Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NH Ngân hàng
NHTM Ngân hàng Thương mại
CN Chi Nhánh
TW Trung ương
DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DN Doanh nghiệp
DA Dự án
LỜI NÓI ĐẦU
Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của các tổ chức trung gian tài
chính là dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chưa đựng nhiều
rủi ro nhất của các NHTM và các định chế tài chính khác.
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong bối cảnh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày
càng tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển sao cho phù hợp nhằm
đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng trong xã hội. Nhưng vấn đề là phải
đảm bảo chất lượng tín dụng như thế nào để NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả
và phát triển bền vững.
Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho NHTM làm tốt chức
năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế và sẽ là cầu nối giữa phần tiết kiệm
và đầu tư. Từ đó góp phần điều hoà nguồn vốn trong xã hội, phân bố các nguồn
vốn cho đầu tư một cách hợp lý, giảm lãng phí ở những nơi thừa vốn trong xã
hội, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, tạo quan hệ tốt giữa cung và cầu vốn,
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền tệ.
Như chúng ta đã biết, tín dụng cũng là một trong những công cụ để Đảng
và Nhà nước thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế. Do vậy,
chất lượng tín dụng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giúp đầu tư
đúng hướng để khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên lao động, đảm bảo
cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các
khu vực trong cả nước. Ngoài ra, tín dụng có chất lượng còn góp phần kiềm chế
lạm phát, ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tín dụng có chất lượng sẽ góp phần tăng chất lượng sản xuất kinh doanh
và tạo một thị trường tài chính lành mạnh. Chất lượng tín dụng được đảm bảo
cũng có nghĩa là NH đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà có điều kiện đáp
ứng yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế mở kéo theo sự cạnh tranh gay gắt của các tổ
chức tín dụng trên thị trường, nếu NHTM nâng cao được chất lượng tín dụng thì
cũng chính là đã tạo được lòng tin ở khách hàng của mình. Trong nền kinh tế thị
trường, khách hàng được coi là “thượng đế” nên họ có quyền lựa chọn bất kỳ
một NH nào đó làm đối tác. Hay nói cách khác, khách hàng tìm đến NH nào mà
ở đó thực sự tạo điều kiện và giúp đỡ họ thực hiện việc kinh doanh đạt hiệu quả
thông qua quan hệ tín dụng và các dịch vụ khác. Hơn nữa, về phía NH sẽ có cơ
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hội tăng số lượng khách hàng, thu hút được thêm nhiều nguồn vốn, tạo điều kiện
mở rộng tín dụng.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tình hình tài chính của NHTM được cải
thiện, tạo ra những thế mạnh trong quá trình cạnh tranh, giúp cho NH tránh và
hạn chế được những rủi ro, những tổn thất to lớn có thể xảy ra, góp phần làm
lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng và tạo điều kiện để mở rộng các quan hệ tín
dụng. Chất lượng tín dụng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của từng
NHTM nói riêng và toàn bộ hệ thống NH nói chung.
Qua những vấn đề được phân tích ở trên ta thấy rõ sự cần thiết khách
quan của việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM.
Từ thực tế ở Chi nhánh Ngân hàng No & PTNT Huyện Vị Xuyên, và sau
thời gian học tập nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận, tôi chọn đề tài: "
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Ngân hàng No & PTNT Huyện Vị Xuyên" để làm chuyên đề
nghiên cứu của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập gồm có 3 chương:
Chương I: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với Doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Ngân hàng No & PTNT Huyện Vị Xuyên
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng No & PTNT Huyện Vị Xuyên
Thông qua việc phân tích thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
đối với thành phần kinh tế này tại Ngân hàng nông nghiệp Huyện Vị Xuyên. Từ
đó, tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé của bản thân mình vào việc nâng cao
chất lượng, hiệu quả trong hoạt động tín dụng, phòng ngừa và hạn chế những rủi
ro do nguyên nhân chủ quan. Xét về khía cạnh nào đó, tôi hy vọng tại Ngân
hàng nông nghiệp Huyện Vị Xuyên nói riêng và hệ thống NH nói chung luôn
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
luôn phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển
chung của nền kinh tế đất nước theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Ngân hàng nông nghiệp Huyện Vị Xuyên, thời gian trong phạm vi 03 năm, từ
năm 2010 đến 31/12/2010.
