Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Quản lý các Trung tâm GDTX cấp huyện và thành phố của Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.09 KB, 85 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới thì vấn đề xây dựng và phát triển một nguồn nhân lực có chất
lượng ngày càng cao nhằm đáp ứng quá trình hội nhập vẫn đang là yêu cầu bức
thiết đối với nước ta hiện nay. Học tập là phương thức chủ yếu để nâng cao dân
trí, tiếp thu và làm chủ tri thức mới, làm chủ công nghệ mới, công nghệ cao điều
đó chỉ có thể thực hiện được khi coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
yếu tố quyết định tương lai của dân tộc.
Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập là một chủ trương quan trọng,
một cuộc vận động cách mạng to lớn, của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương: “đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức
giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả
nước trở thành một xã hội học tập”. Một lần nữa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ “chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô
hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập” nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài, phục vụ sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Giáo dục thường xuyên ngày nay với các hình thức học tập đa dạng đã trở
thành công cụ để mở rộng, tạo cơ hội học tập cho mọi người và xây dựng xã hội
học tập. Vị trí của các Trung tâm GDTX được xác định rõ trong Luật Giáo dục
2005: “Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa học vừa làm, học liên tục,
học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc
làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội”. Nội dung giáo dục
thường xuyên được thể hiện trong các chương trình: Chương trình xoá mù chữ
1
và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ; Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu
của người học: cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ; Chương
trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ;


Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Việc coi giáo dục thường xuyên là một hệ thống thành phần của hệ thống
giáo dục quốc dân cũng được ghi trong Quyết định 112/2005/QĐ-TTg ngày
18/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học
tập giai đoạn 2005 - 2010”. “Xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập được
dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết, liên thông của hai bộ phận cấu
thành: Giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên của hệ thống giáo dục
quốc dân, trong đó giáo dục thường xuyên thực hiện các chương trình học tập
nhằm tạo các điều kiện tốt nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập suốt đời, học tập
liên tục của mọi người công dân sẽ là một bộ phận có chức năng quan trọng,
làm tiền đề để xây dựng xã hội học tập”.
Sau 5 năm triển khai thực hiện đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2005-2010” Năng lực đào tạo của 11 Trung tâm GDTX tỉnh Lào Cai (01 trung
tâm KTTH-HNDN&GDTX tỉnh; 10 Trung tâm GDTX huyện, thành phố) được
củng cố và ngày càng được nâng cao; mở rộng qui mô, đa dạng hoá các loại
hình đào tạo đáp ứng nhu cầu người học; có đóng góp không nhỏ trong việc
đào tạo người lao động, cán bộ cơ sở, cán bộ công chức, tạo nguồn nhân lực
cho địa phương. Theo báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án “Xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2005-2010” của Sở GD&ĐT Lào Cai, một số thành tựu
đạt được như sau: Tỷ lệ số người biết chữ trong độ tuổi 15 - 35 đạt 98%; Tỷ lệ
số người biết chữ ở độ tuổi 15 - 50 đạt 96%; 85% cán bộ cấp xã được bồi
dưỡng cập nhật kiến thức về quản lý, pháp luật, kinh tế và xã hội và các kiến
thức bổ trợ khác phù hợp theo tiêu chuẩn từng ngạch công chức nhằm nâng
cao khả năng công tác; đạt trên 45% số người lao động trong các lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp được tiếp cận và thụ hưởng các chương trình
2
bồi dưỡng giúp nâng cao hiểu biết, khả năng lao động, sản xuất và nâng cao
chất lượng cuộc sống. Đào tạo qua liên kết với các trường đại học, cao đẳng
được 4962 học viên trong đó: Trung cấp: 298 học viên; Cao đẳng: 1480 học
viên; Đại học: 3184 học viên.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì việc thực hiện các chương trình
học tập của các Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố chưa thực sự đáp ứng
được nhu cầu đào tạo của địa phương và yêu cầu của xã hội. Việc đổi mới
quản lý các Trung tâm GDTX cấp huyện và thành phố trên địa bàn tỉnh Lào
Cai là cần thiết nhằm xây dựng XHHT trong thời kỳ CNH - HĐH có hiệu quả,
chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: "Quản lý các Trung tâm GDTX cấp
huyện và thành phố của Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai đáp ứng yêu cầu xây dựng
xã hội học tập" được chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác quản lý các Trung
tâm GDTX cấp huyện, thành phố của Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai; đề xuất các
biện pháp quản lý Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố đáp ứng yêu cầu
xây dựng xã hội học tập của phòng Giáo dục chuyên nghiệp và Giáo dục
thường xuyên Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình quản lý hoạt động của các Trung
tâm GDTX cấp huyện, thành phố.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý các Trung tâm GDTX cấp
huyện, thành phố đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội học tập.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay các Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố của tỉnh Lào Cai
đang tiếp tục được củng cố, mở rộng và hoạt động tương đối có hiệu quả
nhưng vẫn còn những hạn chế do các nguyên nhân khác nhau, trong đó có
3
nguyên nhân thuộc về quản lý. Nếu có những biện pháp quản lý hợp lý, theo
hướng tiếp cận các nhiệm vụ của Trung tâm GDTX thì sẽ nâng cao hiệu quả
hoạt động của các Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố đáp ứng yêu cầu
xây dựng xã hội học tập.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý Trung tâm GDTX cấp huyện,
thành phố.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý của Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai
đối với các Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố.
5.3. Đề xuất biện pháp quản lý các Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố
đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội học tập và khảo nghiệm tính cần thiết, tính
khả thi của các biện pháp đề xuất.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý các Trung tâm GDTX cấp
huyện, thành phố đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội học tập của phòng Giáo
dục chuyên nghiệp và giáo dục thường xuyên Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai .
- Đề tài chỉ đi sâu khảo sát các hoạt động của 10 Trung tâm GDTX cấp
huyện, thành phố (do điều kiện thời gian).
Số liệu điều tra từ năm 2005 đến năm 2010.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các vấn đề lý luận có liên
quan với đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: điều tra bằng phiếu hỏi, phiếu phỏng vấn trên mẫu
lựa chọn theo nội dung nghiên cứu của đề tài.
4
Phương pháp quan sát: Quan sát thực tiễn các hoạt động chính trong
Trung tâm GDTX, cách thức điều hành, quản lý của Giám đốc các Trung tâm
GDTX.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Thông qua các hội thảo, các báo cáo
sơ kết, tổng kết…thu thập thông tin về thực trạng hoạt động của các Trung tâm
GDTX. Trao đổi, tọa đàm với lãnh đạo, giáo viên, học viên về vấn đề quản lý
đối với các hoạt động trong Trung tâm GDTX.
Phương pháp chuyên gia: Thông qua các mẫu phiếu hỏi và trao đổi trực

