Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Quản lý liên kết đào tạo nghề giữa Trường Trung cấp Xây dựng với Cơ sở sản xuất ở Thành Phố Uông Bí, Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 99 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Trong tiến trình đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay để thực hiện
thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và thành phố Uông Bí
nói riêng, một trong những vấn đề then chốt đặt ra là đào tạo nguồn nhân lực
kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất. Chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực luôn quan tâm đặc biệt để đổi
mới mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, đào tạo nghề ở Trường Trung
cấp xây dựng Thành phố Uông Bí đã nỗ lực từng bước nâng cao chất lượng,
chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, phát triển quy mô đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực kỹ thuật ngành xây dựng, vùng Đông Bắc nói riêng và cả nước nói
chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới hiện nay, đào tạo nghề bộc lộ những
hạn chế nhất định: Cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, chất lượng đào tạo chưa
đáp ứng yêu cầu của sản xuất trong bối cảnh hội nhập, tình trạng bất cập giữa
đào tạo và sử dụng gây thất nghiệp gia tăng, gây lãng phí cho xã hội. Nghị
quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã chỉ rõ: “con người”-
Yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” “
Liên kết đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục”[6].
Để đào tạo được đội ngũ lao động có chất lượng phù hợp với yêu cầu
của sản xuất trong điều kiện khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng hiện nay
thì việc liên kết đào tạo nghề giữa Nhà trường với các cơ sở sản xuất đang
được nhiều nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài nước quan tâm.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về vấn đề:
“Quản lý liên kết đào tạo nghề giữa Trường Trung cấp xây dựng với Cơ sở
sản xuất ở Thành Phố Uông Bí, Quảng Ninh”. Chính vì những lý do nêu trên,
tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quản lý liên kết đào tạo nghề giữa
1
Trường Trung cấp Xây dựng với Cơ sở sản xuất ở Thành Phố Uông Bí,
Quảng Ninh” làm đề tài nghiên cứu.


2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất giải pháp quản lý liên kết giữa Trường Trung cấp xây dựng
với Cơ sở sản xuất để nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở Trường Trung
cấp xây dựng đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Liên kết đào tạo CNKT giữa Trường Trung cấp xây dựng với Cơ sở sản
xuất ở Thành phố Uông Bí.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp quản lý liên kết đào tạo giữa Trường Trung cấp xây dựng
với Cơ sở sản xuất ở Thành phố Uông Bí, Quảng Ninh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp quản lý liên kết
đào tạo công nhân kỹ thuật giữa Trường Trung cấp xây dựng với Cơ sở sản
xuất ở Thành phố Uông Bí. Công tác điều tra, khảo sát được tiến hành ở
Trường Trung cấp Xây dựng và một số doanh nghiệp sản xuất ở Thành phố
Uông Bí, Quảng Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.

Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các văn
bản, tài liệu thể hiện quan điểm, đường lối chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước, quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các công trình khoa học về quản lý mối liên kết đào tạo nghề giữa
CSDN với CSSX trong và ngoài nước để hình thành cơ sở lý luận của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu và sản phẩm hoạt động: Thông qua
2
các tài liệu lưu trữ, báo cáo tổng kết công tác đào tạo nghề các năm của Nhà

trường, báo cáo công tác đào tạo của Sở LĐTB&XH Quảng Ninh đi sâu tìm
hiểu quá trình tổ chức hợp tác giữa trường dạy nghề và DN nhằm tổng kết
kinh nghiệm để rút ra các nhận định khoa học.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp khảo sát điều tra bằng phiếu hỏi: 01 câu hỏi dành cho
học sinh học nghề đã tốt nghiệp ở Trường Trung cấp xây dựng (phụ lục 1), 01
bộ câu hỏi dành cho cán bộ quản lý tại các cơ sở sản xuất trên địa bàn Thành
phố Uông Bí (phụ lục 2), 01 bộ câu hỏi dành cho cán bộ, giáo viên của nhà
trường. (phụ lục 3), để tìm hiểu thực trạng đào tạo nghề và thực trạng về mối
liên kết đào tạo nghề giữa Trường TCXD với CSSX, các yếu tố có liên quan,
thu thập thông tin về tính khả thi của các biện pháp được đề xuất nhằm góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề của Trường Trung cấp xây dựng.
- Phương pháp phỏng vấn, đàm thoại: Phỏng vấn một số cán bộ quản
lý, giáo viên có kinh nghiệm của nhà trường nhằm làm sáng tỏ nội dung
nghiên cứu. Tiến hành trò chuyện, trao đổi trực tiếp với một số khách thể có
uy tín và kinh nghiệm trong công tác quản lý đào tạo nghề nhằm thu thập
thêm thông tin.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
- Phương pháp thống kê toán học: Xử lý và phân tích các số liệu, kết
quả điều tra, đồng thời để xác định mức độ tin cậy của việc điều tra và kết quả
nghiên cứu.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý liên kết đào tạo nghề giữa
Trường Trung cấp Xây dựng và CSSX.
- Đánh giá thực trạng về quản lý liên kết đào tạo nghề giữa Trường
Trung cấp Xây dựng với CSSX ở Thành phố Uông Bí, Quảng Ninh.
3
- Đề xuất các giải pháp quản lý liên kết đào tạo nghề giữa Trường
Trung cấp xây dựng với cơ sở sản xuất ở Thành phố Uông Bí, Quảng Ninh.
7. Giả thuyết khoa học

Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý tác động các
thành tố cấu trúc của quá trình liên kết đào tạo nghề giữa Trường Trung cấp
xây dựng với Cơ sở sản xuất trên địa bàn Thành phố Uông Bí, Quảng Ninh sẽ
nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho công nhân kỹ thuật ở Trường Trung
cấp xây dựng Uông Bí, Quảng Ninh.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận - Kiến nghị, Tài liệu tham khảo và
phụ lục, Nội dung nghiên cứu gồm:
Chương 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý liên kết đào tạo nghề
giữa Trường trung cấp xây dựng với cơ sở sản xuất.
Chương 2. Đánh giá thực trạng về đào tạo nghề, quản lý liên kết đào
tạo nghề giữa Trường Trung cấp Xây dựng với Cơ sở sản xuất trên địa bàn
Thành phố Uông Bí.
Chương 3. Các giải pháp quản lý liên kết đào tạo nghề giữa Trường
Trung cấp Xây dựng với Cơ sở sản xuất trên địa bàn Thành phố Uông Bí.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ LIÊN KẾT ĐÀO TẠO NGHỀ GIỮA
TRƯỜNG TRUNG CẤP XÂY DỰNG VỚI CƠ SỞ SẢN XUẤT
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã nêu:
“Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội, có cơ chế và
chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở
đào tạo" [7, 217].
Để đào tạo được đội ngũ lao động có chất lượng phù hợp với yêu cầu
của sản xuất trong điều kiện khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng hiện nay
thì việc liên kết đào tạo giữa nhà trường với các cơ sở sản xuất đang được các
nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài nước quan tâm.
Cho đến nay, đã có những công trình nghiên cứu, các báo cáo khoa học
liên quan đề cập trực tiếp về vấn đề kết hợp đào tạo tại trường và CSSX. Điển

