC 9126 đưa ra mô hình chất lượng trong và mô hình chất
lượng ngoài. Hai mô hình này dựa trên một mô hình chung, và mô hình chung này có
thể sử dụng để đánh giá chất lượng bên trong hoặc bên ngoài tùy thuộc vào tập các
đặc tính sử dụng để đánh giá. Mô hình chung này được xây dựng dựa trên sáu đặc
tính:
1. Tính năng (Functionality)
2. Độ ổn định hoặc khả năng tin cậy( Reliability)
18
3. Tính khả dụng (Usability)
4. Tính hiệu quả (Efficiency)
5. Khả năng duy trì (Maintainability)
6. Tính khả chuyển (Protability)
Hình 2.1 Mô hình đánh giá chất lượng chung
Đây là một mô hình đang được sử dụng đánh giá hiệu năng, năng xuất, độ an
toàn và sự thỏa mãn…và những đặc trưng này bao quát nên toàn bộ chất lượng sản
phẩm phần mềm. Trên thực tế ISO/IEC 9126 không hoàn toàn dùng để đánh giá chất
lượng sản phẩm phần mềm nhưng có thể dựa vào những khía cạnh đặc trưng của nó
để áp dụng đánh giá sản phẩm chất lượng phần mềm.
Mô hình ISO/IEC 9126 sử dụng cho việc đánh giá chất lượng bên trong và bên
ngoài và chất lượng sử dụng. Tuy nhiên ta sẽ chỉ xem xét đến các đặc tính chất lượng
đánh giá bên trong.
Hình dưới là mô hình các đặc tính dùng để đánh giá. Mô hình chia làm 7
nhóm đặc tính chính đó là: test effectivity, reliability, usability, efficiency,
maintainability, portability, và reusability.
Mỗi nhóm đặc tính chính này được tạo nên từ một số nhóm đặc tính con
19

Hình 2.2 Các đặc tính chất lượng
Các đặc tính cụ thể như sau:
Test Effectivity (Functionality): Kiểm thử tính hiệu quả mô tả khả năng của
các kiểm thử được đưa ra để đáp ứng được mục đích. Kiểm thử hiệu quả thực ra là
kiểm thử chức năng “functionality” trong ngữ cảnh kiểm thử chi tiết các đặc tính và
vì vậy được đổi tên từ ISO/IEC9126.
Đặc tính Suitability thuộc Test Coverage:
Đặc tính Test Correctness bao hàm sự chính xác của việc kiểm thử chi tiết với
sự chú ý đến đặc điểm chi tiết của hệ thống hay các mục đích kiểm thử. Hơn nữa,
một kiểm thử chi tiết chỉ đúng khi nó luôn trả về những nhận xét chính xác và nó
kiểm thử được cả những trạng thái cuối.
Đặc tính Fault-revealing capability được thêm vào danh sách các đặc tính con.
Việc nhận được kết quả bao phủ tốt với bộ kiểm thử phù hợp không đưa ra được
thông tin gì về khả năng của các lỗi. Sử dụng sự phân tích nhân-quả cho việc tạo ra
các bộ kiểm thử hoặc sử dụng việc kiểm thử hoán đổi có thể đưa ra được các thông
tin về các khả năng lỗi.
Đặc tính interoperability đã được bỏ trong mô hình kiểm thử chi tiết chất
lượng. Việc kiểm thử chi tiết là không thực tế để đặc tính interoperability đóng một
vai trò chính. Đặc tính Security cũng được chuyển sang nhóm đặc tính reliability.
20
Reliability: Đặc tính này mô tả khả năng của kiểm thử chi tiết để duy trì mức
hiệu năng cụ thể dưới các điều kiện khác nhau. Trong ngữ cảnh này, từ
“performance” thể hiện mức mà cần phải được thỏa mãn. Các đặc tính con của nhóm
đặc tính Reliability gồm maturity, fault-tolerance, và recoverability của ISO/IEC
9126 được áp dụng đối với các kiểm thử chi tiết một cách đầy đủ. Đặc tính con mới
test repeatability và Security đã được thêm vào nhóm reliability.
Kết quả kiểm thử thường được đưa ra sau quá trình kiểm thử tuần tự, nếu
không thì việc xác định được lỗi là rất khó thực hiện. Test repeatability bao gồm các
yêu cầu cho các kiểm thử chi tiết.
Đặc tính security bao gồm cả các vấn đề mật khẩu ở dạng rõ đóng vai trò như

