Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.53 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................2
NỘI DUNG...................................................................................................2
1. Khái quát chung về TNBTTH ngoài hợp đồng.......................................2
1.1. Khái niệm..........................................................................................2
1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH...........................................2
1.3. Nguyên tắc BTTH.............................................................................4
1.4. Năng lực BTTH.................................................................................4
2. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra....................... 5
2.1. Cơ sở pháp lý..................................................................................6
2.2. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ..............................................6
2.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH.........................................8
2.4. Xác định trách nhiệm BTTH.........................................................12
2.5. Xác định mức độ BTTH................................................................16
3. Thực tiễn áp dụng.....................................................................................16
4. Nhận xét và kiến nghị...............................................................................17
KẾT LUẬN.................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................22
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những tài sản xung quanh chúng ta ngoài ý nghĩa đáp ứng được nhu cầu,
lợi ích cho con người thì chúng còn luôn luôn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất
định mà bất cứ lúc nào con người cũng có thể bị thiệt hại do chính những tài sản
đó mang lại. Ngày nay mặc dù khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại nhưng bản
thân con người cũng rất khó kiểm soát được những rủi ro không thể lường trước
của tài sản. Xuất phát từ lý do đó, sự tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại được nhận định
1
là nguồn nguy hiểm cao độ. Trên cơ sở đánh giá mối liên quan giữa thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra với hành vi của con người, pháp luật dân sự đã đề
cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Bài
viết sau đây sẽ tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.


NỘI DUNG
1. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng được quy định
tại Điều 307 BLDS 2005 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không
nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm,
nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm. Có thể hiểu trách nhiệm BTTH
là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ
pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà
mình gây ra.
1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 604 BLDS năm 2005 và nghị quyết 03/2006/NQ-
HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng thì trách nhiệm BTTH chỉ
xảy ra :
1.2.1. Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại về vật chất bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định
tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm( khoản 1 Điều 609
BLDS); thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (khoản 1 Điều 610 BLDS); thiệt hại
do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (khoản 1 Điều 611 BLDS).
2
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân là do sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm
phạm mà người thân thích của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất
mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm...
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của tổ chức được hiểu là do danh dự, uy tín bị
xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu
nhầm.
1.2.2. Phải có hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật là những xử sự

cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động
trái với các quy định của pháp luật.
1.2.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái
pháp luật: Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Khi xác định quan hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra cần phải xác định những đặc
điểm sau:
1
Thứ nhất là tính thời gian trong quan hệ nhân quả: Hành vi được coi là
nguyên nhân phải diễn ra trước hậu quả.
Thứ hai là tính hiển nhiên trong quan hệ nhân quả: Tính hiển nhiên phản
ánh mối quan hệ bản chất của sự vật, sự việc trong những điều kiện nhất định, vận
động, phát triển theo xu hướng nhất định phải như thế này mà không phải thế kia.
Thứ ba là tính khách quan trong quan hệ nhân quả : tồn tại độc lập với ý
thức của con người, con người không thể tùy tiện xóa bỏ nó.
1.2.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại:
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
1 Phùng trung Tập - Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản,sức khỏe, tính mạng, Nxb Hà
nội.
3
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ
xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng
thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
1.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Khi giải quyết tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện
đúng nguyên tắc BTTH quy định tại Điều 605 BLDS thì :
“ 1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả

thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà
gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường ”.
1.4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Áp dụng quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu trách nhiệm
BTTH, cần chú ý xác định đúng tư cách chủ thể trong từng trường hợp, cụ thể:
- Trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại
là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
- Trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha, mẹ của
người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
- Trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây
thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan;
4
- Trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân, tổ chức
giám hộ là bị đơn dân sự.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách
nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con
người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn
khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy
hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp
pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường.
Pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy
đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

nhưng có thể hiểu một cách khái quát: “ Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra được hiều là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử
dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ và do sự hoạt động tự thân của nguồn
nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả
trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm
cao độ không có lỗi ”.
2
2.1 .Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có cơ sở pháp lý
từ những quy định chung thuộc chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng, và được quy định chi tiết, cụ thể tại Điều 623 về BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra còn được quy định tại mục III
nghị quyết của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng.
2.2. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.
2 Phùng trung Tập - Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản,sức khỏe, tính mạng, Nxb
Hà nội,Tr 259.
5
Theo khoản 1 Điều 623 BLDS : “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm
phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp
đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các
nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định ”. Điều luật này không đưa ra
khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ. Các đối tượng đó cụ thể là:
- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới hiện nay Việt Nam chưa có một văn bản
pháp luật nào quy định một cách chính thức những phương tiện nào là phương tiện
giao thông vân tải cơ giới. Luật giao thông đường bộ quy định: “ Phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ bao gồm: xe ôtô, máy kéo, xe môtô hai bánh, ba bánh, xe
gắn máy và các loại xe tương tự kể cả xe cơ giới dành cho người tàn tật ”. Như