hình là:
Đề tài nghiên cứu: “Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thức tổ chức đào
tạo nghề kết hợp tại trường và cơ sở sản xuất” Trong đề tài này, tác giả đã
phân tích một số hình thức kết hợp.[33]. Trên cơ sở nghiên cứu ở các nước
Mỹ La Tinh và đào tạo nghề song tuyến ở CHLB Đức, tác giả đã đề xuất thực
hiện một số mô hình kết hợp ở Việt Nam. Tuy nhiên, công trình chưa có điều
kiện để đề cập đến các vấn đề như: Cơ sở khoa học của kết hợp đào tạo nghề,
phương thức kết hợp đào tạo nghề, các điều kiện, nguyên tắc, phương pháp
thực hiện, quy trình kết hợp, các giải pháp để thực hiện kết hợp đào tạo nghề.
Năm 2004, Trường Trung cấp kỹ thuật xây dựng Hà nội có đề tài
nghiên cứu khoa học cấp thành phố “Các giải pháp gắn đào tạo với sử dụng
lao động của hệ thống dạy nghề Hà nội trong lĩnh vực xây dựng” [32]. Trong
đề tài tác giả đã phân tích mô hình đào tạo kép ở CHLB Đức, mô hình đào tạo
5
“luân phiên” (Alternation) ở Pháp và đưa ra một số giải pháp trong việc kết
hợp đào tạo giữa CSDN với các đơn vị sản xuất. Tuy nhiên, đề tài chưa có
điều kiện để phân tích các vấn đề như: Các cơ sở khoa học của kết hợp đào
tạo nghề, chưa nêu được mô hình kết hợp đào tạo nghề như ở các nước Châu
Á như : Trung Quốc, Thái Lan….mà tập trung vào đào tạo mô hình luân
phiên của Viện đào tạo luân phiên về xây dựng và các công trình công cộng
(LABTP) ở cộng hoà Pháp. Giải pháp đề ra chủ yếu tập trung vào: “Quan hệ
giữa nhà trường và đơn vị sản xuất” chưa đi sâu vào vấn đề kết hợp đào tạo.
Trong luận án tiến sỹ của tác giả Trần Khắc Hoàn đã phân tích và đưa
ra vấn đề “Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà trường và các đơn vị sản xuất”
[16]. Là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo. Song do
hướng nghiên cứu của đề tài nên tác giả chưa phân tích các cơ sở khoa học,
chỉ đề cập đến cách thức tiến hành tăng cường quan hệ của Nhà trường với
các đơn vị sản xuất một cách đơn phương, chưa đề cập phương thức kết hợp
đào tạo tổng quát ở Việt nam, chưa đưa ra các giải pháp đồng bộ để thực hiện
kết hợp đào tạo nghề tại trường và DNSX (do nhiệm vụ đề tài là tập trung giải

quyết các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo CNKT xây dựng thủ đô Hà
nội nên không đi sâu vào giải quyết lý luận và thực tiễn kết hợp đào tạo
nghề).
Đề tài nghiên cứu : “Nghiên cứu khả năng và điều kiện nhằm vận dụng
những yếu tố của hệ thống dạy nghề song tuyến của Cộng hòa liên bang Đức
vào các trường dạy nghề trực thuộc Xí nghiệp của Việt Nam”. Trong đề tài
này, tác giả phân tích mô hình dạy nghề kép (Dual System) ở Cộng hòa liên
bang Đức và vận dụng một số yếu tố phù hợp vào các trường dạy nghề trực
thuộc Xí nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề đưa ra chỉ tập trung trong
phạm vị các trường trực thuộc Xí nghiệp.
6
Năm 2005 Hoàng Ngọc Trí với luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật ở thủ đô Hà Nội”
[25]. Có đề cập đến mối quan hệ giữa trường nghề và đơn vị sản xuất.
Năm 2006, Nguyễn Văn Tuấn với Luận văn Thạc sỹ “Một số biện pháp
tăng cường quản lý đào tạo nghề ở Trường Đại học công nghiệp Hà nội”[ 27].
Có phân tích mối quan hệ giữa quản lý và chất lượng đào tạo nghề.
Tuy nhiên, do hướng nghiên cứu của những đề tài nêu trên chưa đề cập
tới các cơ sở khoa học của kết hợp đào tạo nghề mà tập trung giải quyết các
mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Trong đó, vấn đề kết hợp đào
tạo nghề và các giải pháp để kết hợp đào tạo nghề trong giai đoạn hiện nay
chưa nghiên cứu sâu.
Một số bài báo khoa học đăng trên các tạp chí của các nhà nghiên cứu
giáo dục điển hình như GS.TSKH Nguyễn Minh Đường, PGS. TS Nguyễn
Viết Sự, GS Vũ Văn Tảo, PGS. TS Nguyễn Tiến Đạt, PGS. TS Trần Khánh
Đức, PGS. TS Hà Thế Truyền, PGS. TS Phan Văn Kha và các nhà quản lý
giáo dục khác đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề quản lý liên
kết đào tạo nghề giữa các cơ sở đào tạo nghề và cơ sở sản xuất.
Trên đây là tổng quan vài nét cơ bản về tình hình nghiên cứu của các
công trình nghiên cứu khoa học điển hình, các bài báo khoa học liên quan đến

liên kết đào tạo nghề giữa nhà trường và DNSX.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1.
Khái niệm
quản