tiếp để xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề liên quan với đề tài.
7.3. Nhóm các phương pháp hỗ trợ khác
Phương pháp so sánh; phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu,
lượng hóa kết quả nghiên cứu của đề tài.
5
Chương 1
Cơ sở lý luận về quản lý trung tâm giáo dục thường xuyên
cấp huyện, thành phố của Sở GD&ĐT
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước
Giáo dục thường xuyên, một vấn đề mà được các nhà nghiên cứu khoa học
giáo dục trên thế giới rất quan tâm. Khi nghiên cứu về GDTX, các tác giả
thường đề cập đến xây dựng XHHT và giáo dục cho mọi người.
Một công trình nghiên cứu được cả thế giới biết đến đó là báo cáo mang
tên "Học tập - một kho báu tiềm ẩn" của Ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ
XXI, dưới sự chủ tọa của ông Jacques Delors, nguyên Chủ tịch Ủy ban châu
Âu và được UNESCO công bố tháng 4 năm 1996. Trong báo cáo này cho rằng
giáo dục thế kỷ XXI phải dựa trên bốn trụ cột "Học để biết, học để làm, học để
làm người, học để chung sống". (Mới bổ sung trụ cột thứ 5: Học để sáng tạo).
Năm trụ cột này phải đặt trên nền tảng "Học tập suốt đời" và xây dựng một
"Xã hội học tập". Xã hội học tập là một xã hội trong đó có rất nhiều cơ hội học
tập, ở trường cũng như trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa. Một xã hội
tạo mọi cơ hội để mỗi cá nhân được học và phát triển những khả năng của bản
thân.
Ngoài ra cũng phải kể đến một công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến
xu thế học tập suốt đời trong thời đại mới như:
Năm 1972, Edgar Faure trong cuốn sách nổi tiếng "Học để tồn tại" đã nêu
một khái niệm mới "Xã hội học tập". Tác giả cho rằng: Giáo dục là sự phản
ánh của xã hội và là nhân tố cải biến xã hội, bởi thế cần coi giáo dục như một
phân hệ của hệ thống xã hội. Không nên phân chia cuộc đời tách bạch thành

"Thời kỳ học tập" và " Thời kỳ kiếm sống" mà phải coi học tập là việc diễn ra
trong suốt cả cuộc đời. Chính bản thân cuộc sống là một quá trình học tập
6
thường xuyên, là môi trường thử thách để mỗi con người tự học, tự phấn đấu
nâng cao trình độ hiểu biết và hoàn thiện nhân cách. Do đó cần tập trung vào
hai khái niệm gắn bó với nhau: "Học tập suốt đời" và "Xã hội học tập".
- Năm 1972 sau cách mạng Pháp, Condorcet đưa ra nguyên tắc bình đẳng
của mọi người với giáo dục, ông gọi là nền “giáo dục suốt đời đựa trên nguyên
tắc bình đẳng” đến nửa sau của thế kỷ XX tư tưởng này mới nở rộ thành tư
tưởng chỉ đạo của phát triển của giáo dục thế giới.
- Ngay từ những năm 1990 của thế kỷ trước ở nước Anh đã có những tài
liệu viết về việc xây dựng một XHHT, các con đường dẫn tới XHHT, đưa ra
các dự án tổ chức XHHT, chiến dịch vì một xã hội học tập. Hội đồng nghiên
cứu xã hội và kinh tế nước Anh đưa ra một chương trình nghiên cứu XHHT từ
năm 1995 đến năm 1999.
- Trong tác phẩm “Dự báo thế kỷ XXI” của các nhà khoa học Trung Quốc
cũng nhấn mạnh đến đặc trưng của giáo dục tương lai và xu thế học tập suốt
đời của mỗi cá nhân. Một công trình nghiên cứu về XHHT đáng chú ý nữa là
của Richard Edwards, ông cho rằng XHHT là một xã hội đảm bảo tự do, dân
chủ và bình đẳng xã hội cho mọi người dân, mọi người dân đều tạo ra cho
mình khả năng tự học và tự học suốt đời; nhu cầu học tập, động cơ học tập là
một động lực quan trọng.
- Tháng 7/1997 tại Humburg Cộng hòa liên bang Đức, hội nghị thế giới lần
thứ V về giáo dục người lớn đã khảng định giáo dục người lớn tuy khác nhau
về tổ chức tùy theo sự phát triển KT - XH, văn hóa - giáo dục của mỗi nước,
song giáo dục người lớn đều là những bộ phận quan trọng cần thiết của quan
niệm về giáo dục và học tập suốt đời.
- Hội nghị lần thứ III khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về GDTX do
UNESCO tổ chức tại Kuala Lumpur - Malaysia năm 1996 đã thể hiện sự quan
tâm của các nước về GDTX, thừa nhận sự đóng góp to lớn của GDTX đối với

