PHẦN 1: TÁC ĐỘNG KHỦNG HOẢNG ĐẾN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VÀ
THU HÚT FDI TẠI VIỆT NAM
1.Tác động chung
Đồng tiền bị mất giá dẫn đến sự rối loạn của hệ thống tiền tệ quốc gia và khu vực.
Sự bất ổn của thị trường Tài chính tiền tệ, giao dịch trên thị trường tiền tệ và thị
trường chứng khoán bị suy giảm.
Lạm phát gia tăng, kéo theo lãi suất tín dụng tăng, ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh, làm cho sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhiều công ty bị thua
lỗ, bị phá sản, nhiều Ngân hàng và công ty tài chính bị phá sản hoặc phải đóng cửa hoạt
động.
Nền kinh tế trì trệ, thất nghiệp gia tăng
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội diễn biến phức tạp do mức sống bị giảm sút, thất
nghiệp tăng dẫn đến biểu tình, bạo động. Chính phủ bị mất niềm tin dẫn đến sự thay đổi
chính phủ mới ở tất cả các nước có khủng hoảng tài chính tiền tệ.
2.Tác động đến hệ thống tiền tệ Việt Nam
Nằm trong trung tâm cuộc khủng hoảng, Việt Nam lúc bấy giờ kinh tế kém phát
triến, thị trường chứng khoán chưa có, thị trường vốn chưa gia nhập thị trường vốn
toàn cầu.Do đó nhiều người cho rằng Việt Nam miễn dịch với khủng hoảng tài chính
tiền tệ 1997. Tuy nhiên sự thật không hoàn toàn như vậy.Thị trường tài chính nhỏ bé
của Việt Nam cũng không thoát khỏi những ảnh hưởng
Gây sức ép giảm giá đồng VND trên thị trường hối đoái.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã gây giảm giá hàng loạt và dây
chuyền đồng tiền các nước trong khu vực so với USD. Vì vậy nó đã gây hiệu ứng về
việc đẩy tỉ giá USD/VND tăng cao sức ép giảm giá VND là khó tránh khỏi .Với sự
giảm giá đồng VND trên thị trường ảnh hưởng đến cơ cấu tiền gửi của hệ thống ngân
hàng Việt Nam :Tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng rất chậm trong khi tiền gửi ngoại tệ
(chủ yếu là đồng USD) tăng nhanh. Phần lớn các doanh nghiệp tìm cách nắm giử ngoại
tệ mà không bán cho các ngân hàng để tránh bị thiệt khi VND bị mất giá.
Hoạt động giao dịch ngoại tệ trên thị trường bị ngưng trệ
Do sức ép giảm giá VND, cung cầu ngoại tệ mất cân đối lớn.Nhu cầu mua ngoại
tệ tăng và luôn cao hơn nguồn cung. Doanh số giao dịch ngoại tệ giảm đã ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động kinh tế tài chính đối ngoại.
Gia tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp.
Tỉ giá USD/VND tăng cao đã gián tiếp làm tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài của
doanh nghiệp, nhất là các khoản nợ ngắn hạn, do phải mua ngoại tệ với giá cao để trả
nợ. Khoản lỗ rất lớn rủi ro về tỉ giá hối đoái đã trở thành hiện thực đối với các doanh
nghiệp có nợ nước ngoài
3.Tác động đến hoạt động FDI tại Việt Nam
Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực khiến các nhà đầu tư nước ngoài mất
niềm tin vào hệ thống Tài chính Tiền tệ của nước bị khủng hoảng, do đó lĩnh vực đầu
tư trực tiếp ngoài cũng bị ảnh hưởng, điều này có tác động không tốt đến chiến lược
huy động vốn nước ngoài của Việt Nam.