Quản lý là một hoạt động đặc biệt, là yếu tố không thể thiếu được trong
đời sống xã hội. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một
dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng". [4, 29-30]. Khái niệm quản lý đã
được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau:
Các tác giả Harol Koontz Cynil Odonnell và Heinz Weihich khẳng
định: "Quản lý là hoạt động thiết yếu đảm bảo sự nỗ lực của các cá nhân
7
nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức" [36, 31]. Theo F.W.Taylor: "Quản lý là
biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng
họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất" [4, 89]. Theo
Thomas.J.Robbins - Wayned Morrison: "Quản lý là một nghề nhưng cũng
là một nghệ thuật, một khoa học" [37, 19].
Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý:
Theo từ điển Tiếng Việt: "Quản lý là tổ chức và điều hành các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định" [30, 789].
Tác giả Mai Hữu Khuê cho rằng: "Quản lý là tác động có mục đích tới
tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục
đích đã định trước" [18, 19-20]. Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn: "Quản lý là sự
tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm
sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được
mục tiêu đặt ra trong điều kiện chuyển biến của môi trường" [28, 43].
Có thể nhận thấy những khái niệm nêu trên tuy nhấn mạnh mặt này hay
mặt khác, dù tiếp cận ở góc độ nào, lĩnh vực nào đi chăng nữa, ở cấp vĩ mô
hay vi mô đều có điểm chung thống nhất là coi quản lý là hoạt động có tổ

chức, có chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu
quản lý, giữa chúng có mối quan hệ với nhau thông qua những tác động quản
lý. Do vậy, chúng tôi có thể biểu thị sơ đồ khái niệm quản lý như sau:
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ về khái niệm quản lý
8
Chủ thể
quản lý
Đối tượng
quản lý
Mục tiêu
quản lý
Khách thể
quản lý
Qua sơ đồ khái niệm quản lý, tiếp cận theo quan điểm hệ thống thì
"quản lý" là một quá trình bao gồm các thành tố cấu trúc như: chủ thể quản
lý, đối trượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý… Nếu tiếp cận
theo quan điểm hoạt động thì "quản lý" là hoạt động có ý thức của chủ thể
quản lý.
Từ việc phân tích các khái niệm và quan điểm tiếp cận khác nhau về
quản lý, chúng tôi hiểu: Quản lý là hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý
nhằm điều khiển tác động lên đối tượng, khách thể quản lý để đạt được mục
tiêu của quản lý.
Toàn bộ hoạt động quản lý đều được thực hiện thông qua các chức
năng của nó, như chức năng lập kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng chỉ
đạo và chức năng kiểm tra, đánh giá. Nếu không xác định được chức năng
quản lý thì chủ thể quản lý không thể điều hành được hệ thống quản lý.
Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và
cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình xuất hiện theo. Trải qua
tiến trình lịch sử phát triển từ xã hội lạc hậu đến xã hội văn minh, trình độ sản

xuất, tổ chức điều hành xã hội cũng phát triển theo, đó là tất yếu lịch sử.
Ngược lại khi trình độ tổ chức điều hành xã hội phát triển sẽ thúc đẩy sự phát
triển của trình độ sản xuất, của nền văn minh xã hội. Như vậy, quản lý trở
thành nhân tố của sự phát triển xã hội. Quản lý trở thành một hoạt động phổ
biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến con người.
Quản lý có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội tùy theo
trình độ quản lý cao hay thấp.
1.2.2. Đào tạo nghề, cơ sở đào tạo nghề
Đào tạo nghề đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp
và kiến thức liên quan đến một số lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và
nắm vững kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp một cách có hệ thống nhằm chuẩn
9
bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một
công việc nhất định. Có nhiều dạng đào tạo nghề: Đào tạo cơ bản và đào tạo
chuyên sâu, đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa và
tự đào tạo…
Có rất nhiều định nghĩa về đào tạo nghề, sau đây xin được nêu một số
định nghĩa đó:
William Mc. Gehee (1979): Đào tạo nghề là những quy trình mà
những công ty sử dụng để tạo thuận lợi cho việc học tập sao cho kết quả hành
vi đóng góp vào mục đích và các mục tiêu của công ty.
Max Forter (1979): cũng đưa ra khái niệm đào tạo nghề phải đáp ứng
việc hoàn thành 4 điều kiện: Gợi ra những giải pháp ở người học, Phát triển
tri thức, kỹ năng và thái độ, Tạo ra sự thay đổi trong hành vi, Đạt được những
mục tiêu chuyên biệt.
Tack Soo Chung (1982): Đào tạo nghề là hoạt động đào tạo phát triển
năng lực lao động (tri thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp) cần thiết để đảm
nhận công việc được áp dụng đối với người lao động và những đối tượng sắp
trở thành người lao động.
ILO định nghĩa: Đào tạo nghề là nhằm cung cấp cho người học những

kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan tới công việc,
nghề nghiệp được giao.
Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có liên quan hữu cơ với nhau. Đó là:
Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo thành thục nhất định về nghề nghiệp.
Học nghề: Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực
hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định. Đào
tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động
để họ nắm vững nghề nghiệp chuyên môn.
10
Cơ sở dạy nghề: Là cơ sở giáo dục thực hiện hoạt động dạy và học
nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người
học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành
khoá học. Cơ sở dạy nghề theo Luật dạy nghề quy định bao gồm các trường
cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, các lớp dạy nghề [
2, 20].
1.2.3. Công nhân kỹ thuật
Công nhân kỹ thuật là người lao động trong lĩnh vực kỹ thuật, trực tiếp
vận hành các thiết bị, công cụ lao động để làm ra các sản phẩm cho xã hội
hoặc thực hiện các dịch vụ kỹ thuật trong các lĩnh vực kinh tế quốc dân, ví dụ
như người thợ hàn, thợ sửa chữa xe máy, người lái xe, lái máy xúc, Máy ủi…
Dù ở trình độ nào, ngành nghề nào thì để trở thành CNKT, người lao
động đều cần phải qua các khoá đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn để có những
năng lực cần thiết cho việc hành nghề.
Tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp của từng vị trí lao động mà thị trường
lao động đòi hỏi công nhân kỹ thuật có nhiều trình độ khác nhau.
Ở nhiều nước trên thế giới, CNKT được chia thành 3 trình độ: CNKT
bán lành nghề (semi- skilled worker), CNKT lành nghề (skilled worker) và
CNKT lành nghề trình độ cao (highly – skilled worker).