việc nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển KT - XH, đối
7
với sự phát triển cá nhân, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường; khẳng
định vai trò của GDTX là chìa khóa vàng bước vào thế kỷ 21.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI xu thế học tập suốt đời và một XHHT
đang được hiện thực hóa ở nhiều nước trên thế giới như: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Mỹ …
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất tư tưởng “Giáo dục cho mọi người” và tư
tưởng “Học tập suốt đời”. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày
03/9/1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở chiến dịch “Chống
nạn mù chữ”, vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy song song với
nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm và chống giặc đói, Người đã phát động toàn
dân tham gia "diệt giặc dốt". Cả cuộc đời cống hiến, hy sinh của Bác không chỉ
để cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc mà còn phấn đấu để "Đồng bào ta ai cũng
được học hành". Bác chỉ rõ "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt
đời phải gắn lý luận với công tác thực tiễn". Người còn chủ trương "Công nông
trí thức hóa. Trí thức công nông hóa".
GDKCQ và GDTX đã được nghiên cứu và triển khai trong thực tiễn dưới
nhiều góc độ, nhưng chung quy lại là giáo dục dành cho người lớn. Ngay từ
những năm 70-80 của thế kỷ trước, có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục
theo phương thức tại chức, GDCQ và GDKCQ. Có thể kể ra một số công trình
như: Nguyễn Quang Kính (1992), “Một số định hướng về phát triển hệ thống
giáo dục, đào tạo không chính quy”, Tạp chí GD&ĐT thường xuyên, 1992 (3).
Tô Bá Trượng (1997), “Giáo dục thường xuyên, Xu hướng phát triển ở Việt
Nam”, Thông tin Khoa học Giáo dục, 1997 (63). Vũ Đình Ruyệt (2000), Thực
trạng GDTX/GDKCQ ở Việt Nam và một số vấn đề cần giải quyết, Tài liệu
dùng trong hội nghị Giám đốc Trung tâm GDTX-TP. Hồ Chí Minh tháng
1/2000. Đặc biệt là công trình nghiên cứu tổng kết về lĩnh vực GDTX của Viện

8
nghiên cứu phát triển giáo dục – Vụ giáo dục thường xuyên “Những vấn đề về
chiến lược phát triển giáo dục thường xuyên trong thời kỳ CNH-HĐH”. Công
trình này đã đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản của GDTX, như: Chương trình
xóa mù, chương trình tương đương, nâng cao chất lượng cuộc sống, đáp ứng
sở thích cá nhân, tạo thu nhập, hướng tới tương lai…trong đó nhấn mạnh vai
trò và hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng. Các công trình nghiên cứu
trên đã gợi ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn tạo cơ sở cho những nghiên
cứu sau này về GDTX.
Trong thực tiễn GDKCQ và GDTX đã được triển khai từ những năm 1945
và phát triển khá mạnh mẽ, theo giai đoạn sau:
Giai đoạn 1945 - 1959 phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa bước
đầu hình thành một xã hội học tập với sự hưởng ứng sôi nổi của quảng đại
nhân dân, làm cho số người biết chữ tăng lên đáng kể. Chỉ sau ba tháng ngày
đất nước độc lập, cả nước ta đã trở thành một trường học lớn.
Giai đoạn 1959 - 1989, hệ thống giáo dục Bình dân học vụ chuyển trọng
tâm sang nâng cao trình độ học vấn cho người lớn - người lao động và được
gọi là hệ thống Bổ túc văn hoá, song hành với hệ thống giáo dục phổ thông.
Với phương châm “cần gì học nấy”, hệ thống Bổ túc văn hóa rất đa dạng về
hình thức tổ chức cũng như về chương trình học tập. Hình thức học tập tại
chức có loại trường/ lớp dành cho đối tượng công tác tại cơ quan, xí nghiệp, có
loại trường/ lớp dành cho đối tượng là nông dân. Hình thức học tập tập trung
có trường phổ thông lao động (dành cho cán bộ quản lý), trường bổ túc văn
hóa công nông dành cho những người lao động trẻ tuổi để đưa vào đại học
nhằm đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công nông. Mỗi loại hình
trường/ lớp lại có chương trình và sách giáo khoa (hoặc tài liệu học tập riêng)
nhằm “phù hợp với đối tượng và mục tiêu đào tạo”.
Giai đoạn 1989 - 1993 thời kỳ giáo dục bổ túc, mục tiêu chủ yếu là đáp
ứng nhu cầu nhiều mặt và thường xuyên của nhân dân, đặc biệt đối với những
9

đối tượng không được hưởng hoặc được hưởng không đầy đủ sự giáo dục
trong nhà trường chính quy, giúp họ có thêm điều kiện để thành đạt trong nghề
nghiệp và trong hoạt động xã hội.
Từ năm 1993 đến nay, sự ra đời của các Trung tâm GDTX cấp tỉnh, cấp
huyện đã hòa nhập giáo dục bổ túc với đào tạo bồi dưỡng tại chức thành hệ
thống giáo dục và đào tạo thường xuyên, cung cấp cơ hội học tập cho mọi
người.
Ngày 4/11/1993 Chính phủ đã có Nghị định số 90/CP về cơ cấu khung của
hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, GDTX là một trong năm phân hệ ngành
học của hệ thống giáo dục quốc dân. Về cơ sở pháp lý, vấn đề học tập suốt đời
và XHHT, vấn đề GDKCQ và GDTX đã được thể chế hóa trong Luật Giáo dục
và trong nhiều văn bản pháp quy khác.
Cho đến nay ở nước ta có nhiều các tác giả như: Phạm Minh Hạc, Đặng
Quốc Bảo, Phạm Tất Dong, Vũ Ngọc Hải, Trần Kiểm, Ngô Quang Sơn, Tô Bá
Trượng… đã có các công trình nghiên cứu về GDTX. Một số luận văn Thạc sỹ
QLGD đã nghiên cứu về quản lý Trung tâm GDTX như: đề tài của tác giả
Nguyễn Văn Tiến về “Biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học của
phòng quản lý đào tạo Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Bắc Ninh”; đề
tài của tác giả Dương Hiền Mỹ về “Một số biện pháp quản lý của người giám
đốc nhằm sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, giáo viên tại trung tâm giáo
dục thường xuyên cấp huyện tỉnh Bắc Ninh”; đề tài của tác giả Trần Đình
Quân về “Biện pháp quản lý nhằm phát triển Trung tâm GDTX cấp huyện trên
địa bàn Hà Tĩnh”; đề tài của của tác giả Nguyễn Thị Bích Nga về “Một số
biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học ở các Trung tâm GDTX cấp
huyện của tỉnh Hà Tây”; đề tài của tác giả Lê Quốc Toản về “Các biện pháp
quản lý công tác liên kết đào tạo của trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh
Yên Bái”… Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào tập trung vào các biện pháp
quản lý Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố đáp ứng yêu cầu XHHT.
10
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài nghiên cứu : "Quản lý các Trung tâm GDTX

