Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

TIỂU LUẬN XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.25 KB, 59 trang )

Xác minh trong thi hành án dân sự
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 2
I/TÌNH HUỐNG………………………………………………………………… 5
II/NỘI DUNG ………………………………………………………………… 8
1/Quy định của pháp luật về việc xác minh điều kiện thi hành……………… 8
a. Luật Thi hành án dân sự năm 2008:…………………………………………8
b. Nghị định 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ sung: 8
2/Thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác xác minh điều kiện thi hànhán:.11
a. Trực tiếp xác minh:…………………………………………………………
12
b. Kịp thời, chính xác và đầy đủ:
………………………………… 13
3/ Nguyên nhân, giải pháp:……………………………………………………15
a.Nguyên nhân:……………………………………………………………… 15
b. Giải pháp:………………………………………………………………… 16
III/ KẾT LUẬN:………………………………………………………………… 18
IV/DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:……………………… 19
HV: Võ Quang Khải
1
Xác minh trong thi hành án dân sự
MỞ ĐẦU
Công tác xác minh trong thi hành án dân sự là hoạt động không thể thiếu trong
các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của chấp hành viên, thư ký thi hành án. Mục
đích của xác minh là giải quyết hồ sơ thi hành án cho đúng pháp luật bảo đảm
quyền, nghĩa vụ của các bên thi hành án. Ở mỗi hồ sơ cụ thể cần những tác nghiệp
khác nhau, cách thức tổ chức cũng khác nhau vì vậy công tác xác minh cũng khác
nhau. Tuy nhiên, ở bất cứ hồ sơ nào mục đích xác minh cũng phục vụ cho việc giải
quyết hồ sơ phù hợp với các quy định pháp luật. Có thể nói một cách khác đây
chính là sự định hướng trong công tác xác minh.
Mục đích xác minh trong công tác thi hành án nói chung là xác minh điều kiện


thi hành án của đương sự - người được thi hành án, người phải thi hành án, những
người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Xác minh thi hành án để trả lời câu hỏi: Hồ sơ này có điều kiện hay không có
điều kiện? có điều kiện là những điều kiện nào, khi áp dụng các biện pháp thi hành
án sẽ phù hợp với các quy phạm pháp luật nào được ghi nhận trong luật thi hành án
dân sự? Nếu không có điều kiện thi hành án thì chấp hành viên sẽ áp dụng các trình
tự thủ tục thi hành án (Đình chỉ, Tạm đình chỉ, Trả đơn yêu cầu thi hành án, Hoãn
thi hành án, Ủy thác thi hành án) đúng quy định của pháp luật.
Mục đích xác minh của mỗi hồ sơ thi hành án được cụ thể hóa thành các nhiệm
vụ, chấp hành viên phải luôn đạt câu hỏi: lần này hồ sơ phải xác minh cái gì? làm
rõ gì? Có như vậy toàn bộ hồ sơ mới có sự định hướng rõ ràng, khoa học tạo niềm
tin cho chấp hành viên đưa ra các biện pháp để giải quyết hồ sơ đúng pháp luật.
HV: Võ Quang Khải
2
Xác minh trong thi hành án dân sự
Trên thực tế, có những hồ sơ, chấp hành viên hoặc thư ký thi hành án chưa xác
định được nhiệm vụ của mỗi lần xác minh nên kết quả xác minh chồng chéo, thậm
chí trái ngược nhau, toàn bộ hồ sơ không có sự định hướng rõ ràng, do vậy khi áp
dung các biện pháp, chấp hành viên chở nên lúng túng.
Xác minh là “Làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể”. Chấp hành
viên và thư ký phải trực tiếp xác minh làm rõ và cụ thể về điều kiện thi hành án của
đương sự (có điều kiện hay chưa có điều kiện). Có hoặc không có điều kiện thi
hành án thể hiện các thông tin về tài sản hoặc quyền về tài sản mà cụ thể là thu
nhập, tài sản là động sản hoặc bất động sản, số dư trong tài khoản.
Việc xác minh phải được tiến hành kịp thời, chính xác và đầy đủ. Tính kịp thời
ở đây thể hiện đúng lúc, không chậm trễ của việc xác minh. Khi có được thông tin
về tài sản, chấp hành viên, thư ký thi hành án phải kịp thời xác minh, có như vậy
mới ngăn chặn kịp thời những hành vi tẩu tán tài sản của đương sự, nhất là tài
khoản hoặc động sản.
Tính chính xác và đầy đủ là một yêu cầu của một biên bản xác minh và quá