Những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ đã đề ra những yêu cầu mới
đối với người công nhân. Trong nền sản xuất hiện đại đòi hỏi người công
nhân phải có tư duy sáng tạo, biết giải quyết vấn đề trong quá trình vận hành
các phương tiện sản xuất hiện đại cũng như kiểm tra chất lượng sản phẩm với
chất lượng cao hơn, biết sử dụng phần mềm của các phương tiện tự động, vi
xử lý…
Ở nước ta trước đây CNKT chỉ được đào tạo ở mức độ lành nghề (bậc
3/7), ngày nay để chuẩn bị cho quá trình CNH - HĐH đất nước, Luật dạy
nghề 2006 đã quy định dạy nghề có 3 cấp trình độ: Sơ cấp nghề, Trung cấp
11
nghề và Cao đẳng nghề. Do vậy, CNKT cũng sẽ có 3 trình độ: Sơ cấp nghề,
Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề [21].
Tuỳ theo mức độ phức tạp của từng nghề để xác định các cấp trình độ
đào tạo của nghề đó, có nghề phải đào tạo ở cả 3 trình độ nhưng có nghề chỉ
cần đào tạo một đến hai cấp. Ví dụ: Với những nghề đơn giản như nghề mộc,
nề, chỉ đòi hỏi người CNKT trình độ Sơ cấp nghề hoặc Trung cấp nghề,
nhưng với những nghề phức tạp như nghề thợ tiện điều khiển máy công nghệ
cao, thợ sửa chữa thiết bị điện tử thì cần đến CNKT trình độ Cao đẳng nghề.
1.2.4. Đào tạo công nhân kỹ thuật
Đào tạo CNKT là một quá trình sư phạm có mục đích, có nội dung và
phương pháp, nhằm trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng và thái
độ cần thiết của người CNKT để họ có cơ hội tìm việc làm và có năng lực
hành nghề ở vị trí lao động theo yêu cầu sản xuất. Kết thúc khoá đào tạo,
người học được cấp bằng hoặc chứng chỉ để có thể hành nghề.
Năng lực hành nghề (Competency) của họ bao gồm 3 yếu tố: Kiến thức
(Knowledge), kỹ năng (Skill) và thái độ (Atitude) mà mỗi nghề đòi hỏi người
CNKT phải có để có thể hành nghề.
Kiến thức là những hiểu biết về các khái niệm, định nghĩa, nguyên lý,
quy tắc, phương pháp, sự kiện về công cụ lao động, đối tượng lao động, quy
trình công nghệ, sản phẩm lao động và những hiểu biết khác cần thiết cho

việc hành nghề. Những kiến thức này có được qua quá trình học nghề và
trong kinh nghiệm lao động sản xuất của bản thân.
Kỹ năng là sự thể hiện khả năng thực hiện thành thạo các công việc của
nghề theo yêu cầu sản xuất của thị trường lao động.
Thái độ nghề nghiệp là những phẩm chất đạo đức trong lao động như
tính trung thực, tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật, tính tập thể, tác phong
công nghiệp và các phẩm chất cần thiết khác để người CNKT có thể lao động
với chất lượng vµ hiệu quả.
12
Với sự phát triển phong phú và đa dạng của đào tạo nghề cũng như nhu
cầu rất đa dạng của người học và của thị trường lao động, ngày nay đang tồn
tại 3 loại hình đào tạo CNKT là đào tạo chính quy (fomal training), đào tạo
không chính quy (non - formal training) và đào tạo phi chính quy (informal
training). Theo Tổ chức Lao động quốc tế ILO các loại hình đào tạo này được
nhìn nhận như sau:
Đào tạo chính quy là loại hình đào tạo được thực hiện với chương trình
đào tạo được quy định khi người học tốt nghiệp một khoá đào tạo theo một
chương trình nào đó có thể tiếp tục theo học chương trình đào tạo có trình độ
cao hơn của hệ thống giáo dục quốc dân.
Đào tạo không chính quy là loại hình đào tạo được thực hiện với các
chương trình đào tạo thiết kế theo nhu cầu của người học hoặc người sử dụng
lao động mà khi học xong chương trình này người học có thể không được
thừa nhận để tiếp tục học trình độ cao hơn của hệ thống giáo dục quốc dân.
Đào tạo phi chính quy là loại hình đào tạo nhằm hình thành một số
năng lực cho người lao động, không theo một chương trình được quy định.
Với đặc điểm của đào tạo CNKT, thực hành là chủ yếu, quá trình đào
tạo có thể được thực hiện tại trường, tại Cơ sở sản xuất hoặc liên kết giữa
trường và Cơ sở sản xuất.
Tuỳ thuộc vào trình độ đào tạo, CNKT có thể được đào tạo tại các Cơ
sở đào tạo ngắn hạn như: Trung tâm dạy nghề, Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp -

Hướng nghiệp, Trung tâm Giáo dục thường xuyên…ở các Cơ sở đào tạo dài
hạn như: Trường trung cấp nghề, Trường CĐ nghề, Trường TCCN, Trường
Cao đẳng, Trường Đại học hoặc tại các Cơ sở sản xuất.
Tuỳ thuộc vào trình độ đào tạo, trình độ tưyển sinh cũng như thời gian
đào tạo CNKT có khác nhau. Theo Luật dạy nghề 2006, Dạy nghề được thực
hiện dưới 1 năm đối với đào tạo nghề trình độ Sơ cấp, từ 1 đến 3 năm đối với
trình độ Trung cấp và Cao đẳng.
13
1.2.5. Cơ sở sản xuất
Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao dịch được đăng
ký hoạt động theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện hoạt động sản xuất
các sản phẩm phục vụ đời sống xã hội.
1.2.6. Chất lượng đào tạo
Chất lượng đào tạo thường được đánh giá với nhiều phạm vi khác
nhau: Chất lượng của sản phẩm đào tạo (Học sinh/Sinh viên tốt nghiệp), chất
lượng của các cơ sở đào tạo và chất lượng của cả hệ thống đào tạo. Trong đề
tài này, chỉ đề cập đến chất lượng của sản phẩm đào tạo.
Hiện nay đang tồn tại nhiều khái niệm về chất lượng khác nhau. Trước
hết có hai loại quan niệm về chất lượng: Chất lượng tuyệt đối và chất lượng
tương đối.
- Chất lượng theo quan niệm tuyệt đối: Theo từ điển Tiếng Việt phổ
thông Chất lượng là tổng thể những chất, những thuộc tính cơ bản của sự vật,
sự việc làm cho sự vật, sự việc này phân biệt với sự vật, sự việc khác.
Trong Từ điển Oxford Pocket Dictionary: Chất lượng là mức hoàn
thiện, đặc trưng so sánh này hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ
liệu, các thông số cơ bản của một sự việc, sự vật nào đó.
Theo Định nghĩa trên, chất lượng là cái vốn có của sự vật, nó tồn tại
khách quan và mọi người phải thừa nhận nó. Tuy nhiên, trong thực tế không
phải lúc nào cũng như vậy. Nhiều khi một sự vật được coi là có chất lượng
đối với người này nhưng lại không có chất lượng đối với người khác, bởi lẽ

