Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực lượng CSKV phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.66 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
QLNN về ANTT và phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm là một
nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó lực lượng CAND là
nòng cốt. Trên mặt trận đấu tranh phòng, chống tội phạm, quản lý Nhà
nước về ANTT ở địa bàn cơ sở thì vai trò của lực lượng CSKV càng được
đề cao.
Nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của lực lượng CSKV,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đảm bảo ANTT trong tình hình hiện nay, Bộ
trưởng Bộ Công an đã kí Quyết định số 106/2007/QĐ-BCA (C11) ngày
13/2/2007 ban hành Điều lệnh CSKV thay cho Điều lệnh CSKV đã ban
hành theo Quyết định số 118/QĐ-BNV ngày 29/6/1994. Điều lệnh CSKV
mới đã có nhiều thay đổi về nội dung, chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ
chức và lề lối làm việc của CSKV sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn
hiện nay.
Nhận thức được vấn đề trên, Công an phường Quan Hoa đã quan tâm
chỉ đạo lực lượng CSKV trong việc tăng cường biện pháp thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao nhất là các mặt công tác cơ bản và thu được nhiều kết
quả nhất định. Trong quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản của mình,
CSKV đã tăng cường các biện pháp QLNN về ANTT tại cơ sở, tiến hành
thường xuyên công tác vận động quần chúng, tích cực đưa ra các giải pháp
giảm tai nạn giao th«ng, phòng chống đua xe và làm tốt các mặt công tác cơ
bản... Qua một thời gian thực hiện theo Điều lệnh CSKV- 2007, lực lượng
CSKV Công an phường Quan Hoa đã đạt được nhiều thành tích được Công
an quận và Công an Thành phố ghi nhận. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức
thực hiện vẫn chưa triệt để, còn tồn tại nhiều bất cập: CSKV chủ yếu tập
trung giải quyết công việc mang tính chất sự, vụ việc hành chính đơn thuần,
các công tác theo yêu cầu của cấp trên. Một số cán bộ chiến sỹ chưa có sự
nhận thức đúng về chức năng nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện các
mặt công tác cơ bản. Lực lượng CSKV còn ít trong khi đó địa bàn rộng, tình


hình ANTT phức tạp, một số ít CSKV chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm
trong quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản nên hiệu quả công tác
chưa cao. Xuất phát từ những vấn đề bất cập nảy sinh nêu nên việc chọn đề
tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các mặt công tác cơ bản của
lực lượng CSKV phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”
có tính cần thiết về nhận thức và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đich nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề thực tiễn trong thực hiện
các mặt công tác cơ bản của lực lượng CSKV, tìm ra những nguyên nhân và
hạn chế để có biện pháp khắc phục cho phù hợp.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hiểu rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện các
mặt công tác cơ bản của CSKV.
Tìm ra những nguyên nhân, tồn tại, khó khăn vướng mắc trong quá
trình tổ chức thực hiện để đưa ra biện pháp phù hợp.
Phân tích những tác động ảnh hưởng tới kết quả và quá trình thực
hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề lý luận và thực tiễn về việc thực hiện
các mặt công tác cơ bản của CSKV.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung đi sâu nghiên cứu 4 mặt công tác cơ
bản của CSKV theo phạm vi chức năng của CSKV và đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Đề tài nghiên cứu trên địa bàn phường Quan Hoa - Cầu Giấy - Hà
Nội. Quá trình nghiên cứu khảo sát lấy số liệu thực tế từ năm 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin về phép Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử. Các
quan điểm chủ trương đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà
Nước, quy định của Bộ Công an về công tác phòng ngừa đấu tranh phòng

chống tội phạm, quản lý Nhà nước về ANTT.
Trong quá trình thực hiện đề tài có sử dụng một số phương pháp cụ
thể như:khảo sát thực tế, thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu, trao đổi kinh
nghiệm, so sánh….