Do khả năng và trình độ của bản thân có hạn, nên chắc rằng đề tài này sẽ
không thể tránh khỏi có những khiếm khuyết nhất định, vì thế tôi rất mong
muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và đặc biệt là các
thầy, cô trong bộ môn hướng dẫn để đề tài được hoàn chỉnh, mang tính thực tiễn
và khả thi cao hơn./.
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.1. Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng
thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của của Doanh nghiệp Vừa và nhỏ
1.1.1.1 Khái niệm Doanh nghiệp Vừa và nhỏ
DNV&N là những DN có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh
thu. DNV&N có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là DN siêu
nhỏ (micro), DN nhỏ và DN vừa. Theo tiêu chí của Nhóm NH Thế giới, DN siêu
nhỏ là DN có số lượng lao động dưới 10 người, DN nhỏ có số lượng lao động từ
10 đến dưới 50 người, còn DN vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước,
người ta có tiêu chí riêng để xác định DN nhỏ và vừa ở nước mình. Ở , không
phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các DN có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc
số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người được coi là Doanh
nghiệp Vừa và nhỏ (không có tiêu chí xác định cụ thể đâu là DN siêu nhỏ, đâu là
nhỏ, và đâu là vừa).
1.1.1.2. Vai trò, đặc điểm của Doanh nghiệp Vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế, chúng ta thường nói tới "Doanh nghiệp" và được
chúng ta hiểu một cách thông thường là những đơn vị kinh tế được thành lập bởi
một cá nhân hay bởi các tổ chức, được nhà nước cho hoạt động nhằm thực hiện
hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định vì mục đích công ích hay
lợi nhuận. Sự vận động của nền kinh tế nhất thiết phải có một yếu tố quan trọng
đó là DN, không có hoạt động của các DN thì nền kinh tế không thể lưu thông
và hoạt động.
DNV&N có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc
gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh đang chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới,
DNV&N đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt: Đảm bảo nền tảng ổn
định và bền vững của nền kinh tế; huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành kinh tế quốc dân; cải
thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo dân cư; góp
phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các vùng đất nước.
Các hoạt động của các DNV&N đã và đang góp một phần không nhỏ vào
sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Các DN này đã tạo ra một mạng lưới liên
kết giữa các thành phần kinh tế với nhau, thúc đẩy và lưu thông các nguồn lực
sẵn có trong xã hội như: vốn, nhân lực...
Rõ ràng sự thành công của những cải cách trước đây trong thập niên 80
phần lớn nhờ vào sự đáp ứng mạnh mẽ từ phía cung của các hộ gia đình nông
nghiệp: việc bãi bỏ hình thức nông nghiệp tập thể đã nhanh chóng biến từ chỗ
thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Trong
những năm gần đây, các DNV&N một lần nữa lại trở thành trung tâm của những
tranh luận về phát triển. Lần này, sự thảo luận chủ yếu liên quan đến vấn đề tạo
việc làm.
Vai trò của các DNV&N gần đây cũng đã được nhấn mạnh trong cộng
đồng các nhà tài trợ. Cùng với vai trò tạo việc làm của mình, có thể nói các
DNV&N cũng là nhân tố chính trong việc giảm nghèo, đặc biệt là tại khu vực
nông thôn. Với việc giảm nghèo là mục tiêu phát triển chính yếu hiện được ưu
tiên của cộng đồng các nhà tài trợ, đang nhận được nhiều sự khích lệ trong
chính sách thúc đẩy sự phát triển DNVVN của mình.
Các DN trong quá trình hoạt động và sản xuất của mình đã cung cấp hàng
hoá, tạo ra sự lưu thông hàng hoá trong thị trường. Tuy nhiên để đảm bảo hoạt
động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả thì các DN phải có một chiến
lược phát triển cụ thể trong quá trình kinh doanh của mình. Ở các DNV&N chủ
yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa thủ công nghiệp (chiếm
40,6% DN của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng
(13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh bất động sản, tư vấn, khách sạn,
nhà hàng (25,3%).