chất lượng của sự vật chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được sử dụng như thế nào.
- Chất lượng theo quan niệm tương đối: Khái niệm về chất lượng được
thừa nhận ở phạm vị quốc tế, đó là định nghĩa của Tổ chức tiêu chuẩn hoá
quốc tế. Theo Điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000-2000, chất lượng có khái
niệm là: Mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu.
14
Với khái niệm trên, chất lượng vừa mang tính chủ quan của người đánh
giá, vừa thay đổi theo thời gian, không gian và điều kiện sử dụng.
Căn cứ vào những khái niệm về chất nêu trên, với quan điểm tiếp cận
thị trường nguồn nhân lực, chất lượng đào tạo có thể được hiểu theo quan
niệm tương đối với khái niệm sau đây: Chất lượng đào tạo là mức độ đạt
được so với mục tiêu đào tạo được đề ra nhằm thoả mãn yêu cầu của khách
hàng.
Với phương pháp tiếp cận thị trường nguồn nhân lực, chất lượng đào
tạo có các tính chất đặc trưng sau đây:
- Chất lượng có tính tương đối: Khi đánh giá chất lượng phải đối chiếu,
so sánh với một thước đo nào đó thường được gọi là chuẩn. Trong đào tạo
CNKT, đó là các chuẩn công nghiệp của các cơ sở sản xuất hoặc của từng
ngành công nghiệp đề ra trong từng giai đoạn phát triển sản xuất và tuỳ thuộc
vào mức độ ứng dụng các tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ của họ.
- Chất lượng đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu của nhiều loại khách
hàng.
1.2.7. Liên kết đào tạo
Liên kết đào tạo là sự hợp tác, phối hợp giữa cơ sở đào tạo và các cơ sở
sản xuất để cùng nhau thực hiện những công việc nào đó của quá trình đào tạo
nhằm góp phần phát triển sự nghiệp đào tạo nhân lực cho đất nước đồng thời
mang lại lợi ích cho mỗi bên. Do vậy, quan hệ giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản
xuất là quan hệ cung - cầu, quan hệ giữa đào tạo và sử dụng nhân lực. Bởi vậy
sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo và các cơ sở sản xuất là không thể thiếu đối
với sự tồn tại và phát triển của mỗi bên trong cơ chế thị trường.

Trong thực tế, liên kết đào tạo giữa nhà trường và các cơ sở sản xuất có
nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu và khả năng của mỗi bên. Các
mức độ có thể kể đến là:
15
- Liên kết toàn diện là sự tham gia của các cơ sở sản xuất với cơ sở đào
tạo trong mọi lĩnh vực, mọi khâu của quá trình đào tạo. Với mức độ liên kết
này, các cơ sở sản xuất tham gia đầu tư trang thiết bị cho cơ sở đào tạo hoặc
tổ chức các phân xưởng đào tạo để cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất cùng sử
dụng, cử kỹ sư và công nhân cùng tham gia giảng dạy, tham gia với cơ sở đào
tạo từ khâu hướng nghiệp chọn nghề phù hợp để học, xây dựng mục tiêu, nội
dung chương trình đào tạo, tham gia đào tạo và đánh giá kết quả học tập của
học sinh, tham gia giới thiệu việc làm cho học sinh.
- Liên kết có giới hạn là sự liên kết chỉ được thực hiện trong một số lĩnh
vực hoặc trong một số khâu của quá trình đào tạo. Mức độ liên kết này phù
hợp với những trường hợp cả hai bên đối tác chưa có nhu cầu hoặc chưa có
điều kiện để hợp tác toàn diện. Ví dụ cơ sở sản xuất hàng năm nhận học sinh
của cơ sở đào tạo vào thực tập sản xuất, thực tập tốt nghiệp…
- Liên kết rời rạc là sự liên kết chỉ thực hiện trong một số lĩnh vực và
sự hợp tác này cũng có thể không thực hiện được thường xuyên mà chỉ thực
hiện khi có điều kiện.
Như vậy, sự liên kết giữa Nhà trường và các cơ sở sản xuất rất đa dạng,
tuỳ thuộc vào nhu cầu và điều kiện của mỗi bên, không thể áp đặt một cách
đồng loạt mặc dầu sự hợp tác sẽ mang lại lợi ích cho cả đôi bên.
1.3. Đào tạo Công nhân kỹ thuật và việc làm trong cơ chế thị trường
Trong cơ chế thị trường, học sinh - sinh viên tốt nghiệp các cơ sở đào
tạo đều phải tự tìm lấy việc làm. Trong khi đó, với chủ trương phân cấp quản
lý trong đào tạo, các cơ sở đào tạo được giao nhiều quyền chủ động hơn,
trong đó có quyền tuyển sinh và tổ chức các khoá đào tạo theo nhu cầu của xã
hội, của thị trường lao động. Do vậy, các cơ sở đào tạo cần có trách nhiệm xã
hội cao hơn, đặc biệt là với các học sinh - sinh viên tốt nghiệp ở cơ sở mình.