cấp huyện, thành phố của Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai đáp ứng yêu cầu xây dựng
xã hội học tập".
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong
và ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Cho đến nay,
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế kỷ 21,
các quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Các trường phái quản lý học đã
đưa ra những định nghĩa về quản lý như sau:
- Theo F.W Taylor: "Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất" [12].
- Còn Harold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết thực bảo đảm sự
hoạt động nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức” [23].
- Theo tác giả Trần Kiểm : “Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội
lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [25].
- Tác giả Nguyễn Ngọc Quang – nhà sư phạm, người góp phần đổi mới lý
luận dạy học đã nêu: Quản lý những tác động có định hướng, có kế hoạch của
chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức,
nhằm đạt mục đích nhất định [30].
- Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý về các mặt văn hóa, chính trị, kinh tế,
xã hội bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương
pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển
của đối tượng” [10].
11
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song có thể khái quát nội dung
cơ bản của quản lý được đề cập trong các quan niệm trên là: 1/ Quản lý là

thuộc tính bất biến, nội tại của mọi quá trình hoạt động xã hội. Lao động quản
lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và
phát triển; 2/ Quản lý được thực hiện với một tổ chức hay một nhóm xã hội; 3/
Quản lý là những tác động có đích hướng, là những tác động phối hợp nỗ lực
của các cá nhân thực hiện mục tiêu của tổ chức; 4/ Yếu tố con người, trong đó
chủ yếu bao gồm người quản lý và người bị quản lý giữ vai trò trung tâm trong
chu trình, trong hoạt động quản lý.
Quản lý là đa dạng, là phức tạp nhưng có thể khái quát những lĩnh vực
quản ý cơ bản sau: Quản lý giới vô sinh; quản lý giới sinh vật; quản lý xã hội.
Các lĩnh vực quản lý đã nêu được xác định theo đối tượng quản lý. Đối
tượng quản lý rất đa dạng, nhưng con người luôn được xác định là đối tượng
cơ bản, chính yếu của quản lý. Con người là đối tượng cơ bản của quản lý vì
con người quan hệ với tất cả các đối tượng quản lý khác, hơn nữa quản lý các
đối tượng đó xét cho cùng là vì con người và do con người. Quản lý là do con
người và vì con người.
Khẳng định con người là đối tượng cơ bản của quản lý phải đồng thời nhấn
mạnh rằng, con người sống và hoạt động trong những nhóm, những tổ chức
nhất định (gọi chung là tổ chức). Như vậy, dạng quản lý cơ bản là quản lý xã
hội, trong quản lý xã hội, quản lý con người và hành vi của con người là chính
yếu. Một cách khái quát quản lý nói chung là quản lý các tổ chức của con
người và hành vi, hoạt động của con người trong các tổ chức đó.
Với cách hiểu quản lý là quản lý tổ chức của con người, hoạt động của con
người, có thể định nghĩa khái niệm quản lý như sau: Quản lý là quá trình tiến
hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực,
các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động đến đối tượng quản
12
lý nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự ổn định và phát triển của tổ
chức trong một môi trường luôn biến động.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng của xã hội, một hoạt động của xã hội, vì thế nố

cần và phải được quản lý. Cũng giống như khái niệm quản lý, thì khái niệm
quản lý giáo dục cũng rất đa dạng tùy theo phương diện nghiên cứu và cách
tiếp cận của các nhà nghiên cứu, dưới đây là một số quan niệm về quản lý giáo dục:
- Theo tác giả Kondacop – nhà lý luận và hoạt động thực tiễn xuất sắc của
Liên Xô cũ cho rằng: “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo
đảm sự liên tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng và chất lượng” [24].
- Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động
tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của
chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cao nhất đến các cơ sở
giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu
phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục” [25].
- Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
giáo dục thế hệ trẻ theu yêu cầu phát triển xã hội” [10].
Dù có khác nhau về từ ngữ trong các quan niệm, nhưng bản chất của quản
lý giáo dục là quá trình vận hành các hoạt động giáo dục nhằm đưa hệ thống
đạt đến những trạng thái phát triển mới về chất đáp ứng các yêu cầu mà xã hội
đặt ra cho ngành giáo dục. Có thể hiểu Quản lý giáo dục là một dạng của quản
lý xã hội trong đó diễn ra quá trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa
chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý
theo kế hoạch chủ động đến đối tượng quản lý được thực hiện trong lĩnh vực
giáo dục nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự ổn định và phát triển
của giáo dục trong việc đáp ứng các yêu cầu mà xã hội đặt ra cho giáo dục.
13
1.2.3. Giáo dục thường xuyên
Trong hội thảo “Chương trình giáo dục cho mọi người” ở Châu Á – Thái
Bình Dương tại thủ đô Australia tháng 11 năm 1987, UNESCO đã định nghĩa:
“GDTX là một khái niệm rộng lớn, bao gồm tất cả các cơ hội học tập cho mọi
có mong muốn và nhu cầu sau xóa mù chữ cơ bản hoặc giáo dục tiểu học”