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Có nhiều loại hình DN khác nhau, nếu phân loại DN theo hình thức sở
hữu thì có DN tư nhân, DN nhà nước, DN liên doanh, DN cổ phần… Nếu phân
loại theo quy mô nguồn vốn thì có DN lớn và DNV&N. Trong đề tài này, tôi
muốn đề cập đến DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong hệ
thống các DN và đây cũng là những DN đóng góp một vai trò không nhỏ trong
nền kinh tế. Nếu chúng ta có một định hướng đúng đắn đối với các DNV&N thì
sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to lớn, từ đó làm điểm tựa vững chắc để
đưa đất nước phát triển.
Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị ,chủ yếu ở các thành
phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng ... và các
tỉnh thuộc khu vức đồng bằng bắc bộ.
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày càng
tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng rất
khác biệt so với các DN lớn trên thị trường. DNV&N mang nhưng đặc trưng cơ
bản sau:
* Các DNV&N chiếm số lượng lớn trên thị trường, và tốc độ gia tăng cao
Theo luật DN quy định, việc thành lập DNV&N yêu cầu số vốn thành lập nhỏ,
vì vậy số lượng DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Với ưu điểm
là vốn điều lệ thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn cho các tổ chức kinh tế
tư nhân đứng ra thành lập DN của mình. Mặt khác, từ trước đó đã tồn tại không
ít các DN nhà nước có quy mô vốn nhỏ, lao động ít như các hợp tác xã, các DN
nhà nước mới thành lập hoặc được tách ra…Với đặc điểm là vốn pháp định nhỏ
như vậy, số lượng các DNV&N đã chiếm phần lớn về số lượng trong nền kinh tế
và có tốc độ gia tăng cao.
* Các DNV&N có quy mô vốn nhỏ, lao động ít
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các
DNV&N trong những năm gần đây thì lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2
tỷ đồng/DN. Theo quy định của Luật DN, DNV&N là các DN có số vốn pháp
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
định không vượt quá 10 tỷ, có số lao động không vượt quá 300 lao động. Với số
vốn nhỏ như vậy, các DN gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nhất là khó khăn trong việc cạnh tranh
với các DN lớn sản xuất cùng một loại sản phẩm trong thị trường. Nhất là khi
nền kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNV&N khó có khả
năng chống đỡ và dễ dẫn đến bị phá sản. Đồng thời, với số lao động ít, các
DNV&N sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản xuất kinh doanh và mở rộng
sản xuất kinh doanh. Nhất là với tình trạng ít lao động, DNV&N sẽ khó có được
các lao động với tay nghề cao. Với số lao động ít như vậy, sẽ khó mở các lớp
đào tạo nâng cao tay nghề nghiệp vụ cho các nhân viên. Mặt khác đa số người
lao động, nhất là người lao động có tay nghề nghiệp vụ, trình độ chuyên môn
giỏi, khi tìm kiếm việc làm đều có xu hướng muốn vào các DN lớn trên thị
trường, điều này khiến các DNV&N gặp khó khăn trong quá trình tuyển dụng
lao động và phải đầu tư nhiều hơn cho công tác marketing tuyển dụng lao động.
* Đa số các DNV&N là các DN ngoài quốc doanh
Các DNV&N chủ yếu là các DN tư nhân (chiếm khoảng 80%) do đặc
điểm về quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ. Điều này tạo khó khăn cho việc
quản lý các DNV&N. Nhất là đối với các DN tư nhân hoạt động linh hoạt nhưng
kém hiệu quả. Các DN tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt
động chưa có một tầm nhìn chiến lược hoạt động cho DN của mình. Và trong
khi vận hành sản xuất kinh doanh, khi că một biến cố xảy ra thì không có kinh
nghiệm chống đỡ hoặc không đủ khả năng chống đỡ, dẫn đến thua lỗ hoặc nặng
hơn là phá sản. Việc quản lý các DN tư nhân cũng rất khó khăn. Nhiều DN còn
cố tình làm ăn phi pháp, cố tình trốn thuế và không thực hiện đúng chế độ kế
toán thống kê. Để quản lý tốt các DNV&N, đòi hỏi một sự theo dõi sát sao và
thực sự có hiệu quả. Như vậy có thể mới kiểm soát được hoạt động của loại hình
DN này.
* Kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Không kể các DN nhà nước vừa và nhỏ đã thành lập lâu đời và hoạt động
ổn định, đa số các DNV&N đều là các DN tư nhân được thành lập trong hoặc
sau thời kỳ mở cửa nền kinh tế hoặc là các DN Nhà nước vừa được tách ra. Với
những DNV&N thành lập khá lâu mà hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu
quả, họ sẽ dần dần mở rộng nguồn vốn của mình và đứng vào hàng ngũ những
DN lớn. Như vậy, kinh nghiệm hoạt động của loại hình DN này chưa nhiều. Với
số vốn ít và bề dày kinh nghiệm hạn chế, các DNV&N gặp khó khăn trong việc
duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chống đỡ với những thay đổi trong quá
trình hoạt động của mình.
* Trình độ công nghệ và phương pháp quản lý lạc hậu
Đây là vấn đề nổi cộm đối với tổng thể các DN của nước ta do đặc điểm
nền kinh tế chưa thực sự phát triển. Ở DN hiện nay, một thực trạng phổ biến
trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 10-15 năm
trong ngành điện tử, 15 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt
may đã sử dụng được 15 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm
của chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi
phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn
đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng
thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp.
Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ
chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý DN, một phần
là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa
theo kịp diễn biến của thị trường.
Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm
và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của trước áp lực
cạnh tranh quốc tế.
* Các DNV&N hoạt động linh hoạt, năng động
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong nền kinh tế, các DNV&N là những thành phần hoạt động linh hoạt
nhất. Với mỗi thay đổi nhỏ nhất của nền kinh tế, các DNV&N đều chịu tác động
và phải điều chỉnh hoạt động của mình để phù hợp với mỗi biến đổi đó. Với tính
năng động như vậy, các DNV&N đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của
mình và đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa dạng về loại hình hoạt
động, phương thức quản lý, sản phẩm của các DNV&N giúp cho họ đứng vững
được trong thị trường.
1.1.2. Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng
thương mại
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên tín
dụng khi gắn với chủ thể là NH thì tín dụng NH nghĩa là NH cho vay.
Tín dụng được xem xét là một chức năng cơ bản của NH, vì vậy trên cở
sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của NH thì tín dụng có thể dược hiểu như
sau :
Tín dụng là một quan hệ về tài sản (tiền hoặc tài sản) giữa bên cho vay
(Ngân hàng) và bên đi vay (Doanh nghiệp Vừa và nhỏ), trong đó bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo
thoả thuận, đồng thời bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc
và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NH, chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên thế giới thì hoạt
động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở thì chiếm tới 60-70%. Song song
với hoạt động huy động vốn, tín dụng tạo ra nguồn lợi nhuận chính duy trì hoạt
động của NH. Hoạt động tín dụng NH được dựa trên quyết định của thống đốc
NH nhà nước số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm về việc ban
hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với DN. Theo đó quan hệ tín
dụng giữa Doanh nghiệp và NH có thể hiểu như sau:
- Doanh nghiệp phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định.
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các khoản tín dụng của NH chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
DN cùng khách hàng và các khoản vay mượn khác. Bản thân NH cũng có
trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho các khoản mượn nói trên. NH thu lợi
nhuận là nhờ thu chênh lệch lãi suất cho vay và đi vay, đồng thời sử dụng
vốn vay để thực hiện hoạt động khác như đầu tư, tài trợ… Như vậy, để duy
trì sự tồn tại và phát triển của mình, NH phải yêu cầu DN thực hiện đúng
cam kết này.
- Doanh nghiệp phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận
với NH, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của NH
cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các NH, và mỗi NH đều
có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Do vậy, khi cho cấp tín dụng trong
phạm vi hoạt động của mình, NH yêu cầu DN phải sử dụng vốn đúng mục
đích như đã thoả thuận với NH.
- NH tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Phương án hoạt động của DN
đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của NH. Mặt khác, để đảm bảo đòi được
nợ, các NH thường yêu cầu tài sản đảm bảo với mỗi khoản vay.
Các hoạt động tín dụng đối với DNV&N của Ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng NH được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
NH tiến hành phân loại tín dụng để dễ quản lý các khoản tín dụng và nhằm đa
dạng hoá tín dụng nhằm thoả mãn nhu cầu của DN. Phân loại tín dụng để NH
quyết định lãi suất cho vay, cũng như loại hình cho vay thích hợp với mỗi loại
tín dụng khác nhau.