Đào tạo và việc làm của học sinh tốt nghiệp đã trở thành uy tín của cơ
sở đào tạo đồng thời cũng là vấn đề sống còn của mỗi cơ sở. Tuy nhiên đây
16
cũng đang là điểm yếu của hệ thống đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói
riêng ở nước ta. Để khắc phục được tình trạng này, việc đầu tiên là hệ thống
đào tạo cũng như các cơ sở đào tạo nghề cần xác định được nhu cầu về nhân lực
nói chung và CNKT nói riêng của các cơ sở sản xuất và của thị trường lao động.
1.3.1. Xác định nhu cầu về nhân lực - xuất phát điểm của Đào tạo CNKT
trong cơ chế thị trường.
Để học sinh - sinh viên tốt nghiệp có nhiều cơ hội tìm được việc làm,
điều quan trọng là hệ thống đào tạo cần xác định được nhu cầu về lao động kỹ
thuật nói chung và CNKT nói riêng của thị trường lao động.
Để đào tạo gắn được với yêu cầu của sản xuất, của thị trường lao động
điều quan trọng là phải xác định nhu cầu về nhân lực hàng năm cũng như
trong kế hoạch 5 năm. Xác định nhu cầu về nhân lực là một nhiệm vụ nhiệm
vụ rất quan trọng để kế hoạch hoá đào tạo.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) xác định nhu cầu về nhân lực
nhằm mục đích biết được các nhu cầu ngắn hạn và trung hạn của các cơ sở
sản xuất, của thị trường về lao động kỹ thuật để có thể chuyển thành nhu cầu
đào tạo.
Xác định nhu cầu đào tạo là một trong những điều kiện để xây dựng
các chương trình, kế hoạch đào tạo CNKT các nghề và trình độ khác nhau
một cách có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm đáp ứng tối đa LĐKT cho nhu
cầu của cơ sở sản xuất, nhằm đạt được sự liên kết đào tạo có hiệu quả giữa
Nhà trường và các cơ sở sản xuất.
Với cơ sở Dạy nghề, xác định nhu cầu CNKT của các cơ sở sản xuất là
một trong những tiền đề quan trọng để xây dựng kế hoạch đào tạo và triển
khai các chương trình đào tạo một cách có cơ sở khoa học và thực tiễn, nhằm
đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, của thị trường lao động về chất và
góp phần giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa nhu cầu của khách hàng và khả

17
năng của mình bằng cách xác định các ưu tiên trong việc mở các khoá đào tạo
theo các trình độ và ngành nghề khác nhau.
1.3.2. Các phương pháp xác định nhu cầu về CNKT
1.3.2.1. Phương pháp điều tra, phỏng vấn các cơ sở sản xuất đối tác
Trong phạm vi hoạt động của mình, mỗi cơ sở dạy nghề đều có những
cơ sở sản xuất là đối tác, những cơ sở sản xuất này sử dụng học sinh sinh viên
tốt nghiệp của cơ sở dạy nghề hàng năm. Do vậy, tổ chức điều tra phỏng vấn
họ để có được nhu cầu đào tạo CNKT trước mắt cũng như kế hoạch phát triển
nhân lực của họ trong một tương lai gần là điều cần thiết cho việc tổ chức các
khoá đào tạo phù hợp cũng như chuẩn bị cho việc kế hoạch hóa đào tạo tương
lai của Nhà trường.
Điều tra về nhu cầu CNKT của cơ sở sản xuất có thể thực hiện trực tiếp
ở từng cơ sở sản xuất là đối tác của cơ sở dạy nghề và cũng có thể tiến hành
hội nghị khách hàng hàng năm.
1.3.2.2. Phương pháp điều tra theo dấu vết học sinh - sinh viên tốt nghiệp ở
các cơ sở sản xuất
Một biện pháp khá hữu hiệu để xác định nhu cầu về CNKT, đặc biệt về
mặt chất lượng và là phương pháp điều tra theo dấu vết học sinh, sinh viên tốt
nghiệp đã tìm được việc làm và đang lao động ở các cơ sở sản xuất. Những
học sinh sau khi tốt nghiệp trong quá trình lao động nghề nghiệp sẽ hiểu rõ
hơn ai hết chất lượng của chương trình họ đã được đào tạo đáp ứng được yêu
cầu của sản xuất tới mức độ nào, những nội dung nào phù hợp, nội dung nào
là không cần thiết và nội dung nào cần mà họ chưa được học.
Trên cơ sở đó hoàn thiện hơn về cơ cấu ngành nghề và trình độ nhằm
mục đích điều chỉnh các chương trình đào tạo cũng như số lượng tuyển sinh
của ngành nghề và trình độ trong tương lai cho phù hợp với nhu cầu về nhân
lực của cơ sở sản xuất là đối tác của mình để có thể tổ chức các khoá đào tạo
18
cho phù hợp. Ngược lại, các nhà sản xuất cũng hoạch định kế hoạch phát triển

nhân lực đáp ứng các mục tiêu của sản xuất qua giai đoạn phát triển.
1.3.3. Đào tạo CNKT phải tuân thủ các quy luật của thị trường
Để đào tạo gắn được với việc làm của học sinh sinh viên tốt nghiệp, cơ
sở đào tạo cần quan tâm đến một số vấn đề sau đây:
1.3.3.1. Quy luật cung cầu
Trong cơ chế thị trường với nền kinh tế nhiều thành phần, xác định nhu
cầu đào tạo là bước khởi đầu quan trọng để phát triển đào tạo bởi lẽ nhiệm vụ
cơ bản của hệ thống đào tạo là cung cấp nhân lực cho nhu cầu phát triển sản
xuất, cho nhu cầu của thị trường lao động. Thị trường lao động tuy có những
nét rất đặc thù, tuy nhiên nó cũng phải tuân theo những quy luật tất yếu của
thị trường, trước hết là quy luật cung - cầu.
Đào tạo giữ một vai trò quan trọng trong việc cung cấp CNKT cho thị
trường lao động. Theo quy luật cung cầu, nếu đào tạo CNKT cho một số
ngành nghề và trình độ nào đó đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động
về chất cũng như về lượng thì một mặt sẽ tạo điều kiện để sản xuất phát triển
mặt khác cũng kích thích thị trường lao động phát triển. Nhưng nếu đào tạo
không đủ CNKT cho một số ngành nghề nào đó, cung không đủ cho cầu thì
sản xuất sẽ không phát triển được và một số doanh nghiệp phải nhập khẩu lao
động kỹ thuật. Ngược lại nếu đào tạo quá nhiều, cung vượt quá cầu thì một số
CNKT được đào tạo ra sẽ không tìm được việc làm và sẽ phải thất nghiệp.
Do vậy, đào tạo CNKT phải gắn với nhu cầu của thị trường lao động
luôn biến động.
1.3.3.2. Quy luật giá trị
Với quy luật giá trị, lao động kỹ thuật cũng như các cơ sở đào tạo nhân
lực có chất lượng khác nhau phải được đối sử khác nhau, không thể cào bằng
trong chính sách đào tạo cũng như chính sách sử dụng lao động kỹ thuật. Có
19
như vậy mới kích thích được sự phấn đấu vươn lên của người học cũng như
của các cơ sở đào tạo để đạt chất lượng cao.
Để đào tạo có chất lượng cao, sản phẩm đào tạo có giá trị được xã hội