[45]. Quan niệm này cho thấy có hai khía cạnh. Thứ nhất: GDTX không bao
gồm XMC, mà chỉ dành cho người lớn hoặc thanh niên biết chữ, Thứ hai:
GDTX bao gồm cả GDCQ và GDKCQ cho tất cả những ai có nhu cầu sau khi
biết đọc, biết viết hoặc tương đương tiểu học. Với quan niệm này GDCQ và
GDTX đều có tầm quan trọng như nhau đối với sự phát triển tài nguyên con
người; GDCQ lẫn GDTX luôn bổ sung cho nhau và đều có đối tượng riêng của
mình; GDTX là một phần tiếp tục của GDCQ, vì vậy cả hai loại chương trình
này cần được tiến hành song song với nhau; Giáo dục chính quy và giáo dục
thường xuyên cần được tổ chức một cách hệ thống; mặc dù cả giáo dục chính
quy và giáo dục thường xuyên đều được cấu trúc theo chương chình chuẩn,
nhưng chương trình của giáo dục thường xuyên mang tính mềm dẻo hơn tuy
nhiên giáo dục thường xuyên cần đến sự tham gia của cộng đồng nhiều hơn so
với giáo dục chính quy.
Ở Việt Nam quan niệm về GDTX ngày càng mở rộng, từ chỗ chỉ quan tâm
đến XMC, BTVH, nay đã quan tâm đến nhiều loại hình học tập khác nhau.
Theo quan điểm của tác giả Trịnh Minh Tứ: GDTX là hệ thống giáo dục linh
hoạt, mềm dẻo, với nội dung thiết thực, hình thức đa dạng, thủ tục đơn giản
giúp cho hễ có nhu cầu, có điều kiện và khả năng đều có thể lựa chọn cho mình
một nội dung học tập với hình thức phù hợp.
Đến nay khái niệm GDTX được hiểu theo các nghĩa:
- GDTX là sự cung ứng cơ hội học tập cho mọi người để học tập suốt đời
nhằm thúc đẩy sự phát triển con người thông qua các chương trình XMC;
chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống; chương trình tạo thu nhập;
14
chương trình đáp ứng sở thích các nhân… Với quan niệm này thì GDTX đồng
nghĩa với giáo dục tiếp tục có chức năng thay thế, tiếp nối, bổ sung và hoàn
thiện kiến thức cho GDCQ.
- GDTX khuyến khích học tập suốt đời cho mọi người, ở mọi nơi trong xã
hội thông qua GDCQ, GDKCQ. Như vậy trong hệ thống giáo dục quốc dân
phải đảm bảo tính liên thông giữa các bậc học, cấp học và giữa các loại hình

giáo dục, để từ đó một số người có thể tiếp tục học chính quy, nhiều người
khác có thể tìm kiếm cơ hội học tập từ những chương trình tương đương của
GDKCQ rồi trở lại GDCQ.
Theo điều 40 của Luật giáo dục 2005: GDTX là phương thức giáo dục giúp
mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân
cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để
cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống xã hội [28].
1.2.4. Trung tâm GDTX
Điều 44, mục 5 của luật giáo dục 2005 ghi rõ: ‘‘Trung tâm giáo dục thường
xuyên là cơ sở giáo dục không chính quy trong hệ thống giáo dục quốc dân với
mục tiêu giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn
thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn
nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và
thích nghi với đời sống xã hội hiện nay”.
1.2.5. Xã hội học tập
Xã hội học tập là một phạm trù mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử giáo
dục nước ta. Trên thế giới, phạm trù xã hội học tập xuất hiện vào những năm
60 của thế kỷ 20 và vào những năm 70 khi UNESCO nêu tư tưởng “học suốt
đời”, trong đó nhấn mạnh 4 mục đích của giáo dục: Học để biết, để làm; học để
chung sống; học để làm người”. Theo báo cáo của UNESCO: XHHT bao hàm
ý niệm giáo dục là một chức năng của các bộ phận trong xã hội chứ không
riêng gì của các cơ quan giáo dục. Về bản chất, XHHT là một xã hội mà trong
15
đó mọi người đều học tập, học thường xuyên, học suốt đời và mọi lực lượng xã
hội đều có trách nhiệm tạo cơ hội học tập cho mọi người dân; là một xã hội
trong đó các tổ chức trong xã hội đều là người cung cấp giáo dục, toàn thể
công dân đều phải học tập và triệt để tận dụng cơ hội do xã hội học tập cung
cấp.
Tuy chưa xác định cụ thể mô hình XHHT, nhưng một số nước trên thế giới
đã hướng cải cách giáo dục theo tư tưởng xây dựng XHHT. Người Nhật Bản

quan niệm: Nền giáo dục của họ là học và sáng tạo suốt đời.
Muốn xây dựng XHHT thì phải nhận thức được XHHT là gì; các thiết chế
giáo dục cho một XHHT cùng các cơ chế chính sách đủ mạnh; cơ cấu lại hệ
thống giáo dục quốc dân và cải cách nền giáo dục nước nhà theo hướng
XHHT; xây dựng mô hình XHHT thích ứng với từng giai đoạn phát triển của
đất nước, nhất là mô hình XHHT ở cơ sở và từ cơ sở, xác định rõ cái đích của
việc xây dựng xã hội học tập ….
Còn ở nước ta khái niệm "Xã hội học tập" được quan tâm và bàn luận khá
nhiều. Các nhà khoa học, nhiều người nguyên là cán bộ quản lý giáo dục, một
số nhà giáo lão thành có uy tín đã đi sâu nghiên cứu, phát biểu quan điểm trên
sách báo, qua các hội thảo khoa học.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc (nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo),
"xã hội học tập là một xã hội mọi người đều lấy học tập là một công việc
thường xuyên, suốt đời, học trong nhà trường và học ngoài nhà trường, chính
quy và phi chính quy, như là một phần không thể thiếu được của đời mình, lấy
học tập là phương pháp tiếp cận (cách nhìn, cách xử lý) của cuộc sống, nhằm
phát triển con người bền vững - động lực cho toàn bộ sự tiến bộ xã hội" [20].
Tác giả Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khuyến học
Việt Nam, quan niệm rằng "trong xã hội học tập, mỗi con người phải được
giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời, lấy sự học làm lẽ
sống của mình. Mỗi người đều có nhiều cơ hội học, do đó hệ thống giáo dục
16
không chỉ bó hẹp ở trong các loại hình trường mà còn trong các hình thức học
ngoài nhà trường. Đó là hệ thống giáo dục mềm dẻo, tạo ra sự đa dạng của các
ngành học, của các hình thức học và những kênh liên thông giữa các loại hình
giáo dục khác nhau" [13].
Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về XHHT, song có thể hiểu:
XHHT là một xã hội trong đó mọi người đều tự giác học tập thường xuyên,
học tập và sáng tạo suốt đời với các cơ chế, chính sách hỗ trợ tốt nhất của Nhà
nước cùng với trách nhiệm của các tổ chức chính trị, kinh tế - xã hội.