trình tác nghiệp của một hồ sơ. Sự chính xác và đầy đủ ở đây không phải là số
lượng, trọng lượng… mà chính là hàm lượng thông tin được thể hiện bằng ngôn
ngữ pháp luật qua kết quả xác minh. Thông qua các thông tin chính xác và đầy đủ
giúp ít rất nhiều cho chấp hành viên khi áp dụng các biện pháp thi hành án (thỏa
thuận, tự nguyện hay cưỡng chế). Đặc biệt, tính chính xác của kết quả xác minh
giúp chấp hành viên trong việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế xác tình hình, dự liệu
các tình huống có thể xảy ra trong khi cưỡng chế gần với thực tiễn, từ đó chấp hành
viên có thể chủ động trước các tình huống có thể xảy ra.
Mỗi biên bản xác minh rất cần sự chính xác và đầy đủ cả hình thức (mẫu xác
minh, chữ ký, dấu), có những cụ việc chỉ cần một biên bản xác minh là giải quyết
được hồ sơ, nhưng cũng có hồ sơ phải có rất nhiêu biên bản xác minh mới giúp
HV: Võ Quang Khải
3
Xác minh trong thi hành án dân sự
chấp hành viên có đủ cơ sở để giải quyết hồ sơ đúng quy định của pháp luật. Tính
chinh xác và đầy đủ của công tác xác minh đòi hỏi chấp hành viên phải luôn trăn
trở để tìm ra những câu trả lời một cách xác đàng đối với những vụ việc cụ thể.
Thực tế hiện nay không ít kết quả xác minh rất thiếu chính xác và không đầy
đủ. Nội dung: Đương sự đi tù, không có tài sản; hoặc đương sự bán nhà đi đâu
không biết. Các biên bản này vừa thiếu chính xác, không đầy đủ nên khi áp dụng
các quy phạm pháp luật để giải quyết hồ sơ không biết phải áp dụng như thế nào
bởi khi áp dụng các quy phạm pháp luật đều không có căn cứ.
Công tác xác minh có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong các giai đoạn
của quá trình thi hành án:
Công tác xác minh thường được tiến hành thường xuyên lien tục, đồng thời với
các hoạt động tác nghiệp khác. Mặt khác, công tác xác minh chiếm tỉ lệ về thời
gian tương đối nhiều (trung bình một hồ sơ thi hành án khoảng 1/3 thời gian)
Kết quả xác minh là điều kiện để chấp hành viên áp dụng các biện pháp trong
thi hành án (để các đương sự thỏa thuận, hay đương sự tự nguyện thi hành án hoặc
cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế).

Kết quả xác minh là căn cứ để chấp hành viên xác định các công việc tiếp theo
cần phải làm gì? cần áp dụng các trình tự thủ tục về thi hành án nào? (Đình chỉ,
Tạm đình chi, Trả lại đơn yêu cầu thi hành án, Ủy thác thi hành án) để giải quyết
hồ sơ đúng pháp luật.
Kết quả xác minh cũng thể hiện một phần trình độ, năng lực chuyên môn của
chấp hành viên hoặc thư ký thi hành án. Kết quả xác minh thể hiện quá trình tư
duy, lựa chọn và xác định mục tiêu cần phải đạt được của một hồ sơ, việc thực hiện
kế hoạch; kết quả xác minh phải phù hợp các biện pháp mà chấp hành viên áp
dụng.
HV: Võ Quang Khải
4
Xác minh trong thi hành án dân sự
I/TÌNH HUỐNG
Theo nội dung Bản án số 100/2012/HS-PT, ngày 12 tháng 12 năm 2012 của
Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng thì ông Võ Huy Hoàng, ĐKTT: Ấp Phương Hòa 2,
xã Hưng Phú, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng bị tòa tuyên xử phạt tù là 1 năm tù
giam; phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng, án phí dân sự sơ thẩm là
200.000đồng, án phí hình sự phúc thẩm là 200.000đồng; phải bồi thường thiệt hại
về tin thần và sức khỏe là 5.000.000đồng cho chị Hoàng Thùy Linh, ĐKTT: Ấp
Phương Hòa 2, xã Hưng Phú, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
Ngày 01 tháng 01 năm 2013, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh
Sóc Trăng ra hai quyết định thi hành án số 51/QĐ-CCTHA và 52/QĐ-CCTHA, chủ
động, và theo đơn yêu cầu của người được thi hành án là chị Hoàng Thùy Linh với
2 khoản như sau: Buộc ông Võ Huy Hoàng phải nộp án phí HSST là 200.000đồng,
DSST 200.000đồng, HSPT 200.000đồng; phải bồi thường thiệt hại về tin thần và
sức khỏe cho chị Hoàng Thùy Linh với số tiền là 5.000.000đồng. Đồng thời, Thủ
trưởng đơn vị đã phân công cho một Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành đối
với hai hồ sơ thi hành án này.
Quá trình tổ chức thi hành, chấp hành viên này đã giao cho một thư ký giúp
việc tiến hành các thủ tục ban đầu và xác minh điều kiện thi hành án của ông Võ