thế nào khi các kiểm thử chi tiết được thực hiện công khai hoặc được chuyển đổi
giữa các nhóm phát triển
Usability: Đặc tính này làm chỉ ra rõ ràng việc thực hiện hay mô phòng một
kiểm thử chi tiết cụ thể. Điều này rõ ràng không đề cập đến độ khó của việc ứng
dụng trong việc duy trì hay tái sử dụng các phần của việc kiểm thử chi tiết, vấn đề
này được thực hiện ở các đặc tính khác.
Đặc tính Understandability là quan trọng từ khi người kiểm thử phải có khả
năng hiểu được xem việc kiểm thử chi tiết đó có phù hợp với cái người kiểm thử cần
không. Tài liệu và mô tả của mục đích tổng thể của kiểm thử chi tiết là nhân tố chính
để lựa chọn sử kiểm thử phù hợp.
Đặc tính learnability của kiểm thử chi tiết thể hiện việc bắt chước một đối
tượng đích tương tự. Để đưa ra và sử dụng một một kiểm thử phù hợp, người dùng
phải hiểu cách nó được tạo thành, các dạng tham biến trong nó và các ảnh hưởng của
nó đối với các hoạt động kiểm thử. Các tài liệu phù hợp hoặc các hướng dẫn có ảnh
hưởng rất rõ ràng đối với chất lượng kiểm thử.
Kiểm thử chi tiết sẽ ít có khả năng thực hiện (operability) nếu nó thiếu các giá
trị mặc định phù hợp.
Đặc tính con mới trong nhóm usability là test evaluability. Kiểm thử chi tiết
phải đảm bảo chắc chắn rằng kết quả kiểm thử được cung cấp là đủ chi tiết cho việc
phân tích toàn diện. Một nhân tố quan trọng là mức độ chi tiết của các thông báo nhật
ký kiểm thử.
Cuối cùng, attractiveness không liên quan đối với việc kiểm thử chi tiết.
Attractiveness có thể đóng vai trò là một nhân tố cho môi trường thực hiện kiểm định
và các công cụ.
21
Efficiency: là đặc tính liên quan đến khả năng của kiểm thử chi tiết để cung
cấp hiệu năng chấp nhận được về mật tốc độ và sử dụng tài nguyên. Các đặc tính con
time behaviour và resource utilisation của ISO/IEC 9126 được áp dụng và không
thay đổi gì
Maintainability: là đặc tính quan trọng trong kiểm thử chi tiết. Khi người kiểm

thử gặp phải vấn đề thay đổi hoặc mở rộng kiểm thử chi tiết, nó sẽ chỉ ra khả năng
của kiểm thử chi tiết được thay đổi trong việc sửa lỗi, cải tiến, hoặc sự thích nghi đối
với sự thay đổi của môi trường hoặc các yêu cầu. Các đặc tính con analysability,
changeability và stability của ISO/IEC 9126 được ứng dụng để kiểm thử. Đặc tính
con testability không đóng vai trò nào trong việc kiểm thử chi tiết.
Đặc tính analysability liên quan tới mức độ mà kiểm thử chi tiết có thể xác
định được những vấn đề, những chức năng còn thiếu hoặc có nhưng không đầy đủ.
Ví dụ kiểm định chi tiết phải có cấu trúc tốt để có thể duyệt lại mã (code) chương
trình. Kiến trúc kiểm tra, tài liệu hướng dẫn, vv.. và cấu trúc mã nguồn chung là các
phần tử ảnh hưởng đến chất lượng của đặc tính này.
Đặc tính con changeability mô tả khả năng của kiểm thử chi tiết để cho phép
các thay đổi cần thiết được thực thi. Ví dụ một cấu trúc mã nguồn không đúng quy
cách hoặc một kiến trúc kiểm thử không thể mở rộng có thể gây ra ảnh hưởng xấu
đối với khía cạnh chất lượng. Phụ thuộc vào ngôn ngữ kiểm thử chi tiết sử dụng, các
ảnh hưởng không mong muốn do sự thay đổi có tác động xấu đến đặc tính stability.
Portability: là đặc tính trong ngữ cảnh của việc kiểm thử chi tiết chỉ đóng vai
trò hạn chế do kiểm thử chi tiết chưa có áp dụng thực tế. Bởi vậy, installability ( dễ
dàng cài đặt trong môi trường cụ thể), co-existence (với các kiểm định các sản phẩm
khác trong môi trường chung), và replaceability ( khả năng sản phẩm được thay thế
bởi sản phẩm khác nhưng vẫn cùng mục đích) là rất rõ ràng. Tuy nhiên, adaptability
là đặc tính liên quan, vì các kiểm thử chi tiết phải có khả năng gắn kết với các SUTs
khác hoặc các môi trường khác.
Reusability: Mặc dù đặc tính này không thuộc ISO/IEC 9126, ta vẫn xem xét
đến nó vì nó có tầm quan trọng đặc biệt đối với kiểm định chi tiết, nó có ý nghĩa đối
với bộ kiểm thử cho các dạng kiểm thử khác nhau được chỉ ra. Ví dụ, việc kiểm thử
hiệu năng có thể khác nhau về chức năng kiểm thử, nhưng dữ liệu kiểm thử như các
thông điệp định nghĩa trước, có thể được tái sử dụng giữa các bộ kiểm thử. Một điều
chú ý là các thuộc tính con tương quan với đặc tính maintainability mở một số mức
độ.
22