Nguồn:Thời báo kinh tế Việt Nam
Năm
DTNN
1995 1996 1997 1998 1999
Cam kết FDI
(triệu USD)
7500 5950 4450 4000 1980
Số giải ngân
(triệu USD)
2230 1980 2000 800 600
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có dấu hiệu chựng lại. Năm 1997, tổng vốn đầu tư
đã cấp giấy phép cho các dự án là 5,5 tỷ USD, trong khi đó năm 1996 là 9,2 tỷ USD.
Sang năm 1998, 1999, các cam kết FDI và số vốn dự án được thực hiện lại tiếp tục
giảm so với năm trước Điều đáng lưu ý là khoảng 70% đầu tư nước ngoài vào VN
trong thời gian qua là từ các nước Châu Á. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Tất cả chúng tỏ cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
PHẦN 2: TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VN
1. Phân tích tác động của sự mất giá đồng tiền và suy giảm đầu tư đến
hoạt động xuất khẩu
Chính từ việc mất giá nhanh chóng của đồng tiền các nước bị ảnh hưởng đã gây
ra tác động nghiêm trong đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Đồng tiền các nước ASEAN bị mất giá, tỉ giá USD với các đồng tiền các nước
khu vực tăng cao, giá hàng xuất khẩu của họ có thể giảm linh hoạt nên khả năng cạnh
tranh xuất khẩu của họ cao hơn , đẩy hàng VN ra khỏi thị trường quốc tế hoặc là phải
giảm giá theo, từ đó làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt nam.
Đầu tư mới từ nước ngoài giảm mạnh, hoặc là tốc độ giải ngân của nhũng dự
án đang thực hiện chậm làm khó khăn cho việc sản xuất trong nước, nhất là trong giai
đoạn cần vốn để phục hồi sau suy khủng hoảng. .
Sản xuất trong nước vốn đã khó khăn, nay bị hàng ngoại tràn vào do giá rẻ, từ
đó gây ra tình trạng đình đốn trong sản xuất, khả năng thanh toán nợ trong ngân hàng
giảm sút, nguy cơ phá sản de dọa nhiều doanh nghiệp.
2.Sự giảm sút của xuất khẩu và ảnh hưởng
Trong thời khủng hoảng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, hàng xuất khẩu VN bị
cạnh tranh gay gắt cả về chất lượng và giá cả hàng hóa
Giá xuất khẩu gạo, lạc, càphê, cao su, dầu thô...đã giảm đáng kể. Theo Bộ
thương mại giá hàng xuất khẩu VN rớt mạnh: cao su giảm giá 450 - 480 USD/tấn, dầu
thô giảm 20 - 30 USD/tấn, gạo giảm 30 - 40 USD/tấn, hạt điều 60 - 70 USD/tấn (Báo
Tuổi trẻ 1.3.1998). Xuất khẩu điện tư gặp khó khăn do cạnh tranh trong khu vực, hai
công ty điện tư lớn ơ TP.HCM là JVC VN, Sony VN cho đến cuối tháng 2.1998 chưa
xuất khẩu được lô hàng nào (Thời báo kinh tế Sài Gòn 5.3.1998), trong 6 tháng cuối năm
97, VN thiệt hại 500 triệu USD do giá hàng xuất khẩu giảm (Thời báo kinh tế Sài Gòn
1.1998).
Năm 1995, tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ ở nước ta là 10%, năm 1996 tăng lên
22%, năm 1997 là 32% và năm 1998 là 35%, bằng tỷ lệ thua lỗ trươc khi sắp xếp lại các
doanh nghiệp 5 năm trước đó. Tại TP Hồ Chí Minh năm 1998 tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu của các doanh nghiệp quốc doanh thành phố là 1,79%, còn của doanh nghiệp
quốc doanh trung ương là 2,65%, như vậy hiệu quả kinh doanh là rất kém.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và tốc độ tăng GDP
Năm Xuất khẩu (%) GDP (%)
1992 23,6 8,6
1993 15,7 8,1
1994 35,8 8,8
1995 34,4 9,5
1996 33,2 9,3
1997 26,2 8,8
1998 1,9 5,8
1999 2,31 4,8
2000 19,6 6,7