Việc xác định phương thức cho vay có một ý nghĩa rất quan trọng của quá
trình cấp tín dụng choĐNN. Nếu xác định đúng phương thức cho vay cho từng
DN từ đú sẽ tạo ra yếu tố tích cực giúp cho DN thuận lợi trong quá trình giao
dịch và chủ động về tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh và thuận lợi
để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, khuyến khích được DN về quan hệ
vay vốn với NH, Ngân hàng chủ động trong việc cân đối giữa nguồn vốn và sử
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dụng vốn. Nếu xác định sai phương thức cho vay sẽ dẫn đến NH không kiểm
soát chặt chẽ được số vốn cho vay làm tăng rủi ro tín dụng, không khuyến khích
được DN vay vốn.
Hiện nay các NH thường áp dụng các phương thức cho vay sau
* Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là nghiệp vu cho vay qua đó NH cho phép người vay
được chi trội tren số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi.
Để được thấu chi, DN làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và thời gian thấu
chi (có thể phải trả phí cam kết cho NH ). Trong quá trình hoạt động, DN có thể
ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt số dư tiền gửi để chi trả (song trong
hạn mức thấu chi). Khi DN có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, NH sẽ thu nợ gốc
và lãi. Số lãi mà DN phải trả là :
Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi.
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng
hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của DN không phù hợp về
thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự
đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều
kiện thuận lợi cho DN trong quá trình thanh toán, chủ động, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả DN lẫn cá nhân vài ngày trong
tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua
hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với DN có độ tin cậy cao, thu
nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
* Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
NH đối với các DN không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để
được cấp hạn mức thấu chi. Một số DN sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng
thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc
biệt mới vay NH, tức là vốn từ NH chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của
chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay, DN phải làm đơn và trình NH phương án sử dụng vốn vay.
NH sẽ phân tích DN và ký hợp đồng cho vay, xác định mức cho vay, thời hạn
giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay
được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Nhu cầu vay
Ngân hàng
=
Chi phí cần thiết cho SXKD - Vốn tự có -
Vốn khác
Trong đó:
Chi phí cần thiết
Cho SXKD
=
Giá trị hợp đồng - Khấu hao cơ bản -
Thuế - Lợi nhuận định mức cho SXKD
Nếu cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo:
Mức cho vay= (Giá trị tài sản đảm bảo x Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản
đảm bảo).
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, NH sẽ thu gốc và lãi. Trong quá
trình DN sử dụng tiền vay, NH sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu
thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, NH sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ
quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. NH có thể kiểm soát từng
món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo.
* Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó NH thoả thuận cấp cho DN hạn mức tín
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa
tại thời điểm tính.
Mỗi lần vay, DN chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi
kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, NH sẽ phát tiền cho DN.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những DN vay mượn thường
xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong nghiệp vụ này, NH không ấn định trước ngày trả nợ. Khi DN có thu nhập,
NH sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho DN. Tuy nhiên, do các
lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên NH khó kiểm soát hiệu
quả sử dụng từng lần vay. NH chỉ có thể phát hiện vấn đề khi DN nộp báo cáo
tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
* Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hoá. DN khi mua hàng có thể thiếu vốn. NH có thể cho vay để mua hàng và sẽ
thu nợ khi DN bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm đơn xin
vay luân chuyển. NH và DN thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức
tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng
có thể được thoả thuận trong 1năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn
hoàn trả mà là thời hạn NH xem xét lại mối quan hệ giữa NH và DN cũng như
tình hình tài chính của DN.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá nên cả NH và DN đều phải
nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời
gian tới.
Khi vay, DN chỉ cần gửi đến NH các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số
tiền cần vay. NH cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị
hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối
tượng được NH cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho NH.
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng
quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở
thành vật đảm bảo cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển thường được áp
dụng đối với các DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn
ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với NH.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho DN. Thủ tục cho vay chỉ cần thực
hiện 1 lần cho nhiều lần vay. DN được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời , vì vậy
việc thanh toán cho người cung ứng sẽ nhanh gọn.