chấp nhận, cơ sở đào tạo phải được đầu tư và tự đầu tư một cách thích đáng
để có đủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo. Chất lượng của sản phẩm
phụ thuộc vào giá thành làm ra sản phẩm đó.
1.3.3.3. Quy luật cạnh tranh
Trong cơ chế thị trường, những người lao động được đào tạo với chất
lượng thấp sẽ ít có cơ hội tìm được việc làm và những cơ sở đào tạo kém chất
lượng cũng sẽ dần dần bị xã hội đào thải. Do vậy, trong cơ chế thị trường
ngoài quy luật cung cầu, cạnh tranh là một quy luật tất yếu. Cạnh tranh lành
mạnh là động lực cho sự phát triển.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường, các quy luật cơ bản của thị trường là
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, và quy luật cạnh tranh có tác động mạnh
mẽ đến hệ thống đào tạo CNKT.
1.4. Mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất
1.4.1. Mối liên kết giữa cơ sở đào tạo với cơ sở sản xuất và nguyên lý giáo
dục “Học đi đôi với hành”
“Học đi đôi với hành, học tập kết hợp với lao động sản xuất, đào tạo
gắn với sử dụng” đã trở thành một nguyên lí giáo dục có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong đào tạo nghề. Nguyên lý này đã được các tác giả kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định từ lâu và lịch sử tiến hoá của loài
người cũng đã chứng minh rằng chỉ có thông qua lao động sản xuất loài người
mới tồn tại và phát triển.
Lịch sử của loài người từ thời nguyên thuỷ, qua thời kì đồ đá, đồ đồng
cho đến nay là lịch sử phát triển của phương tiện và công cụ lao động sản
xuất, trong quá trình lao động, loài người thế hệ trước đã truyền thụ kinh
nghiệm sản xuất cho thế hệ sau và giáo dục đã ra đời. Do vậy, chỉ có học tập
20
gắn với lao động sản xuất thì giáo dục mới phát triển và cũng do vậy, nhà
trường gắn với cơ sở sản xuất đã từ lâu trở thành sự thể hiện của nguyên lý
“Học đi đôi với hành, học tập kết hợp với lao động sản xuất”.
Trong đào tạo nghề, thời gian học thực hành chiếm khoảng 60 - 80%

tổng thời lượng phụ thuộc vào từng nghề và trình độ đào tạo. Đây là một tỉ lệ
lớn khăng khít, gắn bó với cơ sở sản xuất. Tuy nhiên điều đáng quan tâm ở
đây là thực hành lao động sản xuất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội và trong quá trình phát triển nhân cách của con người so với sự
lao động bình thường của mỗi con người. Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu về
dạy nghề cho rằng, học thực hành nghề trong môi trường sản xuất của các cơ
sở sản xuất là tốt nhất, vì ở đó học sinh không chỉ có điều kiện để hình thành
nhanh chóng những kỹ năng nghề nghiệp sản xuất yêu cầu mà còn được tiếp
cận với môi trường sản xuất thực với nhịp độ khẩn trương của sự phấn đấu để
không ngừng nâng cao năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm. Cũng
chính ở đó học sinh sinh viên được rèn luyện tác phong công nghiệp trong
điều kiện sản xuất thực tế, điều mà khi học ở nhà trường học sinh không thể
có được, học đi đôi với hành còn có một ý nghĩa là lý luận phải gắn với thực
tiễn. Hồ Chủ Tịch cũng nêu rõ: “Lý luận không có thực tiễn là lý luận suông,
thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù”. Học lý luận phải được kiểm
chứng bằng thực tiễn, ngược lại thực tiễn phải được soi đường bằng lý luận
đó là triết lý của mối quan hệ giữa nhà trường và cơ sở sản xuất.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII cũng chỉ ra: “Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên
cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn
liền với gia đình và xã hội”.[5, 30].
Với những lý do trên, mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và cơ sở xuất là
sự thể hiện tất yếu và hoàn thiện nhất của nguyên lý học đi đôi với hành, học
tập kết hợp với lao động sản xuất trong đào tạo nghề.
21
Để thiết lập được mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất một
cách bền vững cần làm sáng tỏ được bản chất của mối quan hệ này.
1.4.1.1 Quan hệ cung cầu
Đào tạo và sử dụng nhân lực có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau,
trước hết, đó là quan hệ cung cầu, nhà trường cung ứng CNKT và các loại lao

động kỹ thuật khác cho các cơ sở sản xuất và ngược lại các cơ sở sản xuất tiếp
nhận CNKT từ các cơ sở đào tạo để phát triển sản xuất theo yêu cầu của
mình. Do vậy cơ sở đào tạo cần biết nhu cầu về CNKT và các loại LĐKT
khác của các cơ sở sản xuất là khách hàng của mình để lập kế hoạch và tổ
chức các khoá đào tạo cho phù hợp về ngành nghề và trình độ. Ngược lại các
cơ sở sản xuất cần hiểu được khả năng đào tạo của các cơ sở đào tạo để có
được đơn đặt hàng theo nhu cầu LĐKT của mình trong từng giai đoạn phát
triển sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, nếu mối quan hệ giữa nhà trường và các cơ sở
sản xuất không được thiết lập hoặc thiết lập một cách hình thức trên quan hệ
xin cho thì tất yếu dẫn đến tình trạng LĐKT vừa thừa lại vừa thiếu như tình
trạng hiện nay và quy luật cung cầu không được tuân thủ đến một chừng mực
nào đó sẽ gây nên khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu về lao động kỹ
thuật và sản xuất bị đình trệ ngược lại nhà trường cũng không thể phát triển.
1.4.1.2. Quan hệ nhân quả
Mối quan hệ giữa đào tạo và sản xuất còn mang tính triết lý nhân quả
cái nọ làm tiền đề cho cái kia phát triển và ngược lại.
Sản xuất phát triển, nhu cầu về CNKT và các loại LĐKT khác ngày
càng tăng tạo điều kiện thúc đầy hoạt động đào tạo của cơ sở đào tạo phát
triển, đào tạo càng phát triển, quy mô đào tạo ngày càng tăng và chất lượng
đào tạo ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu CNKT về chất cũng như
về lượng trong sản xuất. Cứ như vậy các đối tác bên nọ thúc đẩy và tạo điều
kiện cho bên kia phát triển một cách thuận chiều.
22
Ngược lại, nếu đào tạo không phát triển, quy mô và chất lượng đào tạo
ngày càng giảm, không có đủ CNKT đáp ứng được yêu cầu của sản xuất về
chất cũng như về lượng làm cho sản xuất không đủ cạnh tranh và ngày càng
đình trệ nhu cầu về nhân lực giảm, CNKT tốt nghiệp ra không có cơ hội tìm
việc làm khả năng đầu tư cho cơ sở đào tạo và uy tín của cơ sở đào tạo ngày
càng giảm và cứ thế cái nọ kéo theo cái kia ngày càng đi xuống theo một triết