1.2.6. Biện pháp, biện pháp quản lý và biện pháp quản lý TTGDTX
1.2.6.1. Biện pháp
Theo từ điển tiếng Việt “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn
đề cụ thể”.
Trong phạm vi và mức độ nghiên cứu của đề tài, có thể hiểu: Để đạt được
mục đích hoặc cho ra một kết quả nào đó chúng ta cần phải có một hệ thống cụ
thể các cách tổ chức thực hiện trong hoạt động thực tiễn hay nói cách khác là
phải có biện pháp.
1.2.6.2. Biện pháp quản lý
- Biện pháp quản lý là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ thể
của công tác quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
- Biện pháp quản lý cũng thể hiện rõ tính năng động sáng tạo của chủ thể
quản lý trong mỗi tình huống, mỗi đối tượng nhất định .Vì vậy người quản lý
phải biết sử dụng biện pháp quản lý thích hợp, tính hiệu quả của quản lý phụ
thuộc một phần quan trọng vào sự lựa chọn đúng đắn và áp dụng linh hoạt các
biện pháp quản lý.
- Biện pháp quản lý chính là cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp
quản lý, vì đối tượng quản lý phức tạp đòi hỏi các biện pháp quản lý cũng rất
đa dạng, linh hoạt. Thông thường người ta căn cứ vào các nội dung quản lý để
đề ra biện pháp quản lý. Các biện pháp sẽ giúp các nhà quản lý thực hiện tốt
17
các phương pháp quản lý của mình nhằm mang lại hiệu quả hoạt động tối ưu
của bộ máy.
1.2.6.3. Biện pháp quản lý TTGDTX
Biện pháp quản lý TTGDTX là các cách thức cụ thể thực hiện quản lý các
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Trung tâm GDTX nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục.
1.3. Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố với việc xây dựng xã hội
học tập trong các cộng đồng dân cư
1.3.1. Hệ thống Trung tâm giáo dục thường xuyên

Trung tâm GDTX là cơ sở giáo dục trong hệ thống Giáo dục Quốc dân, là
nơi mà mọi người có thể vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm
hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên
môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống…Cơ sở GDTX bao gồm:
a) Trung tâm GDTX thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi là
Trung tâm GDTX cấp tỉnh).
b) Trung tâm GDTX thuộc quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi là
Trung tâm GDTX cấp huyện).
c) Trung tâm học tập cộng đồng thuộc xã, phường, thị trấn (gọi chung là
Trung tâm học tập cộng đồng cấp xã).
d) Trung tâm ngoại ngữ - tin học.
1.3.2. Vị trí, nhiệm vụ, hoạt động của Trung tâm GDTX
* Vị trí của Trung tâm GDTX
Trung tâm GDTX là cơ sở giáo dục thường xuyên của hệ thống giáo dục
quốc dân. Trung tâm GDTX có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
* Nhiệm vụ của Trung tâm GDTX
1- Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục:
a) Chương trình XMC và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
18
b) Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học; cập nhật kiến
thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ;
c) Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ bao gồm: Chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học ứng dụng, công nghệ
thông tin truyền thông; chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ;
chương trình dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức công tác tại
vùng dân tộc, miền núi theo kế hoạch hàng năm của địa phương;
d) Chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học cơ sở và trung học
phổ thông.
2- Điều tra nhu cầu học tập trên địa bàn, xác định nội dung học tập, đề xuất
với sở giáo dục và đào tạo, chính quyền địa phương việc tổ chức các chương

trình và hình thức học tập phù hợp với từng loại đối tượng.
3- Tổ chức các lớp học theo chương trình GDTX cấp trung học cơ sở và
trung học phổ thông quy định tại điểm d khoản 1 của Điều này dành riêng cho
các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người tàn tật, khuyết tật, theo kế
hoạch hàng năm của địa phương.
4- Tổ chức dạy và thực hành kỹ thuật nghề nghiệp, các hoạt động lao động
sản xuất và các hoạt động khác phục vụ học tập.
5- Nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục góp phần phát triển hệ thống giáo dục thường
xuyên.
* Hoạt động giáo dục của Trung tâm GDTX
Quyết định số 01/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 02/01/2007 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm
GDTX, quy định:
1- Về chương trình giáo dục
a) Chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
19
b) Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học; cập nhật kiến
thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ;
c) Chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên môn,
nghiệp vụ;
d) Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
2- Về hình thức học tập: Học tập trung, vừa làm vừa học, học từ xa, tự học
có hướng dẫn
3- Về sách giáo khoa và tài liệu học tập: Trung tâm giáo dục thường xuyên
sử dụng sách giáo khoa và tài liệu học tập theo quy định về chương trình, giáo
trình, sách giáo khoa, tài liệu giáo dục thường xuyên của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, các tài liệu học tập riêng cho địa phương do sở giáo dục và đào tạo hoặc
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định.
4- Về kiểm tra, đánh giá, xếp loại kết quả học tập