5. Ý nghĩa của việc nghiên cức đề tài
- Về mặt lí luận: Kết quả của việc nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung,
nhận thức của bản thân về việc thực hiện các mặt công tác cơ bản của
CSKV. - Về mặt thực tiễn: Kết quả của việc nghiên cứu đề tài giúp cho
Công an địa phương có điều kiện nắm tình hình, đánh giá kết quả việc tổ
chức thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV. Kịp thời phát hiện và
khắc phục những tồn tại thiếu sót trong quá trình tiến hành. Đánh giá và các
đề xuất, giải pháp là cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động của CSKV trong
việc thực hiện các mặt công tác cơ bản trong tình hình hiện nay đáp ứng yêu
cầu phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm.
6. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được xây dựng 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Trong đó phần nội dung gồm có 2 chương:
- Chương 1: Tình hình thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV
trên địa bàn phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Chương 2: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các mặt công
tác cơ bản của lực lượng CSKV phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội.
CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC MẶT CÔNG TÁC CƠ BẢN CỦA CSKV
PHƯỜNG QUAN HOA, QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số tình hình đặc điểm có liên quan
1.1.1. Đặc điểm địa bàn
Thực hiện Nghị định số 74/NĐ-CP ngày 22/11/1996 của Chính phủ
về việc thành lập quận Cầu Giấy, ngày 01/9/1997 quận Cầu Giấy chính thức
được thành lập với tất cả 8 phường. Phường Quan Hoa ra đời cùng với sự ra

đời cùng thời gian thành lập quận Cầu Giấy.
Quan Hoa là một phường trọng điểm của quận Cầu Giấy, có vị trí địa
lý rất quan trọng: giáp ranh với quận Ba Đình, Tây Hồ, Đống Đa, phía tây
giáp huyện Từ Liêm. Phường Quan Hoa là nơi tập trung nhiều cơ quan của
quận như: Quận ủy, HĐND, UBND, Quận đội, Viện Kiểm sát, Tòa án nhân
dân. Đặc biệt có trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng và Nhà nước đóng
trên địa bàn thường xuyên có công dân từ các tỉnh thành đến khiếu kiện.
Ngoài ra còn có bảo tàng dân tộc học thường xuyên có các đoàn khách nước
ngoài đến tham quan.
Tình hình kinh tế xã hội đang được các cấp các ngành của phường
quan tâm chỉ đạo một cách sát sao. Quan Hoa là phường có quá trình đô thị
hóa nhanh.Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ đã làm cho kinh tế của phường Quan Hoa có nhiều chuyển biến
rõ rệt: đời sống của nhân dân trong phường đã được nâng cao, có nhiều dự
án cải tạo nâng cấp hạ tầng đô thị; dự án cải tạo đường thoát nước của thành
phố dọc bờ sông Tô Lịch cũng như các dự án mở đường cải tạo hệ thống
giao thông đô thị đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân. Có thể thấy
rằng nền kinh tế của phường Quan Hoa đang phát triển một cách toàn diện
trên mọi lĩnh vực: kinh doanh, dịch vụ…
1.1.2. Đặc điểm dân cư
Quan Hoa là địa bàn đông dân 26501 người có thành phần dân cư đa
dạng. Qua kết quả thống kê đến tháng 12 năm 2010 trên địa bàn phường
Quan Hoa có tổng số 4.896 hộ = 26.254 nhân khẩu, trong đó chủ yếu là hộ
KT1 có 3.910 hộ = 14.275 nhân khẩu, nhân khẩu từ 14 tuổi trở lên có 10.974
nhân khẩu. Trong độ tuổi lao động có 8.711 nhân khẩu, số có việc làm là
8.502 nhân khẩu, không có việc làm hoặc đủ điều kiện lao động là 209 nhân
khẩu. Hộ KT2 đi có 162 hộ trong đó nhân khẩu lẻ là 317 nhân khẩu. KT2
đến có 735 hộ trong đó nhân khẩu lẻ là 477 nhân khẩu. Hộ KT3 có 103 hộ
trong đó có 4, nhân khẩu lẻ là 3.350 trong đó có 3.698 nhân khẩu trong độ
tuổi lao động. Số nhân hộ khẩu này thường xuyên có sự biến động theo

chiều hướng gia tăng.