Huy Hoàng. Kết quả xác minh ngày 04 tháng 01 năm 2013, biên bản xác minh có
HV: Võ Quang Khải
5
Xác minh trong thi hành án dân sự
ghi: Theo lời trình bày của ông Nguyễn Thanh Hải, Trưởng ban nhân dân ấp
Phương Hòa có xác nhận của UBND xã Hưng Phú thì hiện nay ông Võ Huy Hoàng
đang còn chấp hành án phạt tù, tại địa phương chỉ còn lại vợ và 1 đứa con của ông
Hoàng đang sống chung với gia đình cha mẹ ruột của ông Hoàng trong một căn nhà
lá cây tạp được cất trên diện tích đất khoảng 100m
2
. Tại địa phương thì ông Hoàng
không có tài sản gì để thi hành án. Nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình là làm
thuê để sinh sống.
Chấp hành viên căn cứ vào biên bản xác minh mà thư ký cung cấp, Chấp hành
viên đã đề xuất đến Chi cục trường Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú ra
quyết định trả đơn yêu cầu (Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Luật Thi hành án dân sự
2008) đối với số tiền bồi thường thiệt hại cho chị Hoàng Thùy Linh, và ra quyết
định hoãn thi hành án đối với các khoản thuộc diện chủ động thi hành án (Căn cứ
vào điểm c, khoản 1, điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008).
Thủ trưởng đơn vị nhận thấy, kết quả xác minh còn thiếu chính xác và chưa đầy
đủ, không đủ cơ sở để ra quyết định, trong khi xem xét qua nội dung bản án phúc
thẩm thì bị cáo đã được trả tự do tại phiên tòa. Nên thủ trưởng đơn vị đã phân công
một thư ký khác tiến hành việc xác minh lại. Kết quả xác minh ngày 12 tháng 01
năm 2013, với sự tham gia của công chức Tư pháp, công chức Địa chính - UBND
xã Hưng Phú, và Công an viên – Phó ban nhân dân ấp Phương Hòa 2: Ông Võ Huy
Hoàng hiện nay đã chấp hành xong án phạt tù, có về địa phương trình diện và đã đi
khỏi địa phương cách nay khoảng 1 tháng nhưng không rõ là đi đâu. Ông Võ Huy
Hoàng cùng vợ và con là chị Nguyễn Thị Tuyết(23 tuổi) và con Võ Thành Công (1
tuổi) có đăng ký thường trú và sống chung với gia đình cha mẹ ruột ông Hoàng là
ông Võ Văn Nam và bà Bùi Thị Nguyệt trong căn nhà lá cây tạp khoảng 75m

2
trên
diện tích đất 100m
2
đứng tên ông Võ Văn Nam tại ấp Phương Hòa 2, xã Hưng Phú,
huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Ông Nam và bà Nguyệt đã chết cách nay khoảng 6
HV: Võ Quang Khải
6
Xác minh trong thi hành án dân sự
tháng. Gia đình hiện nay chỉ còn lại 4 nhân khẩu. Nguồn thu nhập của gia đình
sống chủ yếu bằng việc làm thuê có thu nhập thấp tại địa phương để đảm bảo việc
sinh sống qua ngày. Tại gia đình ông Võ Huy Hoàng, ngoài những vật dụng phục
vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì ông Hoàng không còn bất
cứ một loại tài sản nào có giá trị để thi hành án. Ý kiến của đại diện chính quyền
địa phương tham gia: những nội dung xác minh nêu trên là chính xác, về diện tích
đất của ông Võ Văn Nam cho đến nay thì không có bất cứ biến động nào.
Qua công tác xác minh lại tại địa phương, theo sự trình bày của lãnh đạo
UBND xã Hưng Phú là đối với kết quả xác minh trước đó, thì đại diện UBND xã
chỉ có nhận biên bản xác minh được thư ký trước đó nhờ xác thực có đến tại địa
phương xác minh, nhưng thực tế là không có đến tại địa phương.
HV: Võ Quang Khải
7
Xác minh trong thi hành án dân sự
II/NỘI DUNG
1/Quy định của pháp luật về việc xác minh điều kiện thi hành án:
a. Luật Thi hành án dân sự năm 2008:
“Điều 44. Xác minh điều kiện thi hành án
1. Trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, Chấp hành viên phải tiến
hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã áp

dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh.
Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được
áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh.
2. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án hoặc
kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án, Chấp hành
viên phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay.
Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân
phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác
minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.”
b. Nghị định 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ sung:
"Điều 6. Xác minh điều kiện thi hành án
HV: Võ Quang Khải
8
Xác minh trong thi hành án dân sự
1. Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác
xác minh điều kiện thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin
hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp
thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người
được thi hành án có yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được
yêu cầu, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường
hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ
lý do.
Kết quả xác minh được công nhận và làm căn cứ để tổ chức việc thi hành án,
trừ trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết phải xác minh lại. Việc xác minh lại
của Chấp hành viên được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được
kết quả xác minh do đương sự cung cấp.
Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải

chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây
ra thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Người được thi hành án khi yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện
thi hành án phải xuất trình biên bản làm việc hoặc các tài liệu hợp pháp khác để
chứng minh việc người đó hoặc người đại diện theo ủy quyền đã tiến hành xác
minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ các thông tin về tài sản, đang
quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án nhưng không có kết quả, trừ
trường hợp người được thi hành án thuộc diện gia đình chính sách, có công với
cách mạng hoặc là người neo đơn, tàn tật, ốm đau kéo dài, có xác nhận của cơ quan
có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Nghị định này.
Việc xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân được coi là không có kết quả
khi người được thi hành án hoặc người được ủy quyền chứng minh đã trực tiếp
hoặc yêu cầu bằng văn bản nhưng đã quá thời hạn 01 tháng kể từ ngày yêu cầu
nhưng không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà không có
lý do chính đáng.
3. Trường hợp người phải thi hành án phải thi hành đồng thời cả khoản nghĩa
vụ thi hành án theo đơn yêu cầu và nghĩa vụ thi hành án thuộc diện Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án thì việc xác minh điều
kiện thi hành án của đương sự được Chấp hành viên chủ động tiến hành cho đến
khi người phải thi hành án thi hành xong khoản nghĩa vụ thuộc diện chủ động.
HV: Võ Quang Khải
9
Xác minh trong thi hành án dân sự
Kết quả xác minh do Chấp hành viên chủ động tiến hành cũng được công
nhận để tổ chức thi hành khoản nghĩa vụ theo đơn yêu cầu. Việc xác minh các tài
sản tiếp theo của người phải thi hành án được tiến hành theo yêu cầu của người
được thi hành án.
4. Khi xác minh trực tiếp, Chấp hành viên phải xác minh cụ thể điều kiện
kinh tế, hiện trạng tài sản, căn cứ vào nội dung trình bày của đương sự hoặc cơ
quan, tổ chức khác cung cấp. Người phải thi hành án có trách nhiệm kê khai các