lý nhân quả.
Bởi vậy, thiết lập mối liên kết hữu cơ giữa cơ sở đào tạo và các cơ sở
sản xuất nhằm mục đích hai bên cùng hợp tác gắn bó để hỗ trợ nhau cùng
phát triển.
1.4.2. Nội dung của mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất
Mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất phải được thiết lập
trên quan điểm hệ thống, có nghĩa là một quan hệ trên nhiều lĩnh vực, với
nhiều phương thức, bởi lẽ mục tiêu cuối cùng của mối quan hệ này là để cơ sở
đào tạo và cơ sở sản xuất cùng nhau tác động để nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo CNKT theo yêu cầu của sản xuất mà chất lượng và hiệu quả thì
chịu tác động của hàng loạt nhân tố trong cũng như ngoài trường.
Những nội dung chính mối quan hệ này có thể liệt kê ra như sau:
1.4.2.1 Trao đổi thông tin về nhu cầu đào tạo các ngành nghề và trình độ
CNKT
Trong cơ chế thị trường, đánh giá nhu cầu đào tạo là bước đầu quan
trọng của việc phát triển một chương trình đào tạo hay tổ chức một khoá đào
tạo. ngoài việc xây dựng một hệ thống thông tin về thị trường lao động, các
cơ sở đào tạo cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ thường xuyên với các doanh
nghiệp là khách hàng của mình để có những thông tin về nhu cầu nhân lực
của họ cả về chất lượng và số lượng. Cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất cần có
sự trao đổi thông tin thường xuyên hàng năm cũng như kế hoạch phát triển 5
năm để từ đó cơ sở đào tạo lập kế hoạch tuyển sinh và đào tạo các khoá học
23
cho phù hợp còn cơ sở sản xuất thì có cơ hội tìm được người lao động đáp
ứng được yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
Nếu các cơ sở đào tạo không có được thông tin về nhu cầu đào tạo của
các đơn vị sản xuất kinh doanh mà tuyển sinh theo chỉ tiêu được phân phối
một cách quan liêu duy ý chí như hiện nay thì không tránh khỏi vừa thừa vừa
thiếu LĐKT.
Trao đổi thông tin về nhu cầu đào tạo nhân lực nhằm các mục đích sau đây:

*Với cơ sở đào tạo:
- Tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo biết được nhu cầu về CNKT thuộc
các ngành nghề cũng như trình độ để hoạch định được các kế hoạch đào tạo
và tổ chức được các chương trình đào tạo cũng như tuyển sinh phù hợp với
nhu cầu của sản xuất của thị trường lao động.
- Cung cấp thông tin cho cơ sở đào tạo về sự phù hợp của các chương
trình đào tạo những nội dung cần cải tiến bổ sung hoặc cần thay đổi cho phù
hợp với yêu cầu của sản xuất.
*Với các cơ sở sản xuất:
- Biết được những thông tin đầy đủ về khả năng đào tạo của cơ sở đào
tạo về ngành nghề và các trình độ CNKT cũng như những chương trình đào
tạo mà cơ sở đào tạo có thể cung cấp nhân lực cho các cơ sở sản xuất.
- Giúp các cơ sở sản xuất có cơ hội tuyển chọn được những CNKT phù
hợp với yêu cầu.
*Với người học :
- Được hướng nghiệp và tư vấn nghề, giúp học sinh chọn được nghề
phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như năng lực bản thân để học.
- Giúp học sinh tốt nghiệp có nhiều cơ hội để tìm việc làm.
* Với người lao động:
- Biết được những loại hình công việc còn nhiều vị trí CNKT bị thiếu
để hỗ trợ những người đang tìm việc có thể tìm được một việc làm càng
nhanh càng tốt.
24
1.4.2.2. Cơ sở sản xuất tham gia với cơ sở dạy nghề trong việc xây dựng
chương trình đào tạo
Theo phương pháp tiếp cận mục tiêu trong đào tạo, mục tiêu đào tạo là
yếu tố quan trọng hàng đầu của một chương trình đào tạo. Nó là cơ sở để xây
dựng nội dung chương trình cũng như để đánh giá chất lượng đào tạo và cũng
là định hướng cho người học trong quá trình học tập.
Mục tiêu đào tạo là những kiến thức, kỹ năng, thái độ mà người học

phải đạt được với những chuẩn được quy định để sau khi học xong một
chương trình đào tạo có thể hành nghề.
Với phương pháp tiếp cận thị trường, những chuẩn này phải xuất phát
từ yêu cầu của sản xuất, của thị trường lao động chứ không phải do hệ thống
đào tạo tự đặt ra như hiện nay.
Với cách tiếp cận như trên, trong quá trình xác định mục tiêu, chuẩn
chương trình và nội dung đào tạo cho các ngành nghề, các trình độ CNKT
không thể không có sự tham gia của các cơ sở sản xuất.
Mặc khác, nội dung chương trình đào tạo cần được thường xuyên phát
triển cập nhật hiện đại hoá cho phù hợp với công nghệ sản xuất đang ứng
dụng và sẽ được ứng dụng trong tương lai. Chỉ có thiết lập được mối quan hệ
giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất thì nhà trường mới thực sự đáp ứng được
yêu cầu về chất lượng của cơ sở sản xuất, HSSV tốt nghiệp mới có cơ hội tìm
được việc làm và nâng cao được hiệu quả đào tạo.
1.4.2.3 Các cơ sở sản xuất tham gia với cơ sở đào tạo trong quá trình tổ chức
đào tạo
Đào tạo CNKT là một lĩnh vực tốn kém cần nhiều trang thiết bị, đặc
biệt là trong dạy thực hành, những trang thiết bị của cơ sở đào tạo bao giờ
cũng lạc hậu so với cơ sở sản xuất, bởi lẽ trong cơ chế thị trường cạnh tranh
với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sản xuất phải thay đổi
25

×