Trên địa bàn phường có Trường Cao đẳng sư phạm Trung ương với số
lượng sinh viên tạm trú lớn: 4.155 sinh viên. Trong đó số lượng sinh viên ở
trong kí túc xá của trường là 320, còn lại số sinh viên tạm trú trong các hộ
dân cư trên địa bàn là 3.835. Không chỉ có số lượng sinh viên tạm trú đông
mà trên địa bàn có nhiều người của 25 tỉnh thành trên cả nước đến cư trú,
mua nhà hoặc thuê trọ trong các nhà trọ bình dân. Hiện nay, trên địa bàn
phường có 610 hộ có nhà cho thuê trọ bình dân nhưng các điều kiện đảm
bảo ANTT rất kém trong khi đó cơ chế quản lý còn rất nhiều bất cập tạo
điều kiện cho các loại tội phạm và tệ nạn xã hội hoạt động gây phức tạp về
ANTT. Ngoài ra trên địa bàn phường còn có 36 nhà nghỉ, 10 khách sạn,
13 cơ sở karaoke và 28 hiệu cầm đồ. Đây cũng là môi trường dễ phát
sinh tội phạm và tệ nạn xã hội. Tình hình người nước ngoài tạm trú trên
địa bàn nhìn chung có nhiều biến động, chủ yếu là Mỹ, Trung Quốc, Hàn
Quốc, các nước Châu Âu làm việc trong các tổ chức, doanh nghiệp nước
ngoài hoặc đến Hà Nội tham quan du lịch.
Về tôn giáo, trên địa bàn phường vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố phức
tạp dễ phát sinh mê tín dị đoan và truyền đạo trái phép. Trên địa bàn phường
có 04 Chùa, 04 đình, 28 người theo đạo Hồi, 08 người theo đạo tin lành. Đây
cũng là lĩnh vực dễ bị bọn phản động lợi dụng lôi kéo kích động tạo ra sự
phức tạp gây mất ổn định ANTT.
1.1.3. Tình hình an ninh trật tự
- Về ANCT: Nhìn chung tình hình ANCT trong nội bộ phường ổn
định, dư luận quần chúng không còn nhiều bức xúc, tuy nhiên vẫn còn tồn
tại tình trạng đơn thư khiếu kiện với quy mô và tính chất đơn lẻ. Các đối
tượng bất mãn, cơ hội chính trị, truyền đạo trái phép không còn có những
biểu hiện hoạt động như trước. Tình hình mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân
vẫn có chiều hướng phức tạp, chủ yếu là các mâu thuẫn gia đình có liên quan
đến tài sản. Không có hiện tượng khiếu kiện đông người vượt cấp … Tuy
vậy tình hình hoạt động khiếu kiện tại điểm tiếp dân của Trung ương Đảng ở

110 Cầu Giấy còn nhiều diễn biến phức tạp. Số lượng người dân ở các tỉnh
về tập trung đưa đơn khiếu kiện ngày càng tăng đặc biệt là các đoàn khiếu
kiện đông người vào các dịp quốc hội họp. Từ ngày 28/11/2009 đến nay đã
có tổng số 417 đoàn = 33.219 người kéo đến trụ sở tiếp dân tại 110 Cầu
Giấy gây mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Lợi dụng việc khiếu nại, số
đối tượng chính trị bất mãn đã đến đây kích động nhân dân gây rối, treo cờ,
băng rôn, khẩu hiệu. Chính vì thế tại trụ sở tiếp dân liên tiếp xảy ra các vụ
gây rối làm ảnh hưởng đến ANTT của địa phương như: Nhân dân các tỉnh
khác kéo đến khiếu kiện gây rối TTCC, hủy hoại tài sản của cơ quan nhà
nước, đe dọa tự thiêu….Việc tụ tập khiếu kiện của các nhóm người này đã
làm ùn tắc giao thông trên tuyến đường Cầu Giấy gây mất mĩ quan về trật tự
đô thị và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân. Tình hình
người nước ngoài tạm trú trên địa bàn không có gì biến động lớn, họ tập
trung chủ yếu trong các khách sạn. Số người nước ngoài tạm trú trong các hộ
dân cư tuy có tăng nhưng không đáng kể. Người nước ngoài trong quá trình
tạm trú tại địa bàn đã chấp hành đầy đủ các quy định của địa phương nên
chưa phát hiện ra các hành vi vi phạm có liên quan đến ANTT.