vậy, các phương tiện giao thông đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không như
tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay… cũng được coi là những phương tiện giao thông cơ
giới. Tuy nhiên, những phương tiện giao thông này có phải đều là các nguồn nguy
hiểm cao độ hay không thì pháp luật chưa có quy định cụ thể. Trên thực tế còn
nhiều các loại phương tiện đang nằm ngoài sự điều chỉnh của Điều 623 BLDS ví
dụ như xe đạp điện, máy thi công như xe cần cẩu, xe ủi máy nông lâm ngư cơ:
máy tuốt lúa, máy cày – những phương tiện này vẫn thường xuyên tham đi lại trên
đường giao thông và có khả năng gây tai nạn, trên thực tế cũng đã có nhiều vụ tai
nạn xảy ra do xe cần cẩu gây thiệt hại lớn.
- Hệ thống truyền tải điện là dây truyền điện dẫn điện, mô tơ, máy phát điện, cầu
giao điện…nhà máy công nghiệp như nhà máy công nghiệp nhẹ, nhà máy công
nghiệp nặng… các loại này cũng chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi nó
“đang hoạt động” có nghĩa là khi ở trạng thái không hoạt động thì nó không tạo
nguy hiểm cho những người xung quanh.
- Vũ khí bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, sung săn, vũ khí thô sơ, công
cụ hỗ trợ được quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 47/CP của Chính phủ
ngày 12/8/1996.
6
- Các chất nổ, công cụ hỗ trợ cũng được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 1 của
Nghị định trên: “2. Vật liệu nổ công nghiệp bao gồm: Các loại thuốc nổ và phụ
kiện gây nổ (kíp nổ, ngòi nổ, dây nổ...) dùng trong sản xuất công nghiệp và các
mục đích dân dụng khác.
- Công cụ hỗ trợ gồm: Các loại roi cao su, roi điện, gậy điện, găng tay điện; lựu đạn
cay; súng bắn hơi cay, ngạt, độc, gây mê; bình xịt hơi cay, ngạt, độc, gây mê; súng
bắn đạn nhựa, cao su; súng bắn laze, súng bắn đinh, súng bắn từ trường và các loại
công cụ hỗ trợ khác.”
- Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khoẻ, tính mạng
của con người, động vật cũng như đối với môi trường xung quanh. Ví dụ: A-cô-ni-
tin và các loại muối của nó, kẽm phốt pho, ni-cô-tin…
- Chất phóng xạ là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ riêng lớn

hơn 70 kilo Beccơren trên kilogram. Chất phóng xạ là nhân tố gây sát thương của
vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hoá học như
urani, radi…, có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy, gây
bệnh hoặc gây ra nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống.
- Thú dữ là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, lớn, rất
dữ, có thể làm hại người. Ví dụ: hổ, báo, gấu, sư tử, voi, đười ươi, tinh tinh…
Ngoài ra ong bò vẽ, rắn độc mặc dù không phải là “ thú dữ ” (theo các định nghĩa
trong từ điển) nhưng phải coi là nguồn nguy hiểm cao độ vì đây là loại động vật
còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy hiểm lớn.
Như vậy, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ
hay không sẽ phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và tính chất của sự vật
đó. Nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ bao gồm những sự vật được liệt kê tại
Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn bao gồm những sự vật khác mà hoạt động của
chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con
người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại.
2.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
7
2.3.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm BTTH do
NNHCĐ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất : Những sự vật được coi là NNHCĐ phải đang trong tình trạng
vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia
giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang
hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi NNHCĐ đang ở trạng thái “tĩnh” –
không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do NNHCĐ gây ra, ví dụ: cột điện
bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh…
Thứ hai: thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân NNHCĐ hoặc
do hoạt động nội tại, “tự thân” của NNHCĐ gây ra. Xuất phát từ lý do này mà

pháp luật qui định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy
định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng
các quy định của pháp luật”. Cần phân biệt thiệt hại “do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra” với thiệt hại “do hành vi trái pháp luật của con người gây ra có liên quan
đến nguồn nguy hiểm cao độ”. Thiệt hại do NNHCĐ gây ra là thiệt hại do “tự
thân” NNHCĐ gây ra thiệt hại, không có tác động của con người, yếu tố lỗi có thể
được loại trừ. Ví dụ: xe ô tô đang vận hành thì bị nổ lốp, mất phanh, gãy trục…
gây thiệt hại, còn thiệt hại có liên quan đến NNHCĐ là thiệt hại do hành vi trái
pháp luật của con người, có tác động của con người, việc gây thiệt hại này có liên
quan đến NNHCĐ, ví dụ: lái xe phóng nhanh vượt ẩu gây tai nạn, say rượu bia
điều khiển xe gây tai nạn…Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử đã có sự nhầm lẫn
trong việc xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra khi người áp dụng
không phân biệt được “thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” và thiệt hại
“liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ”. Nhiều trường hợp khi áp dụng pháp luật
cứ thấy có hành vi trái pháp luật của con người gây thiệt hại, hành vi gây thiệt hại
8

×