Nếu DN gặp khó khăn trong tiêu thụ thì NH sẽ gặp khó khăn trong việc
thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
* Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó NH cho phép DN trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã theo thoả thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản
cố định và tài sản lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp
với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế cuả DA, hoặc
từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
NH thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. NH sẽ thanh toán cho ngưòi bán lẻ về số hàng hoá mà DN đã mua trả
góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền ngay sau khi bán hàng từ phía NH và làm đại
lý thu tiền cho NH, hoặc DN trả trực tiếp cho NH. Đây là hình thức tín dụng tài
trợ người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do DN thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả
góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người
vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của NH cũng bị ảnh
hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất
trong khung lãi suất cho vay của NH.
* Cho vay gián tiếp
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Phần lớn cho vay của NH là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó NH cũng phát
triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ
chức trung gian.
NH cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân,
Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ…Các tổ chức này thường liên kết các thành
viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền
lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm
nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm.
NH có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức
trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra
bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho
một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không
đủ tài sản thế chấp.
NH cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món
vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa NH. Trong trường hợp như vậy, cho vay
qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của NH. Tuy
nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của
mình, để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác
cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng
hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
1.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu
tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng
tín dụng tốt tức là NH có nhiều khách hàng, uy tín NH được nâng cao tạo điều
kiện thúc đẩy cho NH phát triển.
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù
hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của NH.
Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng của NH nói chung và đối với
DNV&N nói riêng, cần tính đến ba nhân tố là NHTM, khách hàng, và nền kinh
tế.
Thứ nhất: Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ giác độ NHTM
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân NH và phải
đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng
hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận
hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng
quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung và dài hạn
trong nền kinh tế.
Thứ hai: Chất lượng hoạt động xét từ giác độ khách hàng
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ làm
cho NH hiểu rõ nhu cầu tín dụng của NH, đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý về
vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chất lượng là yêu cầu hàng
đầu, vì vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, lãi
suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng
vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát
triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NH, góp phần làm lành
mạnh tài chính khách hàng.
Thứ ba: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hoạt động tín dung trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng
động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới. Nhiều khái niệm mới với
những nội dung mới để đạt được sự thống nhất, về nhận thức và tạo điều kiện
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động,
tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả
năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước,
tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.
Từ những điều trên, ta có thể rút ra:
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh
một NH trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
- Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách
hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí
tổng thể về sản xuất, chi phí nghiệp vụ…
- Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy
trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với
nhau vì một mục đích chung, do đó để đạt được chất lượng tín dụng cần có sự
quản lý.
Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử
dụng nhằm đạt được chất lượng tốt.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại
Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng TDNH, trong đó có các
chỉ tiêu cơ bản sau:
1.2.2.1. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của NHTM ở
một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ tiêu này
được tính theo công thức (1.1) dưới đây:
Tỷ lệ nợ xấu
* Khái niệm nợ xấu:
Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu nợ quá hạn thì chưa đánh giá chính xác về chất lượng
tín dụng của các NH. Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước “ V/v Ban hành quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của
TCTD” đã đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng của các TCTD. Theo
Quyết định 493 thì nợ xấu là nợ thuộc nhóm 3,4,5 theo cách phân loại nợ dưới
đây.
Chỉ tiêu này phản ánh nợ xấu của một NH, tỷ lệ này càng thấp càng tốt. Thực tế,
rủi ro trong kinh doanh là không tránh khỏi, nên NH thường chấp nhận một tỷ lệ
nhất định được coi là giới hạn an toàn. Mức giới hạn này ở mỗi nước là khác
nhau, riêng ở hiện nay chấp nhận tỷ lệ là 5%.
* Cách phân loại nợ
Theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 (có hiệu lực
ngày 17/03/2005) của Thống đốc NHNN VN về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001. Trong đó điều chỉnh kỳ
hạn nợ là việc NH chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vay trong
phạm vi thời hạn cho vay đã thoả thuận tại HĐTD; gia hạn nợ vay là việc NH
chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vay vượt
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
19
=
Nợ xấu
Tổng dư nợ
x 100% ≤ 5%
(1.1) (1.1)
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quá thời hạn cho vay đã thoả thuận trong HĐTD và chất lượng tín dụng được thể
hiện là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Việc phân loại nợ quá hạn theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN đã có
nhiều thay đổi nhưng việc phân loại nợ quá hạn vẫn còn dựa vào tiêu chí thời
gian quá hạn của khoản vay chứ chưa tính đến tiêu chí rủi ro của khoản vay nên
chưa phản ảnh chính xác chất lượng của hoạt động tín dụng.