a) Trung tâm giáo dục thường xuyên có trách nhiệm tổ chức kiểm tra, đánh
giá, xếp loại kết quả học tập và hạnh kiểm đối với học viên theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho từng cấp học và từng loại hình đào
tạo;
b) Học viên học tại trung tâm giáo dục thường xuyên theo các chương trình
học khác nhau, khi học hết chương trình được kiểm tra, đánh giá, xếp loại theo
quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo được tham dự kỳ thi tốt nghiệp cấp
tương đương và đủ điều kiện tốt nghiệp được cấp bằng tốt nghiệp tương ứng
với cấp học đó.
1.3.3. Vai trò, tác dụng của Trung tâm GDTX trong việc xây dựng xã hội
học tập
Khái niệm giáo dục suốt đời được Đảng đề ra trong văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ IX là: “Tạo điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập
thường xuyên, suốt đời” nghĩa là phải xây dựng một xã hội học tập để thực
hiện giáo dục suốt đời. Đây là phương hướng chung của giáo dục trong tương
20
lai, với ý nghĩa là đưa giáo dục vào cả đời người, biến việc học thành quá trình
không ngừng tự nâng cao năng lực, trí tuệ và khả năng thực hành, đáp ứng tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong xã hội tương lai, khoa học liên tục phát triển và xã hội liên tục bồi
dưỡng năng lực thích ứng với những biến đổi đó. Con người cần có ý thức về
tương lai, cần có năng lực suy nghĩ và lý giải tương lai. Để có được những
năng lực ấy, phụ thuộc vào tính liên tục và tính kịp thời của giáo dục, phụ
thuộc vào đặc trưng cơ bản của việc thúc đẩy và cấu thành tương lai của giáo
dục: tính chất giáo dục liên tục, giáo dục trong suốt cả cuộc đời, trở thành một
xã hội học tập.
Xã hội truyền thống chia đời người thành ba giai đoạn: đến trường, làm
việc, nghỉ hưu. Với điều kiện kinh tế - xã hội truyền thống thì số kiến thức và
năng lực học được ở trường lúc còn trẻ về cơ bản có thể dùng cho suốt đời.
Song, do đà phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của khoa học - công nghệ

hiện nay, chế độ giáo dục truyền thống như vậy đã trở nên bất cập ngày càng đi
vào lão hóa kiến thức.
Chính bởi lẽ đó, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh việc tăng
cường giáo dục tại chức, tại chỗ làm việc, thực hiện giáo dục suốt đời thông
qua tự học tập là cơ bản nhất. Có vậy mới trang bị kiến thức mang tính liên
tục, tiếp nối, tránh sự đứt chuỗi về tri thức, sự bất cập và lạc hậu.
Xã hội hiện đại cần có những con người có trình độ giáo dục hiện đại, có
đạo đức, biết kinh doanh, có thể độc lập quyết đoán trước mọi tình huống đã
lựa chọn, biết dự báo hậu quả có thể; có khả năng hợp tác; có tính năng động
và cơ động; năng lực kiến thiết, có ý thức trách nhiệm trước sự phát triển của
đất nước. Muốn đạt được các mục tiêu phát triển của xã hội, hoàn thành tốt
nhiệm vụ ở cơ quan, cũng như đáp ứng sự phát triển mọi lĩnh vực của đời sống
gia đình, đòi hỏi trách nhiệm của những người tham gia đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức cho người học phải thực sự trở thành nhân tố văn hóa quan trọng
21
nhất của mối quan hệ kinh tế - xã hội, trở thành một môi trường học tập rộng
lớn, học tập suốt đời học tập từ xa, học tập thường xuyên nhờ các kỹ thuật
truyền thông mới như Internet, kỹ thuật đa phương tiện, hình thành lối sống
mới trong nền kinh tế tri thức để phù hợp với sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Trung tâm GDTX có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng xã hội học
tập, bởi vì ở đó nội dung, chương trình học tập được đa dạng hoá; là nơi tạo cơ
hội học tập thường xuyên cho người lớn nhất là nông dân ở nông thôn và
người lao động ở thành thị.
Trung tâm GDTX cũng có nhiệm vụ biên soạn các loại tài liệu học tập cho
trung tâm HTCĐ về các lĩnh vực: nông - lâm - ngư nghiệp, pháp luật, kinh tế,
văn hoá - xã hội, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng
tiết kiệm và hiệu quả, an toàn giao thông, phòng chống ma tuý, HIV/AIDS,
giáo dục kỹ năng sống, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, tạo điều kiện cho người dân cần gì học nấy, đáp ứng nhu cầu học
tập ngày càng đa dạng của mọi người dân.

1.4. Quản lý trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, thành phố
của Sở GD&ĐT tỉnh/thành phố với việc xây dựng xã hội học tập
1.4.1. Phòng chuyên môn của Sở GD&ĐT phụ trách GDTX
Thông tư 35/2008/TTLB-BGDĐT-BNV, ngày 14/7/2008 quy định Phòng
chuyên môn, nghiệp vụ được thành lập theo nguyên tắc bảo đảm bao quát đầy
đủ cac lĩnh vực, cấp học, ngành học thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở,
có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo, phù hợp với đặc điểm
quản lý…nâng cao hiệu quả và phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính nhà
nước. Đối với Sở GD&ĐT Lào Cai, thành lập Phòng GDCN&GDTX phụ
trách GDTX với một số chức năng, nhiệm vụ chính:
- Chức năng: Giúp Giám đốc thực hiện chức năng quản lý nhà nước các
hoạt động của GDTX, bao gồm: Xóa mù chữ, sau xóa mù chữ, giáo dục bổ túc
văn hóa; bồ dưỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức, kỹ năng; các hình
22
thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn đặt tại Trung tâm
GDTX, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối tượng.
- Nhiệm vụ: Phối hợp với phòng kế hoạch tài chính, phòng tổ chức cán bộ
và các phòng chuyên môn khác xây dựng và chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch phát
triển GDTX; đề xuất các chủ trương, biện pháp, xây dựng chỉ đạo và kiểm tra
việc thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch nhằm phát triển và nâng cao chất lượng
XMC, bổ túc văn hóa, GDTX đối với các lĩnh vực, các ngành đáp ứng nhu cầu
học tập của mọi người; chỉ đạo và hướng dẫn đánh giá việc thực hiện kế hoạch
phổ cập giáo dục theo các văn bản của Bộ GD&ĐT; tổ chức bồi dưỡng giáo
viên, đánh giá về chất lượng GDTX; phối hợp với thanh tra Sở thực hiện công
tác thanh tra, kiểm tra về các nội dung liên quan…
1.4.2. Mục tiêu và nội dung quản lý Trung tâm GDTX
1.4.2.1. Mục tiêu quản lý Trung tâm GDTX
Mục tiêu quản lý các Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố của Sở
GD&ĐT là tạo dựng môi trường và những điều kiện thuận lợi để các Trung
tâm GDTX thực hiện tốt các nội dung quản lý, thực hiện tốt mục tiêu, kế hoạch