loại tài sản, thu nhập và thông tin về tài sản, thu nhập để thi hành án và cam kết về
tính trung thực của việc kê khai đó.
Đối với các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, đăng ký giao dịch
bảo đảm thì còn phải xác minh tại các cơ quan có chức năng đăng ký tài sản đó.
Đối với người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức, Chấp hành viên trực tiếp
xem xét tài sản, kiểm tra hệ thống sổ sách quản lý vốn, tài sản, xác minh tại các cơ
quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài
sản, tài khoản của người phải thi hành án.
Chấp hành viên có quyền mời cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia để làm
rõ các nội dung cần xác minh. Các cơ quan, tổ chức, công chức Tư pháp - Hộ tịch
cấp xã và các cá nhân có liên quan phải thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và
phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp.
5. Đối với việc thi hành án thuộc diện chủ động thi hành án mà người phải
thi hành án không có điều kiện thi hành án thì ít nhất 6 tháng một lần Chấp hành
viên phải thực hiện xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Trường hợp
người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án mà đang chấp hành hình
phạt tù hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới thì thời hạn xác minh giữa
các lần không được quá một năm.
Phạm vi xác minh điều kiện thi hành án theo đơn yêu cầu được thực hiện
theo yêu cầu của người được thi hành án. Người được thi hành án có nghĩa vụ
chứng minh việc người phải thi hành án có tài sản để thi hành án và yêu cầu thi
hành án trở lại trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết
định trả lại đơn yêu cầu thi hành án.
6. Khi xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên phải xuất trình thẻ
Chấp hành viên hoặc giấy tờ chứng minh là người có thẩm quyền xác minh điều
kiện thi hành án. Trường hợp xác minh trực tiếp thì phải lập biên bản. Trường hợp
xác minh thông qua cơ quan, tổ chức, cá nhân thì phải bằng văn bản nêu rõ nội
HV: Võ Quang Khải
10
Xác minh trong thi hành án dân sự

dung xác minh và các thông tin cần thiết khác. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các tổ
chức tín dụng, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức khác đang nắm giữ thông tin hoặc
quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm trả lời bằng
văn bản cho Chấp hành viên trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
văn bản yêu cầu của Chấp hành viên.
7. Việc thi hành án dân sự được coi là chưa có điều kiện thi hành án trong
các trường hợp sau đây:
a) Thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật thi
hành án dân sự;
b) Hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của pháp luật."
2/Thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác xác minh điều kiện thi
hành án:
Qua tình huống nêu trên, cho thấy là đối với thư ký đầu tiên được Chấp hành
viên thụ lý hồ sơ phân công thực hiện việc xác minh, chưa đảm bảo được các
nguyên tắc và yêu cầu của việc xác minh: phải trực tiếp xác minh, xác minh kịp
thời, chính xác và đầy đủ. Không thực hiện việc tìm kiếm, thu thập những thông tin
thông qua nội dung bản án, người thân của người phải thi hành án và trực tiếp tìm
kiếm, thu thập những thông tin tại địa phương nơi đăng ký thường trú, nơi có tài
sản của người phải thi hành án để có được những thông tin cần thiết cho việc thực
hiện tác nghiệp của chấp hành viên trong giải quyết án. Thư ký này lại ở tại cơ
quan mà ghi nhận vào biên bản xác minh những thông tin do Trưởng ban nhân dân
ấp cung cấp và nhờ sự xác nhận tính xác thực tại địa phương khi không trực tiếp
đến xác minh. Nội dung biên bản xác minh chưa thể hiện đầy đủ các yêu cầu của
việc xác minh điều kiện thi hành án theo quy định tại khoản 4, điều 6 Nghị định
125/2013/NĐ-CP, ngày 14 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung:
“4. Khi xác minh trực tiếp, Chấp hành viên phải xác minh cụ thể điều kiện
kinh tế, hiện trạng tài sản, căn cứ vào nội dung trình bày của đương sự hoặc cơ
quan, tổ chức khác cung cấp. Người phải thi hành án có trách nhiệm kê khai các
loại tài sản, thu nhập và thông tin về tài sản, thu nhập để thi hành án và cam kết về