Theo Quyết định số: 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước “V/v Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụngdự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của tổ chức tín
dụng” và quyết định số 18/2009/QĐ-NHNN ngày 25/04/2009 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước “V/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
NH của tổ chức tín dụng ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22/04/2005” thì dư nợ của các tổ chức tín dụng được chia làm 05 nhóm, cụ
thể:
Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu
hồi đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn; Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ
chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và
thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; Các khoản nợ của DN trả đầy đủ
nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 01 năm đối với
các khoản nợ trung và dài hạn, 03 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và các
kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc, lãi đúng hạn
theo thời hạn đã được cơ cấu lại thì phân loại vào nợ nhóm 1. Trường hợp một
DN có nợ cơ cấu lại bao gồm nợ ngắn hạn và nợ trung, dài hạn thì chỉ xem xét
đưa vào nợ nhóm 01 khi DN đã trả đầy đủ (nợ ngắn hạn và nợ trung, dài hạn) cả
gốc và lãi số nợ đã được cơ cấu lại trong thời gian quy định trên, đồng thời các
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc, lãi đúng hạn đã
được cơ cấu lại..
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm
Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày; Các khoản nợ điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là DN, tổ chức thì tổ chức tín dụng
phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng
kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm
Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại
có thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu
phân loại vào nhóm 2; Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng
không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm
Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần
đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần
thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh, nợ
chờ xử lý.
Các khoản nợ nếu có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của của
khách hàng bị suy giảm thì phải phải tính một cách chính xác, minh bạch để
phân loại nợ vào các nhóm nợ phù hợp với mức độ rủi ro, cụ thể:
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nhóm 2: Các khoản nợ tổn thất tối đa 5% giá trị nợ gốc.
Nhóm 3: Các khoản nợ tổn thất từ trên 5%-20 % giá trị nợ gốc.
Nhóm 4: Các khoản nợ tổn thất từ trên 20% - 50% giá trị nợ gốc.
Nhóm 5: Các khoản nợ tổn thất trên 50% giá trị nợ gốc.
Việc phân loại nợ theo Quyết định 493và quyết định 18 của Ngân hàng
Nhà nước vừa dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn của khoản vay, vừa dựa vào
tiêu chí rủi ro của khoản vay đã làm cho các NH phải đánh giá lại thực sự các
khoản nợ đã cho khách hàng vay và có thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng
tín dụng của mình.
1.2.2.2. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.2) dưới đây:
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng dư nợ
(1.2)
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của NH với
khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy
động. Thông thường theo cách nhìn của nhiều người, chỉ tiêu này càng lớn
chứng tỏ NH sử dụng nhiều vốn huy động và hoạt động của NH sẽ hiệu quả hơn,
điều này sẽ không đúng. Vậy tỷ lệ này lớn tốt hay nhỏ tốt? Chúng ta chưa thể
khẳng định được, bởi nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì NH phải tìm kiếm
nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì NH sẽ
rơi vào tình trạng thừa vốn. Do đó, chỉ tiêu này chỉ mang tính tương đối giúp
chúng ta so sánh khả năng cho vay và huy động vốn của một NH.
1.2.2.3. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Được xác định bằng doanh số thu nợ trên dư nợ bình quân của một
NHTM trong thời gian nhất định, thường là một năm.
Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.3):
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ
(1.3)
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Dư nợ bình quân
Đây là chỉ tiêu phản ánh số vòng chu chuyển của vốn vay (thường là 1
năm). Chỉ tiêu này càng tăng thì tính tổ chức, quản lý tín dụng càng tốt, chất
lượng cho vay càng cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương
đối, vì nếu một NHTM này cho vay các DN sản xuất chiếm tỷ trọng lớn dư nợ,
thì chỉ tiêu này thấp hơn NHTM khác cho vay các DN thương mại. Như vậy,
không vì thế mà chất lượng cho vay của NHTM này kém hơn. Từ thực tế trên,
để có nét tương đối chính xác về chất lượng tín dụng thì các tiêu thức tính toán
phải thống nhất, vòng quay tín dụng phải tính toán cho từng loại vay, thời hạn
vay và từng đối tượng vay cụ thể.