Mức độ coupling có thể coi là đặc tính con quan trọng nhất trong ngữ cảnh tái
sử dụng. Coupling có thể xảy ra giữa các hoạt động kiểm thử, giữa các dữ liệu kiểm
thử và giữa các hoạt động kiểm thử và dữ liệu kiểm thử. Ví dụ nếu có một hàm được
gọi trong một kiểm thử, thì kiểm thử này được gắn kết với hàm này. Để thực hiện tái
sử dụng kiểm thử chi tiết, thì vấn đề cơ bản là phải làm loose coupling (lỏng kết nối)
và tăng cường sự cấu kết (strong cohesion)
Đặc tính flexibility của kiểm thử chi tiết được đặc tả bởi độ dài của bản ghi chi
tiết các phần con và khả năng chỉnh sửa của nó đối với các sử dụng không biết trước.
Các phần của đặc tả chi tiết có thể chỉ được tái sử dụng nếu có sự hiểu rõ các
phần tái sử dụng ( đặc tính con comprehensibility). Ngoài ra các yếu tố khác như tài
liệu tốt, các chú thích đầy đủ và các hướng dẫn chi tiết cũng cần phải có để đạt được
điều này.
2.2. Những đặc điểm của hệ thống thương mại điện tử cần đánh giá
2.2.1 Sơ đồ site (Site map)
Sự tồn tại của site map trong trang chủ của trang web thương mại điện tử phải
được xem xét rất cẩn thận và kỹ lưỡng. Việc có hoặc không có site map được xác
định cùng với sự xuất hiện của của các kết nối (link) khác trên trang chủ hoặc trên
thanh danh mục liệt kê các sản phẩm và dịch vụ mà website thương mại điện tử cung
cấp. Site map biểu thị chính xác và phù hợp lược đồ tổng thể các thành phần của web
site thương mại điện tử, khi biểu thị ở dạng cây động nó sẽ giúp người dùng tìm
thông tin nhanh hơn. Người đánh giá website phải lựa chọn “Có” (yes) hoặc “Không”
trong quá trình khảo sát site, sự lựa chọn sẽ tùy thuộc vào độ sâu của cây biểu thị
sitemap.
2.2.2 Túi hàng (Shopping cart)
Túi hàng là một trong những chức năng quan trọng nhất của hệ thống website
thương mại điện tử, nó hỗ trợ quá trình mua hàng cho khách. Việc có hay không có
chức năng túi hàng phải được kiểm tra cẩn thận.
2.2.3 Search Engine
Người đánh giá kiểm tra nếu hệ thống thương mại điện tử có công cụ tìm kiếm
(Search Engine). Nếu như có thì người đánh giá sẽ phải xem xét xem công cụ tìm