tính trung thực của việc kê khai đó.
HV: Võ Quang Khải
11
Xác minh trong thi hành án dân sự
Đối với các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, đăng ký giao dịch
bảo đảm thì còn phải xác minh tại các cơ quan có chức năng đăng ký tài sản đó.
Đối với người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức, Chấp hành viên trực tiếp
xem xét tài sản, kiểm tra hệ thống sổ sách quản lý vốn, tài sản, xác minh tại các cơ
quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài
sản, tài khoản của người phải thi hành án.
Chấp hành viên có quyền mời cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia để làm
rõ các nội dung cần xác minh. Các cơ quan, tổ chức, công chức Tư pháp - Hộ tịch
cấp xã và các cá nhân có liên quan phải thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và
phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp.”
Đối với chấp hành viên phân công thực hiện việc xác minh thì chưa có sự
hướng dẫn cụ thể về việc ghi biên bản xác minh, cũng như việc theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc việc sử dụng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật đối với các
thông tin cần xác minh và làm căn cứ thực hiện những tác nghiệp của chấp viên sau
này.
Còn đối với việc thực hiện xác minh lại của thư ký được sự phân công của
thủ trưởng đơn vị, đã tôn trọng và thực hiện đúng các nguyên tắc khi xác minh là:
a.Trực tiếp xác minh:
Xác minh là “Làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể”. Chấp hành
viên và thư ký phải trực tiếp xác minh làm rõ và cụ thể về điều kiện thi hành án của
đương sự (có điều kiện hay chưa có điều kiện). Có hoặc không có điều kiện thi
hành án thể hiện các thông tin về tài sản hoặc quyền về tài sản mà cụ thể là thu
nhập, tài sản là động sản hoặc bất động sản, số dư trong tài khoản.
Trực tiếp xác minh đối với chấp hành viên và thư ký còn thể hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của chấp hành viên được quy định tại khoản 4, điều 20 Luật thi hành án
dân sự: “Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu

cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài
sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật
chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án”.
HV: Võ Quang Khải
12
Xác minh trong thi hành án dân sự
Chấp hành viên và thư ký được chấp hành viên phân công thực hiện việc xác
minh, là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định có
hiệu lực hoặc chưa có hiệu lực của các cấp Tòa án nhân dân, Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại và bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài, quyết định trọng tài nước ngoài được tòa án Việt Nam công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam theo quy định.
Chấp hành viên phải có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi và chịu trách nhiệm toàn
bộ kết quả thi hành của hồ sơ thi hành án đã được Thủ trưởng cơ quan thi hành án
giao cho. Trong khi đó kết quả thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào kết quả xác
minh; kết quả xác minh có chính xác, đầy đủ kịp thời giúp chấp hành viên giải
quyết hồ sơ đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của các bên thi
hành án. Đây chính là yêu cầu từ thực tiễn đặt ra cho chấp hành viên, thư ký thi
hành án phải trực tiếp xác minh.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, căn cứ vào tính chất của mỗi vụ việc chấp
hành viên, thư ký thi hành án phải trực tiếp xác minh để có các biện pháp áp dụng
kịp thời, hiệu quả và đúng pháp luật.
b.Kịp thời, chính xác và đầy đủ:
Tính kịp thời ở đây thể hiện đúng lúc, không chậm trễ của việc xác minh. Khi
có được thông tin về tài sản, chấp hành viên, thư ký thi hành án phải kịp thời xác
minh, có như vậy mới ngăn chặn kịp thời những hành vi tẩu tán tài sản của đương
sự, nhất là tài khoản hoặc động sản.
Tính chính xác và đầy đủ là một yêu cầu của một biên bản xác minh và quá
trình tác nghiệp của một hồ sơ. Sự chính xác và đầy đủ ở đây không phải là số
lượng, trọng lượng… mà chính là hàm lượng thông tin được thể hiện bằng ngôn

ngữ pháp luật qua kết quả xác minh. Thông qua các thông tin chính xác và đầy đủ
giúp ít rất nhiều cho chấp hành viên khi áp dụng các biện pháp thi hành án (thỏa
HV: Võ Quang Khải
13
Xác minh trong thi hành án dân sự
thuận, tự nguyện hay cưỡng chế). Đặc biệt, tính chính xác của kết quả xác minh
giúp chấp hành viên trong việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế xác tình hình, dự liệu
các tình huống có thể xảy ra trong khi cưỡng chế gần với thực tiễn, từ đó chấp hành
viên có thể chủ động trước các tình huống có thể xảy ra.
Mỗi biên bản xác minh rất cần sự chính xác và đầy đủ cả hình thức (mẫu xác
minh, chữ ký, dấu), có những cụ việc chỉ cần một biên bản xác minh là giải quyết
được hồ sơ, nhưng cũng có hồ sơ phải có rất nhiêu biên bản xác minh mới giúp
chấp hành viên có đủ cơ sở để giải quyết hồ sơ đúng quy định của pháp luật. Tính
chinh xác và đầy đủ của công tác xác minh đòi hỏi chấp hành viên phải luôn trăn
trở để tìm ra những câu trả lời một cách xác đàng đối với những vụ việc cụ thể.
Kết quả xác minh phải tránh việc thiếu chính xác và không đầy đủ. Nội dung:
Đương sự đi tù, không có tài sản; hoặc đương sự bán nhà đi đâu không biết. Thiếu
chính xác, không đầy đủ nên khi áp dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết hồ
sơ không biết phải áp dụng như thế nào bởi khi áp dụng các quy phạm pháp luật
đều không có căn cứ.