1.2.2.4. Chỉ tiêu lợi nhuận
Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.4) dưới đây:
Lợi nhuận =
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
(1.4)
Tổng dư nợ tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của NHTM chiếm từ 70%-85% tổng lợi
nhuận của NHTM. Nếu lợi nhuận của một NH nào đó tăng lên hàng năm, điều
đó chứng tỏ chất lượng tín dụng được nâng lên. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng
sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào
(lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của
vốn tín dụng , một khoản tín dụng ngắn hạn hay dài hạn không thể xem là có
chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi nhuận cho NH. Chỉ tiêu này cao chứng
tỏ các khoản cho vay của NH sinh lời và ngược lại chỉ tiêu này thấp chứng tỏ
các khoản vay không sinh lời, đồng nghĩa với chất lượng tín dụng chưa tốt.
Đánh giá chất lượng khoản tín dụng trên cơ sở căn cứ vào lợi nhuận thu được
của các NHTM, đây cũng là chỉ tiêu tương đối vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: chính sách lãi suất, chính sách khách hàng v.v. Thông thường trong hoạt
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
động NH, nếu chấtlượng tín dụng NHTM tốt, tỷ lệ nợ xấu thấp thì lợi nhuận từ
hoạt động tín dụng sẽ cao hơn khi cùng một mức dư nợ so với các NH khác.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng đối với Doanh
nghiệp Vừa và nhỏ
Như ta đã biết, chất lượng tín dụng là chỉ tiêu để đánh giá tình hình hoạt
động tín dụng của một NH và có ý nghĩa lớn đến sự tồn tại và phát triển của NH.
Chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách
hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của NH. Để có thể thực hiện được mục tiêu hoạt động
của mình là tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chức năng nhiệm vụ của NH, cụ thể ở
đây là hoạt động tín dụng, mỗi NH phải làm sao để nâng cao được chất lượng tín
dụng. Để thực hiện được điều này ta cần nghiên cứu tác động của các nhân tố
ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, đó là 3 nhóm nhân tố sau đây:
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn
tín dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân NH và đảm bảo được tính
cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Bao gồm các nhân tố như: Chính sách tín dụng, công tác tổ chức, chất
lượng cán bộ, quy mô vốn của NH, thông tin tín dụng, quy trình nghiệp vụ tín
dụng...
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp có liên quan đến việc
khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch
định của NHTM đó.
Do đó, việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự
thành công hay thất bại của mỗi NH. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu
hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng
dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ chấp hành đúng luật pháp và đường lối
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của NH nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Bất kỳ một NH nào muốn nâng
cao hiệu quả hoạt động của mình thì phải có chính sách tín dụng phù hợp với
điều kiện cụ thể của NH.
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường chứa đựng nhiều rủi ro.
Khi NH gặp những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy
tín với khách hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy khi hoạch định chính
sách tín dụng, các nhà hoạch định luôn coi trọng việc đảm bảo mục tiêu phải đạt
được, nên ta có thể nói rằng: Chất lượng tín dụng của một NH có tốt hay không
còn phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng NH có đúng đắn, phù
hợp không.
* Công tác tổ chức NH
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng thì
cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết từ
trên xuống, từ ban lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên. Điều đó có ý nghĩa là
công tác tổ chức NH được thực hiện tốt chính là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ
tín dụng lành mạnh. Hơn nữa thực hiện tốt công tác này, NH đã làm cho guồng
máy của mình hoạt động một cách uyển chuyển linh hoạt. Chính vì vậy, trong
quá trình hoạt động NH nên luôn chú trọng công tác này để ngày càng phát
triển và hoàn thiện hơn.
* Thông tin tín dụng
Cho vay không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải DN
nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới
những kẻ mạo danh, mạo nhận là DN để cho vay trái phép, chiếm dụng vốn bất
hợp pháp, gây rủi ro và tổn thất cho NH. Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt
hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công
tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác luồng thông tin là điều kiện để xem xét,
phân tích, nhằm tìm ra cơ hội tốt nhất trong kinh doanh cũng như đề phòng những
rủi ro có thể xẩy ra trong các hoạt động của NH.
SV: Nông Thị Thanh Huệ Lớp: KC1-TCNH
25