- Về TTATXH: Tình hình TTATXH vẫn còn nhiều diễn biến phức
tạp; đáng chú ý là hoạt động của các loại tội phạm. So với năm 2009 thì tội
phạm hình sự và tệ nạn xã hội tuy có giảm hơn về số lượng và tính chất tuy
nhiên vẫn có những diễn biến phức tạp. Năm 2010 tội phạm cướp giật, trộm
xe máy, trộm tài sản của học sinh, sinh viên vẫn ở mức cao. Theo thống kê
của Công an phường Quan Hoa năm 2010 số lượng các vụ việc đã giảm
10% so với năm 2009. Cụ thể: Giết người: 01 vụ; Cướp: 01 vụ; Cướp giật:
03 vụ; Trộm tài sản: 23 vụ. Quan Hoa là phường có tốc độ đô thị hóa nhanh
có nhiều hình thức kinh doanh trên các tuyến đường. Dọc trên tuyến đường
Nguyễn Khánh Toàn kéo dài sang Nguyễn Văn Huyên thường họp chợ vào
buổi tối nên đã thu hút nhiều sinh viên và nhân dân trên địa bàn. Lợi dụng sơ
hở của người mua hàng các đối tượng xấu thường có hành vi trộm xe máy
hoặc cướp giật túi xách của người mua hàng… Là địa bàn có nhiều sinh viên

và người ngoại tỉnh tạm trú nên vấn đề ANTT trong các hộ cho thuê trọ rất
phức tạp. Trong các nhà cho thuê trọ thường xuyên xảy ra các vụ mất tiền,
mất laptop, xe máy, xe đạp. Trên địa bàn không phát sinh các tụ điểm mai
dâm, ma túy nhưng hiện tượng buôn bán lẻ ma túy của các đối tượng nơi
khác đến còn diễn ra, tệ nạn mại dâm công cộng vẫn còn tiềm ẩn. Tình hình
cờ bạc vẫn diễn biến phức tạp nhưng quy mô nhỏ, chỉ tập trung vào mua bán
số đề là chủ yếu. Trên địa bàn còn tiềm ẩn những yếu tố mới có thể phát sinh
tội phạm: Số lượng các cơ sở kinh doanh có điều kiện ngày càng gia tăng,
tập trung chủ yếu vào loại hình kinh doanh nhà nghỉ và karaoke. Năm 2009
trên địa bàn phường có tổng số 33 cơ sở kinh doanh khách sạn nhà nghỉ, 11
cơ sở kinh doanh karaoke. Đến năm 2010 số lượng cơ sở kinh doanh khách
sạn nhà nghỉ tăng lên 44 cơ sở và 16 cơ sở kinh doanh karaoke. Quan Hoa là
phường có số hộ cho thuê trọ khá đông, tính đến năm 2010 trên địa bàn
phường có khoảng 442 hộ cho thuê trọ. Số lượng học sinh, sinh viên và
người tỉnh ngoài tạm trú đông, đây chính là môi trường, là điều kiện làm
phát sinh tội phạm.