Ngoài ra, thủ trưởng chi cục thi hành án và thư ký thực hiện xác minh lại đã
nắm vững và thực hiện đúng những trình tự mà thư ký xác minh lần đầu lại bỏ qua
các trình tự khi xác minh là tìm kiếm, thu thập thông tin thông qua nghiên cứu bản
án:
Đây là cách thức đầu tiên mà chấp hành viên và thư ký thi hành án thực hiện để
tìm kiếm thông tin. Trong bản án của tòa án (sơ thẩm, phúc thẩm) chứa đựng rất
nhiều thông tin để chấp hành viên và thư ký thi hành án bước đầu khai thác có hiệu
quả thông tin đó.
Khai thác đây là loại việc gì (hình sự, dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao

đồng hay hành chính) để hình dung ra loại tội phạm hay tranh chấp, trên cơ sở các
HV: Võ Quang Khải
14
Xác minh trong thi hành án dân sự
đặc thù riêng của từng loại vụ việc để tập trung khai thác những thông tin gì phục
vụ việc giải quyết hồ sơ sau này.
Đối với bản án hình sự, tập trung khai thác đó là tội phạm gì, xảy ra ở đâu, có
nhiều người phải thi hành án hay không, họ tên từng người phải thi hành án, có tiền
án hay tiền sự không, độ tuổi bao nhiêu, cư trú (hay địa chỉ chổ ở ), có vợ(hay
chồng) chưa, có mấy con, hình phạt tù nặng hay nhẹ, mấy năm. Đây là những
thông tin ban đầu nhưng cũng rất quan trọng, bước đầu giúp chúng ta định hướng
cách thức, phương pháp xác minh sau này.
Đồi với vụ án dân sự, xem xét đó là tranh chấp gì, ở đâu, đặc biệt là các căn cứ
mà Hội đồng xét xử áp dụng, những lập luận, lý giải của tòa án chấp nhận hay
không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn. Thông tin từ bản án là bước đầu
giúp xây dựng hình dung được các đương sự thi hành án (người phải thi hành án,
người được thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ lien quan), đó là người
nam hay nữ (giới tính), già hay trẻ (độ tuổi), ở đâu (quê quán), có vợ hay chồng
chưa (gia đình)…
Việc nắm chắc hồ sơ thi hành án, nhất là nội dung bản án như đã phân tích thì
sẽ đạt được hiệu quả xác minh rất cao. Nhưng thực tế, không ít chấp hành viên, thư
ký thi hành án không nắm chắc hồ sơ, xem nhẹ các thông tin qua bản án dẫn đến
kết quả xác minh không cụ thể, quá chung chung.
3/ Nguyên nhân, giải pháp:
a.Nguyên nhân:
Một bộ phận cán bộ , công chức làm công tác thi hành án dân sự hiện nay có
năng lực, trình độ chuyên môn chưa đồng đều, ý thưc trách nhiệm chưa cao, chưa
chủ động trong công việc, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, còn yếu kém, sa sút về
phẩm chất đạo đức. Công tác tổ chức cán bộ vẫn chưa đáp ứng yêu cấu của công
tác quản lý ngành, công tác quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ,

HV: Võ Quang Khải
15
Xác minh trong thi hành án dân sự
công chức theo đúng chức năng và vị trí việc làm, chưa kịp thời và đạt được hiệu
quả cao để thực hiện nhiệm vụ.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành mặc dù có tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu, chưa xứng tầm;lãnh đạo một số đơn vị còn thiếu quyết liệt, sâu sát,
chưa thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ; chưa chủ động
trong việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ mà chủ yếu là giải quyết những vấn đề
theo yêu cầu của cấp dưới. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra vẫn còn nhiều
hạn chế, nhất là công tác tự kiểm tra, chưa phát huy tốt vai trò là công cụ phục vụ
cho quản lý, điều hành.
Một số địa phương chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng cũng như triển
khai việc thực hiện các Quy chế nội bộ, Quy chế phối hợp… trong công tác thi
hành án dân sự.
Một số cơ quan THADS địa phương chưa thật sự khẳng định được vị thế, niềm
tin để có thể tranh thủ tốt hơn sự quan tâm của cấp Ủy và địa phương đối với công
tác thi hành án dân sự.
Số lượng công việc, tính chất công việc thi hánh án hết sức phức tạp, chịu nhiều
áp lực , không hấp dẫn và thu hút được nhiều người vào công tác trong ngành; ý
thức trách nhiệm trong công việc và đặc biệt là trong công tác xác minh điều kiện
thi hành án.
b. Giải pháp:
Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi
hành án dân sự, nhất là việc kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ có
chức danh pháp lý; trong đó tập trung vào những địa bàn, đơn vị để xảy ra vi phạm
hoặc còn nhiều hạn chế, yếu kém; chỉ đạo và tổ chức khắc phục những hạn chế, tồn
tại.
HV: Võ Quang Khải
16