hoạt động của trung tâm nhằm khẳng định vị thế các Trung tâm GDTX cấp
huyện, thành phố trong việc đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội học tập.
1.4.2.2. Nội dung quản lý Trung tâm GDTX
Quản lý hoạt động giáo dục của Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố
của Sở GD&ĐT tuân thủ quản lý theo ngành dọc GDTX từ Bộ Giáo dục và
Đào tạo đến Sở Giáo dục và Đào tạo và cuối cùng là sự quản lý của các Trung
tâm GDTX, bao gồm một số nội dung quản lý chủ yếu sau:
* Quản lý mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục
Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học
suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học
vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm,
tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
23
Nội dung giáo dục thường xuyên được thể hiện trong các chương trình sau đây:
- Chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
- Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học; cập nhật kiến
thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ;
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên môn,
nghiệp vụ;
- Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của của hệ thống giáo dục quốc dân.
Ngoài các chương trình do Bộ GD&ĐT ban hành kể trên, còn có các
chương trình do các cơ quan đoàn thể, các sở, ban, ngành khác biên soạn cung
cấp, nhằm đáp ứng nhu cầu đích thực của người học.
* Quản lý các hình thức tổ chức học tập
Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố là cơ sở giáo dục linh hoạt, mềm
dẻo, đa dạng về đối tượng, phong phú về nội dung chương trình, giúp cho mọi
người nếu có nhu cầu, có điều kiện và khả năng đều có thể chọn cho mình một
nội dung và hình thức học tập phù hợp.
Việc tổ chức, quản lý các lớp học tập tại Trung tâm GDTX luôn đảm bảo
tính đa dạng, linh hoạt và mềm dẻo, phù hợp với đối tượng người học, với điều

kiện kinh tế xã hội của địa phương. Hình thức tổ chức các hoạt động học tập
rất đa dạng: học tập trung, vừa làm vừa học, học từ xa, tự học có hướng dẫn…
Quy mô học tập có thể tổ chức theo lớp vừa và nhỏ, thành các nhóm tự
nguyện, các nhóm có cùng nhu cầu, theo nhóm tuổi, theo địa bàn dân cư nhằm
giúp cho người học có điều kiện tốt nhất để trau dồi kiến thức. Chính từ hình
thức học tập này mà cần định ra nội dung và thời gian học tập hợp lý, đồng
thời tổ chức linh hoạt theo thời vụ, theo điều kiện.
Do đặc thù đây là hệ thống giáo dục linh hoạt, mềm dẻo với nội dung học
tập thiết thức, hình thức học tập đa dạng, nên việc quản lý các hình thức tổ
chức học tập cũng phải linh hoạt theo hình thức đa dạng trên tuy nhiên cần
tuân thủ các nguyên tắc quản lý nhà nước về giáo dục.
24
* Quản lý học viên
Trung tâm GDTX cấp huyện, thành phố là nơi tạo cơ hội học tập thứ hai
cho trẻ em thất học, những ai chưa bao giờ đi học, những người bỏ học giữa
chừng vì lý do nào đó…; tổ chức các chương trình bổ trợ kiến thức cho những
người trong quá trình công tác, lao động, giao lưu xã hội cảm thấy phải cập
nhật những hiểu biết, những phương pháp làm việc…cần thiết mà cuộc sống
đòi hỏi.
Một bộ phận học viên là người đã trưởng thành, độ tuổi trung niên họ là
những người đã được tuyển dụng và bố trí vào chức danh cụ thể của những tổ
chức khác nhau, họ là những công chức, viên chức đã có công việc và cuộc
sống tương đối ổn định.
Như vậy đối tượng học tập ở các Trung tâm GDTX rất đa dạng phong phú,
có sự phân hóa về tuổi tác, đặc điểm sức khỏe. Đây là một trong những đặc thù
quan trọng cần được quan tâm trong quá trình triển khai tổ chức dạy học và tổ
chức các hoạt động giáo dục.
* Quản lý đội ngũ CBQL và giáo viên
Để tổ chức có hiệu quả, chất lượng các hoạt động trong trung tâm, đòi hỏi
phải có một đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững

vàng, có kinh nghiệm trong giảng dạy và tổ chức các hoạt động học tập, đội
ngũ cán bộ quản lý, có kinh nghiệm trong quản lý, điều hành, tổ chức các hoạt
động.
Do vậy cần chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBQL, giáo viên
luôn thích ứng với các hoạt động phong phú của Trung tâm GDTX, đồng thời
cần có những chính sách khuyến khích những giáo viên giỏi, cán bộ quản lý
giỏi, sáng tạo để họ gắn bó lâu dài với trung tâm.
* Quản lý các điều kiện khác
Ngoài việc quản lý tốt các yếu tố kể trên, để nâng cao chất lượng các hoạt
động của Trung tâm GDTX cần quản lý nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất và
25

×