1.2. Thực trạng thực hiện các mặt công tác cơ bản của Cảnh sát
khu vực Công an phường Quan Hoa
1.2.1. Tình hình tổ chức lực lượng và phân công địa bàn công tác
cho Cảnh sát khu vực Công an phường Quan Hoa
- Kết quả khảo sát tình hình lực lượng CSKV Công an phường Quan
Hoa từ năm 2007 đến năm 2010 cho thấy (Phụ lục 2):
Hiện nay, số lượng cán bộ chiến sỹ Công an phường Quan Hoa là 30
đồng chí trong đó lực lượng CSKV là 09 đồng chí (chiếm 33% quân số của
phường), lực lượng CSTT là 05 đồng chí, CSHS là 06 đồng chí và trực ban
là 05 đồng chí. Lực lượng CSKV chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Ban
chỉ huy Công an phường và sự hướng dẫn nghiệp vụ của Đội QLHC về
TTXH của Công an quận. CSKV được lựa chọn là những người có phẩm
chất đạo đức, năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn. Trong tổng số
09 đồng chí CSKV thì có 6 đồng chí có trình độ đại học, 03 đồng chí được

đào tạo qua Trung học cảnh sát, 6/9 đồng chí được đào tạo chuyên ngành
QLHC về TTXH. Số lượng CSKV là Đảng viên là 08 đồng chí và có 01
đồng chí đang chuẩn bị kết nạp.
Về độ tuổi: CSKV dưới 30 tuổi là 05 đồng chí (chiếm 55,5%). Từ 30
tuổi đến 50 tuổi là 04 đồng chí (chiếm 44,4%). Trên 50 tuổi không có đồng
chí nào.
Về cấp bậc: Hạ sĩ quan có 01 đồng chí( chiếm 11,1%), cấp úy có 06
đồng chí (chiếm 66,6%); cấp tá có 02 đồng chí (chiếm 22,2%).
Để đánh giá phân loại CSKV thì Công an phường Quan Hoa đã
thường xuyên kiểm tra định kì chất lượng CSKV 2 năm 1 lần( loại 1: là
những người có năng lực, phẩm chất tốt; loại 2: là những người có phẩm
chất tốt nhưng năng lực còn hạn chế; loại 3: là những người yếu về phẩm
chất và năng lực; loại 4: là những người thoái hóa biến chất thường xuyên vi
phạm kỉ luật). Hiện nay phần lớn CSKV Công an phường Quan Hoa xếp loại
1.Trên cơ sở phân loại CSKV Công an phường và quận đã có kế hoạch xử
lý, điều chuyển công tác, phân công địa bàn cho CSKV. Đối với những
đồng chí xếp loại 2 thì có kế hoạch tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ. Đối với
những đồng chí xếp loại 1 sẽ giao cho quản lý những địa bàn phức tạp về
ANTT.
Lực lượng CSKV thường xuyên được Công an quận và Công an thành
phố tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về chủ trương chính sách mới
của Đảng và Nhà Nước, giới thiệu về hệ thống các văn bản mới ban hành có
liên quan tới công tác quản lý địa bàn, các biện pháp phòng ngừa trong giai
đoạn hiện nay…
- Kết quả khảo sát tình hình phân công địa bàn công tác của lực
lượng CSKV Công an phường Quan Hoa từ năm 2007 đến năm 2010 cho
thấy ( phụ lục 3):
Căn cứ vào quy định của điều lệnh CSKV năm 2007 thì phường có 2
loại địa bàn cụ thể: địa bàn bình thường và địa bàn phức tạp, không có địa
bàn rất phức tạp. Từ năm 2007 đến 2010 số lượng địa bàn bình thường có xu

hướng giảm tuy nhiên địa bàn phức tạp lại tăng và năm sau thì cao hơn năm
trước. Sự gia tăng này đã tác động không nhỏ đến quá trình quản lý của lực
lượng CSKV. Hiện nay trên địa bàn phường có rất nhiều địa bàn phức tạp:
dọc tuyến đường Cầu Giấy, trụ sở tiếp dân 110 Cầu Giấy, ngõ 68 tổ 8
Quan Hoa,… đây là những địa bàn phức tạp thường xuyên xảy ra tranh
chấp đất đai, khiếu kiện, hoạt động ma túy, mại dâm gây khó khăn cho
lực lượng quản lý.