Xác minh trong thi hành án dân sự
Tiếp tục thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ theo phương châm “công tác cán
bộ đi trước một bước”; tập trung chấn chỉnh, củng cố, kiện toàn đối với các đơn vị
còn nhiều yếu kém; tăng cường phối hợp với Ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy và
Ủy ban nhân dân để tham mưu giúp Lãnh đạo Bộ thực hiện tốt công tác đánh giá,
quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo; nhanh
chóng thực hiện việc chuyển ngạch Chấp hành viên, thi nâng ngạch, thi tuyển Chấp
hành viên. Tham mưu giúp Lãnh đạo làm tốt công tác bổ nhiệm cán bộ quản lý và
các chức danh Tư pháp theo quy định, bảo đảm số lượng và chất lượng; tập trung
xử lý những địa bàn, đơn vị có nhiều hạn chế, yếu kém; tiếp tục kiện toàn tổ chức
theo Đề án về cơ cấu, tổ chức, xác định vị trí công tác trong hệ thống thi hành án
dân sự giai đoạn 2011-2015; phấn đấu tuyển dụng đủ số biên chế được giao. Đặc
biệt là, đánh giá kết quả thực hiện và tiếp tục nghiên cứu, nhân rộng việc biệt phái
cán bộ, Chấp hành viên.
Duy trì và phát huy tốt hơn nữa công tác phối hợp liên ngành từ Trung ương
đến địa phương; các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương cần tiếp tục tranh thủ
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, Ban chỉ đạo Thi hành án
dân sự các cấp và sự phối hợp các ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án… để chủ
động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết thi hành án.
Cấp ủy, chính quyền các địa phương tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các
cơ quan, tổ chức, các cấp ủy Đảng cấp dưới, chính quyền cấp dưới thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình trong thi hành án dân sự đã được Luật Thi hành án dân sự quy
định; tăng cường giám sát, kiểm tra công tác thi hành án dân sự, nhất là việc chấp
hành pháp luật về thi hành án dân sự.
HV: Võ Quang Khải
17
Xác minh trong thi hành án dân sự
III/KẾT LUẬN
Như vậy, điều có thể thấy thông qua tình huống là nếu chấp hành viên, thư ký
thi hành án đảm bảo được việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, trình tự khi xác

minh thì mới bảo đảm được tính mục đích khi xác minh là giải quyết hồ sơ thi hành
án đúng thời hạn quy định và đúng pháp luật, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên
thi hành án.


HV: Võ Quang Khải
18
Xác minh trong thi hành án dân sự



IV/DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2008;
• NGHỊ ĐỊNH 125/2013/NĐ-CP NGÀY 14/10/2013 CỦA CHÍNH PHỦ
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH 58/2009/NĐ-CP
NGÀY 13/7/2009 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG
DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ;
• TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG NGẠCH THƯ KÝ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ (DO
HỌC VIỆN TƯ PHÁP, TỔNG CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỔNG HỢP
BIÊN SOẠN)
HV: Võ Quang Khải
19
Xác minh trong thi hành án dân sự

MỞ ĐẦU
Để phát huy dân chủ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tại
Điều 30 Hiến pháp năm 2013 có nêu: “ mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.

HV: Võ Quang Khải
20
Xác minh trong thi hành án dân sự
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết kịp
thời trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền lợi ích của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm
minh. Người bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự .
Nhà nước ta,Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của
nhân dân, nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân;
xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, dân chủ văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no,tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, do vậy tất cả cơ quan Nhà nước,
công chức Nhà nước và nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật để từng
bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên cơ sở là công cụ của giai cấp thống trị, Nhà nước thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật. Trong quá trinh tiến hành các hoạt động quản lý, các cơ quan quản
lý Nhà nước thường đưa ra các văn bản pháp luật hoặc văn bản pháp quy theo thẩm
HV: Võ Quang Khải
21
Xác minh trong thi hành án dân sự
quyền của mình để thực thi quyền lực Nhà nước buộc mọi người phải tuân theo
Hiến pháp và pháp luật.

Vì vậy, cơ quan Nhà nước bên cạnh việc đưa ra những quyết định có tính chất
đơn phương để thực hiện quyền quản lý của mình đối với cơ quan, tổ chức và cá
nhân trong xã hội, thì lại có những hành vi trái pháp luật từ chính những cán bộ,
công chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thành văn
bản hay không thành văn bản mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cá nhân. Từ đó, phát sinh quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã
được pháp luật quy định.
Trong thời gian qua, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân đang đặt ra nhiều
vấn đề bức xúc và hết sức phức tạp, cần được giải quyết một cách toàn diện. Chính
vì vậy mà Nhà nước, cũng như các cơ quan ở trung ương và địa phương đều xác
định công tác giải quyết khiếu nại là nhiệm vụ chính trị trọng tâm nhằm giữ yên
lòng dân, giữ vững ổn định tình hình chính trị xã hội để tập trung xây dựng kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo niềm tin trong nhân dân vào chế độ XHCN.
Thực hiện công tác này nhằm giúp cơ quan, tổ chức, công dân bảo vệ được các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đây cũng là biện pháp góp phần ổn định an
ninh, chính trị tại địa phương. Giải quyết tốt công tác khiếu nại góp phần cho quyền
làm chủ của nhân dân được tôn trọng và được đối xử công bằng, đúng pháp luật,
đảm bảo mối quan hệ với dân, lắng nghe đầy đủ ý kiến của nhân dân.
Việc giải quyết khiếu naị của công dân có mục đích và ý nghĩa hết sức lớn lao
nhằm giải quyết kịp thời đúng chính sách pháp luật, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp
của công dân đã được pháp luật bảo hộ, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước. Đồng thời phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và
HV: Võ Quang Khải
22
Xác minh trong thi hành án dân sự
nhân dân, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước “lấy dân làm gốc”, Nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
Thông qua giải quyết khiếu nai, tố cáo của công dân giúp thủ trưởng các ngành,
các cấp, cơ quan đơn vị có biện pháp tích cực, phòng ngừa và hạn chế những vi
phạm pháp luật, làm phát sinh các khiếu nại, góp phần bổ sung, sửa đổi cơ chế,