kiếm đó thuộc dạng đơn giản hay nâng cao. Công cụ tìm kiếm thuộc dạng đơn giản
23
nếu nó chỉ là một khung cho phép đánh từ khóa vào để tìm kiếm thông tin, không sử
dụng được các phép toán logic trong thực hiện tìm kiếm còn công cụ tìm kiếm nâng
cao cho phép sử dụng các phép toán logic để thực hiện tìm kiếm trên một danh mục
hoặc kết hợp các đặc tính của danh mục và sản phẩm. Điều đó chỉ ra rằng người đánh
giá phải có trách nhiệm xác định đúng xem công cụ tìm kiếm thuộc loại nào thì mới
đánh giá đúng chất lượng của hệ thống.
2.2.4 Thời gian upload (Uploading time)
Thời gian tải được trang web là một đặc tính rất quan trọng, nó được tính bằng
khoảng thời gian từ lúc khi đánh địa chỉ trang web vào cho đến khi tải được toàn bộ
trang chủ. Đường truyền dùng để đo thời gia ở đây là đường dial up với modem có
tốc độ 56K.
Theo Nielsen[4] thời gian chấp nhận được là khi trang web được tải xuống
phải nhỏ hơn một phút và được đánh giá là có thời gian đáp ứng tốt. Trong 30 giây
đầu tiên các phần tử cơ bản của trang chủ phải được tải xuống và xuất hiện. Có 3
khung thời gian để đánh giá thời gian tải trang web như sau:
a) t < = 30 sec, b) 30 sec < t <= 60 sec, c) 60 sec < t.
2.2.5 Màu sắc
Mỗi người đánh giá phải lựa chọn giữa các màu cơ bản là đỏ (red), xanh lá
cây (bule), xanh da trời (blue) và các mầu khác như vàng, xanh nhạt, màu trắng. Phải
xem xét cẩn thận là những mầu nào được lựa chọn bởi hệ thống thương mại điện tử
khi thiết kế giao diện. Việc đánh giá mầu sắc phải dựa vào các mầu được sử dụng cho
giao diện của trang chủ chứ không phải là màu sắc của font chữ và các hình ảnh.
2.2.6 Biểu diễn sản phẩm (Product’s presentation)
Biểu diễn sản phẩm là cách trưng bày sản phẩm trên website, cung cấp cho
người dùng những thông tin về sản phẩm hoặc dịch vụ mà hệ thống thương mại điện
tử cung cấp. Những thông tin này có thể được biểu diễn ở dạng văn bản, hình ảnh,
video và âm thanh. Nếu như là hình ảnh thì phải kiểm tra xem hình ảnh đó có khả
năng phong to hay không, có hình ảnh ở dạng ba chiều (3D) hay không. Những đặc

tính này phải được kiểm tra cẩn thận và kỹ lưỡng để có thể đánh giá chất lượng hệ
thống một cách chính xác.
2.2.7 Các phương thức thanh toán
24
Việc kiểm tra sự tồn tại của các hình thức thanh toán trong hệ thống thương
mại điện tử phải được thực hiện kỹ lưỡng. Trong trường hợp nếu hệ thống có hỗ trợ
phương thức thanh toán thì phải xác định các cách thức thanh toán mà hệ thống chấp
nhận như thanh toán bằng tiền mặt khi giao hàng, hay sử dụng thẻ tín dung hoặc các
phương pháp khác như chuyển khoản, sử dụng tiền điện tử vv..
2.2.8 Duyệt trang chủ từ bất kỳ vị trí nào (Browsing to the main page)
Đây là một đặc điểm cần được chú ý, vì đối với khách hàng mà chưa có nhiều
kinh nghiệm sử dụng internet thì sau khi vào các mục của hệ thống thươgn mại điện
tử, họ lại muốn trở lại trang chủ để vào mục khác. Nếu như trên trang họ đang duyệt
mà không có kết nối đến trang chủ thì làm cho việc trở lại trang chủ là khó khăn.
2.2.9 Hỗ trợ đa ngôn ngữ (Multilingualism)
Đa ngôn ngữ là một đặc điểm quan trọng đối với các hệ thống thương mại
điện tử. Việc hỗ trợ đa ngôn ngữ sẽ hướng tới đối tượng người dùng đa dạng và có
vùng địa lý rộng lớn. Hỗ trợ đa ngôn ngữ hướng tới sự phát triển hệ thống thương
mại điện tử rộng lớn và không biên giới
2.2.10 Chức năng giảm giá và chiết khấu khi mua hàng (Purchasing offers and
discounts)
Chức năng này đem lại những ưu điểm tốt cho hệ thống thương mại điện tử,
khi đánh giá hệ thống thì người đánh giá phải xác định rõ chức năng này.
2.2.11 Chuyển hàng (Product’s shipment)
Đây là đặc tính quan trọng của hệ thống thương mại điện tử, cách thức chuyển
hàng, thời gian chuyển hàng và giao hàng sẽ góp một phần quyết định vào sự thành
công hay không thành công của hệ thống thương mại điện tử.
2.2.12 Hồ sơ công ty (Business profile )
Hồ sơ cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của hệ thống
thương mại điện tử, nó đem lại sự tin tưởng hơn cho khác hàng và cung cấp cho

khách hàng những điều cần thiết nhất.
25

×