Số lượng nhân hộ khẩu trên địa bàn ngày càng gia tăng trong khi đó
số lượng CSKV lại ít chính vì thế dẫn đến tình trạng một CSKV phải quản lý
quá nhiều hộ. Hiện nay lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa đang
phải quản lý số hộ khẩu được phân bố theo địa bàn dân cư như sau: Đối với
những địa bàn phức tạp về ANTT từ 250- 350 hộ là 02 đồng chí, từ 351-550
hộ là 05 đồng chí, từ 551-650 hộ là 02 đồng chí. Như vậy so với các quy
định trong Điều lệnh CSKV thì lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa
đang phải quản lý số lượng lớn nhân hộ khẩu vượt quá lớn so với quy định.
Đây là một bất cập lớn trong quá trình công tác của CSKV.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do tốc độ đô thị hóa
nhanh, số lượng người ngoại tỉnh và sinh viên đến thuê trọ ngày càng tăng
nên đã gây khó khăn cho công tác quản lý của lực lượng CSKV. Bên cạnh
đó việc phân công địa bàn cho từng CSKV còn nhiều bất cập chưa thực sự
phù hợp với năng lực và trình độ, chưa tương xứng với địa bàn quản lý:
tình trạng CSKV giỏi quản lý địa bàn bình thường, CSKV mới còn chưa
có nhiều kinh nghiệm thì lại quản lý những địa bàn trọng điểm phức tạp
về ANTT. Mặt khác quá trình luân chuyển công tác cho CSKV cũng như
việc thay đổi địa bàn đã không tạo điều kiện thuận lợi cho CSKV trong quá
trình nắm tình hình địa bàn.
1.2.2.Thực trạng thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực
lượng CSKV
1.2.2.1. Lực lượng CSKV thực hiện công tác nắm tình hình về ANTT
trên địa bàn

Công tác nắm tình hình về ANTT là một công việc vô cùng quan
trọng có ý nghĩa trong quá trình công tác của lực lượng CSKV. Đây vừa là
một nhiệm vụ vừa là phương pháp công tác cơ bản của CSKV trong quá
trình thu thập thông tin về con người, sự vật, hiện tượng trong địa bàn có
liên quan đến ANTT. Qua quá trình nghiên cứu các thông tin thu thập được,
lực lượng CSKV sẽ xem xét, xác minh lại những nguồn thông tin có giá trị
để tham mưu cho cơ quan cấp trên trong quá trình đưa ra các chủ trương
biện pháp tổ chức thực hiện các mặt công tác nhằm giữ vững ANTT trên địa
bàn.
Từ năm 2007- 2010 lực lượng CSKV đã chủ động nắm tình hình và
tiếp nhận được 2.913 tin, trong đó tin có giá trị là 1.195 tin.Tại thời điểm
năm 2010 lực lượng CSKV nhận được 751 tin trong đó 330 tin là có giá trị.
Các thông tin mà CSKV tiếp nhận được là từ nhiều nguồn khác nhau. Qua
phân tích ta thấy:
- Nắm tình hình thông qua nguồn tin do quần chúng nhân dân cung
cấp
Trong quá trình quản lý địa bàn một nguyên tắc không thể thiếu của
CSKV là phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân. Đây là
lực lượng đông đảo thường xuyên cư trú trực tiếp trong các địa bàn dân cư nên
họ có thể tham gia vào công tác phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm
một cách lâu dài. Đây là những người trực tiếp thu thập những thông tin có liên
quan đến ANTT trên địa bàn dân cư để lực lượng CSKV kịp thời nắm bắt được
tình hình, quá trình hoạt động của tội phạm để từ đó có thể áp dụng biện pháp

×