chính sách, chấn chỉnh công tác quản lý trong cơ quan đơn vị mình.
Giải quyết đúng đắn, kịp thời các khiếu nại còn biểu hiện sự tôn trọng và chấp
hành các chính sách pháp luật, biểu thị trách nhiệm của cơ quan Nhà nước và lợi
ích hợp pháp của công dân, không những thế mà còn góp phần phát huy quyền làm
chủ, quyền giám sát của nhân dân đối với mọi hoạt động của cơ quan và cán bộ,
công chức Nhà nước.
Được tham gia Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thư ký thi hành án dân sự năm 2014 –
tại thành phố Hồ Chí Minh, bản thân tự nhận thấy sự nhận thức về quản lý nhà
nước được nâng lên, được bổ sung nhiều điều bổ ích giúp cho quá trinh nhận thức
cũng như trong hoạt động thực tiễn tốt hơn qua những bài học được truyền đạt,
liên hệ lại tình hình thực tế ở địa phương và đơn vị công tác tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, trong đó nổi trội nhất là vấn đề thi hành án
dân sự, một trong những cơ quan thi hành những bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân đã có hiệu lực pháp luật, thực tế công tác này thường xuyên có đơn thư
khiếu nại của bên được thi hành án và bên phải thi hành án, đặc biệt là trên lĩnh vực
kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án. Từ bức xúc trên nên tôi chọn đề
tài: “Giải quyết khiếu nại về việc kê biên, xử lý tài sản của công dân đối với công
tác Thi hành án dân sự” và phản ánh sự việc cụ thể một trong những việc khiếu nại
kéo dài do việc giải quyết sai thủ tục dẫn đến hậu quả khó khắc phục.
HV: Võ Quang Khải
23
Xác minh trong thi hành án dân sự
PHẦN I
TÓM TẮC NỘI DUNG TÌNH HUỐNG:
Để tóm tắt nội dung sự việc trên, tôi xin báo cáo qua một số tình hình chung về
việc nhận đơn khiếu nại và giải quyết khiếu nại của công dân trong lĩnh vực kê
biên, xử lý tài sản để thi hành án của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú
trong năm 2014 như sau: Trong năm đã nhận được 06 đơn khiếu nại và đã giải
quyết xong 05 đơn, trong đó có 01 đơn bức xúc khiếu nại nhiều lần, tuy đã giải
quyết xong nhưng người được thi hành án vẫn còn khiếu nại việc kê biên, xử lý tài

sản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tinh Sóc Trăng chưa đảm bảo về
thủ tục đúng theo quy định của pháp luật, từ đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
người được thi hành án.
NỘI DUNG CỤ THỂ NHƯ SAU:
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ tú, tỉnh Sóc Trăng đang thi hành Bản án
dân sự số: 99/2013/DSPT ngày 15 tháng 08 năm 2013 của Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa ông Phan Hồng T với
ông Trần Văn X cùng thường trú tại ấp Mỹ Hưng, xã Mỹ Tú, huyện Mỹ Tú, tỉnh
Sóc Trăng. Theo nội dung bản án phúc thẩm nêu trên, ông Trần Văn X phải trả cho
ông Phan Hồng T số tiền nợ gốc là 95.000.000 đồng và lãi 53.437.500 đồng, tổng
cộng là 148.437.500 đồng, kể từ ngày yêu cầu thi hành án ông Trần Văn X phải trả
thêm lãi suất đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước quy định.
HV: Võ Quang Khải
24
Xác minh trong thi hành án dân sự
Bản án đã có hiệu lực pháp luật, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của
ông Phan Hồng T và phân công chấp hành viên thụ lý hồ sơ vá giải quyết việc thi
hành án. Theo quyết định thi hành án số: 04/QĐ. CCTHA ngày 07 /10/2013 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú. Chấp hành viên đã tống đạt quyết định,
văn bản thi hành án vào ngày 11/10/2014, khi tống đạt Chấp hành viên giải thích
quyền và nghĩa vụ đối với ông Trần Văn X là người phải thi hành án có trách
nhiệm tự nguyện thi hành án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông
báo hợp lệ quyết định này. Khi hết thời gian tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên
tiến hành xác minh, giải quyết thi hành án theo trình tự thủ tục do pháp luật quy
định. Xét thấy người phải thi hành án cam kết nhưng không thực hiện đúng theo
cam kết nên Chấp hành viên tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Tại Quyết định cưỡng chế thi hành án số 03/QĐ-CCTHA ngày 15 tháng 11 năm
2014, Chấp hành viên đã tổ chức cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất của ông

Trần Văn X vào ngày 22/11/2013. Diện tích kê biên là 4.000m
2
đất trồng lúa, thuộc
thửa số 218 tờ bản đồ số 08; và 790m
2
(trong đó đất ở nông thôn là 300m
2
, diện tích
còn lại là đất lâu năm) thửa số 143 tờ bản đồ số 08. Hai thửa này cùng tọa lạc tại ấp
Mỹ Hưng, xã Mỹ Tú, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, được UBND Huyện Mỹ Tú
cấp cho ông Trần Văn X vào ngày 19 tháng 02 năm 2009.
Ngay sau khi kê biên quyền sử dụng đất của ông Trần Văn X, thì ông đã làm
đơn khiếu nại gửi đến UBND Huyện Mỹ Tú và Cục thi hành án dân sự Tỉnh Sóc
Trăng vào ngày 23/11/2013.
Để giải quyết vụ việc khiếu nại trên, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú
đã mời ông Trần Văn X để giải quyết nội dung khiếu nại của ông. Theo đơn khiếu
HV: Võ Quang Khải
25

×